Giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất ớt
chỉ thiên trên địa bàn tỉnh Trà Vinh
Từ các kết quả nghiên cứu, chúng tôi đề
xuất các giải pháp sau để nâng cao hiệu quả
sản xuất ớt chỉ thiên của nông hộ:
- Sử dụng lượng phân, điện và lao động
hợp lí hơn. Kết quả cho thấy các nông hộ sử
dụng các nguồn lực này còn lãng phí so với
lượng khuyến cáo mà nông hộ sử dụng. Vì
thế mô hình sản xuất ớt chỉ thiên chưa mang
lại hiệu quả kinh tế cao cho nông hộ tại tỉnh
Trà Vinh. Vì vậy, để đạt được hiệu quả cao,
nông hộ cần có kế hoạch phân bố nguồn lực
hợp lí hơn (phân bón, điện và lao động) trong
quá trình sản xuất để đạt hiệu quả tối ưu, giúp
nông hộ tiết kiệm một lượng chi phí đáng kể
các yếu tố đầu vào trong quá trình sản xuất.
- Phòng Nông nghiệp huyện Cầu Ngang
và Phòng Nông nghiệp huyện Trà Cú cần
quy hoạch lại diện tích trồng ớt chỉ thiên ở
hai huyện, tránh tình trạng nông dân trồng tự
phát và chạy theo phong trào làm ảnh hưởng
đến thị trường tiêu thụ (cung vượt cầu), từ
đó giá giảm thấp gây thua lỗ cho nông dân.
Cán bộ khuyến nông kết hợp với viện, trường
thường xuyên mở lớp tập huấn kĩ thuật trồng
ớt chỉ thiên cho nông dân.
- Nông dân cần thay đổi tập quán sản xuất
theo hình thức truyền thống, nắm bắt và ứng
dụng khoa học kĩ thuật mới vào sản xuất,
giảm chi phí, tăng năng suất. Ủy ban nhân
dân xã cùng với các ban ngành đoàn thể địa
phương xây dựng hệ thống thông tin về thị
trường để nông dân kịp thời nắm bắt. Mặt
khác, nông dân cũng cần có sự kết nối với
các hợp tác xã cung cấp giống và thu mua
để hạn chế tình trạng bị ép giá. Nông hộ sản
xuất ớt chỉ thiên phải chủ động tiếp cận thông
tin thị trường, các yếu tố sản xuất từ đầu vào
cho đến đầu ra.
13 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 1 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá hiệu quả sản xuất ớt chỉ thiên của nông hộ tại tỉnh Trà Vinh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠPCHÍ KHOAHỌCTRƯỜNGĐẠI HỌCTRÀVINH, SỐ 36, THÁNG 12NĂM2019 DOI: 10.35382/18594816.1.36.2019.316
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ SẢN XUẤT ỚT CHỈ THIÊN
CỦA NÔNG HỘ TẠI TỈNH TRÀ VINH
Ngô Thanh Trắc1, Sơn Thị Thanh Nga2, Dương Ngọc Thành3
ASSESSING THE PRODUCTION EFFICIENCY OF CHILI FARMERS
IN TRA VINH PROVINCE
Ngo Thanh Trac1, Son Thi Thanh Nga2, Duong Ngoc Thanh3
Tóm tắt – Đề tài được thực hiện nhằm
đánh giá hiệu quả sản xuất và phân tích các
yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất của
hộ trồng ớt chỉ thiên tại tỉnh Trà Vinh. Kết
quả nghiên cứu dựa trên số liệu thu thập từ
125 nông hộ trồng ớt chỉ thiên tại tỉnh Trà
Vinh. Chúng tôi sử dụng phương pháp thống
kê mô tả, phân tích chi phí và lợi nhận, màng
bao dữ liệu (DEA) và mô hình hồi quy Tobit
để đánh giá: hiệu quả tài chính, hiệu quả kĩ
thuật, phân phối, hiệu quả chi phí/kinh tế và
các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất
ớt chỉ thiên. Kết quả cho thấy năng suất trung
bình là 16,6 tấn/ha, lợi nhuận trung bình là
101,1 triệu đồng/ha. Tỉ số lợi nhuận trên chi
phí là 1,56. Các yếu tố ảnh hưởng đến năng
suất ớt chỉ thiên là lượng giống, phân đạm,
phân lân, phân kali, điện và lao động. Mức
hiệu quả kĩ thuật đạt được là 77%. Mức kém
hiệu quả kĩ thuật trong sản xuất do chưa đạt
hiệu quả tối ưu gây lãng phí sản xuất khoảng
5,5 tấn/ha. Mức hiệu quả sản xuất đạt được
21,5 tấn/ha. Những nhân tố ảnh hưởng đến
hiệu quả kinh tế của nông hộ gồm trình độ
1Dự án AMD Trà Vinh
2Khoa Nông nghiệp - Thủy sản, Trường Đại học Trà Vinh
3Trường Đại học Cần Thơ
Ngày nhận bài: 7/9/2019; Ngày nhận kết quả bình duyệt:
22/2/2020; Ngày chấp nhận đăng: 4/3/2020
Email: ttrac81@gmail.com
1Adaption to Climate Change in The Mekong Delta in
Tra Vinh Province
2School of Agriculture and Aquaculture, Tra Vinh Uni-
versity
3Can Tho University
Received date: 7th September 2019; Revised date: 22nd
February 2020; Accepted date: 4th March 2020
học vấn, kinh nghiệm sản xuất, tham gia tập
huấn và tham gia đoàn thể.
Từ khóa: hiệu quả kinh tế, hiệu quả kĩ
thuật, ớt, phân tích màng bao dữ liệu, tỉnh
Trà Vinh.
Abstract – The study was conducted to
evaluate the production efficiency and to
analyze the factors affecting the produc-
tion efficiency of chili farmers in Tra Vinh
Province. The results of the study was based
on data collected from 125 farmers growing
chili in Tra Vinh Province. Using descriptive
statistical methods, cost and benefit analy-
sis, data envelope analysis (DEA) and the
Tobit regression model to evaluate various
contributing factors such as: financial effi-
ciency, technical efficiency (TE), allocative
efficiency (AE), cost efficiency/economic ef-
ficiency (CE/EE), and other factors effect-
ing the efficiency of chili production. The
results show that the average yield is 16.6
tons/ha, the average profit is 101.1 million
VND/ha, the ratio of profit/cost is 1.56 per
annum. Factors affecting chili productivity
are the amount of seed, nitrogen, phosphate,
potassium, electricity and labor. The level
of technical efficiency achieved is 77%, with
low efficiency due to optimum efficiency and
waste production of about 5.5 tons/ha. The
level of production efficiency achieved is
21.5 tons/ha. Factors effecting the economic
efficiency of households include education
levels, production experience, training and
union participation.
51
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 36, THÁNG 12 NĂM 2019 NÔNG NGHIỆP - THỦY SẢN
Keywords: chili, data envelopment anal-
ysis, economic efficiency, technical effi-
ciency, Tra Vinh Province.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Sản xuất nông nghiệp luôn là định hướng
quan trọng của tỉnh Trà Vinh trong khu vực
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Đồng
thời, tỉnh Trà Vinh cũng được xem là nơi
chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí
hậu, nhất là khu vực ven biển. Các yếu tố
tự nhiên, kinh tế – xã hội của tỉnh có tác
động rất lớn đến đời sống của người dân ở
nông thôn (hộ nghèo, hộ cận nghèo, chủ hộ
là phụ nữ người dân tộc Khmer). Tỉnh Trà
Vinh sẽ có xu hướng chuyển đổi trong sản
xuất để ổn định, gia tăng sinh kế cho người
dân và thích ứng với sự thay đổi của điều
kiện tự nhiên dưới tác động của biến đổi khí
hậu [1]. Việc định hướng sử dụng đất nông
nghiệp, tạo sinh kế và gia tăng thu nhập cho
người dân nông thôn luôn được tỉnh quan tâm
hàng đầu.
Trước thực trạng trên, tỉnh Trà Vinh đã
chủ trương chuyển đổi cây trồng từ độc canh
cây lúa sang xen canh một số cây trồng có
khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu như
bắp, đậu phộng, mía, dừa, đặc biệt là cây
ớt chỉ thiên [2]. Việc chuyển đổi đất trồng
lúa kém hiệu quả sang trồng ớt chỉ thiên là
một việc làm có ý nghĩa, ngoài việc tạo thêm
thu nhập cho người dân trên một đơn vị diện
tích, nó còn góp phần giải quyết việc làm
cho lao động nhàn rỗi tại địa phương, xóa
đói giảm nghèo ở khu vực nông thôn. Đồng
thời, việc chuyển đổi cây trồng này còn tạo
nguồn nguyên liệu phục vụ cho ngành công
nghiệp chế biến và xuất khẩu.
Tuy nhiên, việc sản xuất ớt chỉ thiên của
phần lớn nông hộ ở tỉnh Trà Vinh vẫn mang
tính nhỏ lẻ, manh mún; thói quen sản xuất
chủ yếu dựa vào kinh nghiệm của bản thân,
việc ứng dụng kĩ thuật sản xuất hiện đại vào
sản xuất còn hạn chế. Do đó, năng suất chưa
cao. Các hộ gia đình chưa phát huy hết lợi thế
và tiềm năng của vùng, điều này khiến thu
nhập của các hộ sản xuất ớt chỉ thiên ở tỉnh
Trà Vinh chưa đạt mức tối ưu. Vì thế, nghiên
cứu nhằm đánh giá thực trạng sản xuất, các
yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất; đồng
thời, chúng tôi đưa ra giải pháp để nâng cao
hiệu quả sản xuất ớt chỉ thiên cho các nông
hộ ở tỉnh Trà Vinh.
II. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
Cây ớt có tên khoa học là Capsicum an-
nuum L, thuộc họ cà (Solanaceae). Ớt là món
ăn gia vị thường thấy trong hầu hết các gia
đình người Việt Nam cũng như người nước
ngoài [3]. Cây ớt được xem là một loại rau
gia vị có giá trị kinh tế cao, được trồng
rộng rãi trong cả nước. Ớt là nguồn cung cấp
nguyên liệu cho các nhà máy, các công ti sản
xuất mặt hàng thực phẩm, mang lại lợi nhuận
cao [4]. Trung Quốc là thị trường tiêu thụ ớt
cao nhất trong năm 2007, với 40% tổng kim
ngạch xuất khẩu của nước ta xuất sang thị
trường này, tương đương trên 180.000 USD.
Tiếp theo là các thị trường Singapore và Đài
Loan với kim ngạch xuất khẩu lần lượt chiếm
27,0% và 20,5% tổng kim ngạch xuất khẩu
mặt hàng này của Việt Nam [5].
ĐBSCL có sáu tỉnh trồng ớt với diện tích
lớn là Đồng Tháp, An Giang, Tiền Giang,
Sóc Trăng, Vĩnh Long và Trà Vinh. Tổng
diện tích trồng ớt của sáu tỉnh này năm 2015
khoảng 7.079 ha, sản lượng đạt 97.951 tấn.
Đây là cây trồng chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
giảm nghèo [6]. Ớt được sản xuất tập trung
ở huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp, đây
là sản phẩm có lợi thế cạnh tranh cao về độ
cay so với trồng ở các vùng khác [6].
Tỉnh Trà Vinh có tổng diện tích ớt cay
(bao gồm ớt chỉ thiên, ớt sừng) năm 2015
khoảng 771,07 ha, năng suất trung bình là
14,82 tấn/ha/vụ, tập trung nhiều nhất ở các
huyện Trà Cú, Cầu Ngang và Châu Thành
[7].
Kết quả nghiên cứu hiệu quả kinh tế trồng
ớt chỉ thiên tại xã Kiến An, huyện Chợ Mới
tỉnh An Giang cho thấy trồng ớt chỉ thiên chi
phí đầu tư ban đầu không nhiều, tốn ít công
chăm sóc, bình quân 1 ha ớt chỉ thiên sẽ đạt
150 triệu đồng. Từ hiệu quả kinh tế đem lại,
đặc biệt là có sự liên kết bao tiêu sản phẩm
hằng năm với Công ty TNHH Xuất nhập
52
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 36, THÁNG 12 NĂM 2019 NÔNG NGHIỆP - THỦY SẢN
khẩu Nông sản Tiến Phát, người dân đã yên
tâm mở rộng diện tích. Đây đang là hướng
đi mới trong phát triển kinh tế, góp phần đa
dạng hóa cây trồng, tăng thu nhập cho người
dân trong xã [8]. Giống ớt Gs 888 Gold có
khả năng sinh trưởng vượt trội, chống chịu
được sâu bệnh gây hại, cành nhánh nhiều,
thích hợp với nhiều loại đất. Thời gian từ khi
trồng đến khi thu hoạch là 90 – 95 ngày. Nếu
chăm sóc tốt, năng suất đạt từ 8 – 10 tấn/ha,
giá bán bình quân cho công ti là 32.000đ/kg
quả tươi, lợi nhuận mang lại cao hơn từ ba
đến bốn lần so với các loại cây trồng ngắn
ngày khác trên cùng một diện tích [9].
Các nghiên cứu cho thấy nguồn nhân lực
là một trong những yếu tố đầu vào quan trọng
trong sản xuất nông nghiệp, trong đó trình độ
học vấn, kinh nghiệm sản xuất là những đặc
tính đặc trưng của yếu tố nhân lực. Nông dân
có trình độ học vấn cao và nhiều kinh nghiệm
sẽ đạt hiệu quả sản xuất cao hơn những nông
dân khác [10]. Bên cạnh đó, nếu người lao
động có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất
thì việc lựa chọn kĩ thuật canh tác, sử dụng
giống, phân bón và thuốc hóa học sẽ hiệu
quả, năng suất sản xuất sẽ càng cao [11].
III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
* Phương pháp thu thập dữ liệu
- Số liệu thứ cấp của đề tài nghiên cứu
được thu thập từ các báo cáo thống kê,
báo cáo của Sở Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn tỉnh Trà Vinh, Phòng Nông nghiệp
huyện Cầu Ngang và Phòng Nông nghiệp
huyện Trà Cú.
- Số liệu sơ cấp được thu thập bằng cách
phỏng vấn trực tiếp 125 nông hộ trồng ớt
chỉ thiên tại hai huyện Cầu Ngang và Trà
Cú của tỉnh Trà Vinh năm 2018, thông qua
bảng câu hỏi được soạn sẵn. Đây là hai huyện
có diện tích trồng ớt chỉ thiên chiếm 46,72%
của tỉnh Trà Vinh [7]. Các hộ được chọn bằng
phương pháp điều tra ngẫu nhiên. Với số mẫu
quan sát trên, cơ cấu mẫu được phân bố như
Bảng 1. Các nông hộ trồng ớt chỉ thiên tại
hai huyện này được phỏng vấn bao gồm: đặc
điểm của nông hộ, tình hình sản xuất và tiêu
thụ ớt chỉ thiên trong năm 2018, những thuận
lợi và khó khăn trong quá trình sản xuất ớt
chỉ thiên.
Bảng 1: Phân bố cỡ quan sát điều tra nông
hộ sản xuất ớt chỉ thiên
Huyện Xã Số hộ %
Cầu Ngang
Hiệp Hòa 35 28,0
Thạnh Hòa Sơn 30 24,0
Trà Cú
Ngọc Biên 30 24,0
Tân Hiệp 30 24,0
Tổng cộng 125 100,0
* Phương pháp phân tích số liệu
Dữ liệu thu thập được xử lí trên SPSS 20
bằng các phương pháp như sau:
- Thống kê mô tả: (1) Thông tin chung về
nông hộ: tuổi, giới tính, trình độ học vấn,
số nhân khẩu, diện tích đất, kinh nghiệm sản
xuất, lao động, thuận lợi và khó khăn trong
quá trình sản xuất; (2) các chỉ tiêu tài chính:
năng suất, giá bán, chi phí (giống, phân bón,
thuốc bảo vệ thực vật, lao động, nhiên liệu,
chi phí khác).
- Phân tích màng bao dữ liệu (DEA) và
hồi quy Tobit:
Hiệu quả kĩ thuật (Technical efficiency –
TE) được xem là một thành phần của hiệu
quả sản xuất. Trong trường hợp tối đa hóa
lợi nhuận, nhà sản xuất phải sản xuất ra mức
sản lượng tối đa với nguồn lực đầu vào nhất
định, nói cách khác hiệu quả kĩ thuật chỉ sự
kết hợp tối ưu các nguồn lực đầu vào để tạo
ra mức sản lượng nhất định.
Hiệu quả phân phối (Allocative efficiency
– AE) là khả năng sử dụng các yếu tố đầu
vào theo tỉ lệ tối ưu, cùng với giá cả và công
nghệ sản xuất tương ứng hoặc các yếu tố đầu
ra phối hợp với giá và công nghệ sản xuất
tương ứng.
Hiệu quả kinh tế (Economic efficiency –
EE) hay hiệu quả chi phí (Cost efficiency
– CE), là thước đo tổng hợp hiệu quả của
một mô hình được đo bằng cách phối hợp
giữa hiệu quả kĩ thuật và hiệu quả phân phối
nguồn lực của nhà sản xuất, và được tính
bằng tích của hiệu quả kĩ thuật và hiệu quả
53
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 36, THÁNG 12 NĂM 2019 NÔNG NGHIỆP - THỦY SẢN
phân phối: EE = TE x AE. Chỉ số này được
hiểu là tối thiểu hóa các yếu tố đầu vào dựa
trên các yếu tố đầu ra có sẵn trong trường
hợp quy mô có hoặc không có ảnh hưởng
đến kết quả sản xuất.
Vì vậy, một nhà sản xuất được gọi là có
hiệu quả kĩ thuật cao hơn nhà sản xuất khác
khi nhà sản xuất phải sản xuất ra mức sản
lượng tối đa với một lượng đầu vào cho trước.
Một nhà sản xuất thu được nhiều lợi nhuận
tương ứng hơn những lượng đầu ra và giá đầu
vào cho trước được gọi là có hiệu quả kinh
tế cao hơn nhà sản xuất khác và nó có được
hiệu quả phân phối nếu thu được lợi nhuận
tối đa. Do vậy, những nông dân canh tác có
hiệu quả thì có thể tạo ra thu nhập cao hơn
và có cơ hội tốt hơn để sinh tồn và trở nên
khá giả [9].
Khi đã ước lượng hiệu quả kĩ thuật, hiệu
quả phân phối nguồn lực, hiệu quả sử dụng
chi phí của các nông hộ thông qua phân
tích màng bao dữ liệu (Data Envelopment
Analysis-DEA), điều quan trọng tiếp theo là
xem xét đối với những hộ không đạt hiệu quả
kĩ thuật [10]. Phân tích hiệu quả sản xuất
để cho thấy được các hoạt động canh tác là
giống nhau nhưng lại cho kết quả khác nhau.
Trên thực tế, nhiều phương pháp có thể tiếp
cận để đo lường sự ảnh hưởng của các yếu tố
đến hiệu quả sản xuất. Giá trị của hiệu quả
hoạt động sản xuất luôn nằm trong khoảng
giá trị từ 0 đến 1 [11]. Nói cách khác, trong
trường hợp này, biến phụ thuộc của hàm số
ước lượng có thể được xem như là một biến
bị chặn trong khoảng giá trị từ 0 đến 1 (nếu
giá trị này bằng 1 có nghĩa là hiệu quả sản
xuất ớt chỉ thiên đạt hiệu quả kĩ thuật tối ưu,
nếu nhỏ hơn 1 có nghĩa là hộ chưa đạt hiệu
quả kĩ thuật tối ưu). Vì thế, trong nghiên cứu
này, mô hình hồi quy Tobit được xem là mô
hình phù hợp cho việc ước lượng mức độ ảnh
hưởng của các yếu tố đến hiệu quả hoạt động
sản xuất của nông hộ.
Mô hình hồi quy Tobit được xây dựng bởi
nhà kinh tế học Tobin (1958) và được sử dụng
rất phổ biến trong các nghiên cứu kinh tế –
xã hội. Phương pháp phân tích hồi quy Tobit
được sử dụng để ước lượng mô hình hồi quy
có biến phụ thuộc bị chặn (hay bị giới hạn).
Vì vậy, mô hình hồi quy Tobit còn được gọi là
mô hình hồi quy kiểm duyệt hay mô hình hồi
quy có biến phụ thuộc bị giới hạn. Mô hình
hồi quy Tobit bị giới hạn trên, hay giới hạn
dưới, hay cả hai là do bản chất của biến phụ
thuộc trong mô hình nghiên cứu. Mô hình
hồi quy Tobit không chỉ ước lượng được xác
suất xảy ra của sự kiện được quan tâm mà
còn đo lường mức độ biến động của nó.
Mô hình Tobit trong nghiên cứu này có
dạng như sau:
Trong đó:
y∗j là giá trị hiệu quả của nông hộ. Cụ thể
trong khảo sát này, giá trị hiệu quả được tính
bằng sản lượng của nông hộ trồng ớt chỉ thiên
trên một đơn vị diện tích. Biến này có đơn
vị là (kg/1.000 m2).
βm là hệ số của phương trình hồi quy Tobit
cần tính.
j là sai số của mô hình.
Xjm là các biến độc lập của mô hình.
Sự phối hợp giữa mô hình DEA và Tobit
trong nghiên cứu
Phương pháp phân tích màng bao dữ liệu
(DEA) có những nhược điểm như ước lượng
hiệu quả thu được bằng cách so sánh với các
đơn vị thành công hơn trong mẫu. Vì vậy,
việc đưa thêm các biến bổ sung vào phân
tích có thể dẫn đến giảm các giá trị hiệu quả.
Việc loại bỏ các yếu tố đầu vào hoặc đầu ra
quan trọng ra khỏi mô hình có thể dẫn đến sự
sai lệch kết quả. Các giá trị trung bình phản
ánh phương sai của giá trị ước lượng hiệu
quả bên trong mỗi mẫu nghiên cứu thu được.
Do đó, phương pháp hồi quy Tobit được thực
hiện để phân tích sự tác động của các nhân
tố đến hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào.
Hồi quy Tobit là một kĩ thuật hồi quy nhiều
biến để ước tính các quan hệ tuyến tính giữa
các biến độc lập và biến phụ thuộc trong giai
đoạn tiếp theo của DEA nhằm tìm hiểu các
yếu tố quyết định góp phần tạo nên hiệu quả
của một đơn vị tạo quyết định.
54
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 36, THÁNG 12 NĂM 2019 NÔNG NGHIỆP - THỦY SẢN
IV. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
A. Thông tin chung về đối tượng được khảo
sát
1) Giới tính và tuổi chủ hộ: Nghiên cứu
này cho thấy chủ hộ là nam chiếm 84,8% và
chủ hộ là nữ chiếm 15,2%. Về độ tuổi: Nông
hộ sản xuất ớt chỉ thiên có độ tuổi trung bình
là 47,45 tuổi, cao nhất là 73 tuổi và nhỏ nhất
là 23 tuổi. Do đó, những nông hộ ở độ tuổi
càng nhỏ thì kinh nghiệm sản xuất ít hơn
hơn, từ đó cũng nói lên rằng độ tuổi có ảnh
hưởng đến hiệu quả sản xuất của nông hộ và
phù hợp với các nghiên cứu [12] và [13].
2) Trình độ học vấn của chủ hộ: Kết quả
điều tra cho thấy các hộ có trình độ cấp tiểu
học là 52%, chiếm tỉ lệ cao nhất; các hộ có
trình độ cấp trung học cơ sở là 35,2%, chiếm
tỉ lệ khá cao; các hộ có trình độ cấp trung
học phổ thông là 10,4%; các hộ có trình độ
cao đẳng, đại học là 0,8% và thấp nhất là
các hộ không biết chữ (1,6%). Điều này cho
thấy, nông hộ sản xuất ớt chỉ thiên trên địa
bàn tỉnh Trà Vinh có trình độ tương đối khá.
Vì vậy, nông hộ có khả năng tiếp thu những
kiến thức mới, ứng dụng những tiến bộ kĩ
thuật mới vào sản xuất, góp phần nâng cao
hiệu quả sản xuất.
3) Kinh nghiệm của nông hộ trồng ớt chỉ
thiên: Kinh nghiệm là yếu tố đóng một vai
trò quan trọng trong quá trình sản xuất của
nông hộ. Trong nghiên cứu này, kinh nghiệm
được tính bằng số năm mà nông hộ bắt đầu
tham gia sản xuất ớt chỉ thiên cho đến thời
điểm phỏng vấn. Kết quả nghiên cứu về nông
hộ trồng ớt chỉ thiên cho thấy: kinh nghiệm
thấp nhất của nông hộ được khảo sát là một
năm, cao nhất là sáu năm và trung bình là
3,02 năm.
B. Phân tích hiệu quả sản xuất ớt chỉ thiên
của nông hộ tại tỉnh Trà Vinh
1) Phân tích chi phí sản xuất ớt chỉ thiên
của nông hộ tại tỉnh Trà Vinh: Chi phí đầu
vào của quá trình sản xuất là toàn bộ số tiền
mà đơn vị sản xuất chi ra cho các hoạt động
sản xuất kinh doanh để tạo ra sản phẩm. Chi
phí đầu vào được sử dụng hợp lí sẽ giảm được
chi phí đầu tư cho vụ sản xuất, góp phần tăng
thu nhập cho nông hộ.
Chi phí giống: Chi phí ớt chỉ thiên giống
bình quân cho mỗi 1.000 m2 đất của nông hộ
là 1.324.830 đồng (chiếm 7,3%) trong tổng
chi phí sản xuất (Bảng 4). Giá ớt chỉ thiên
giống dao động từ 280 – 300 đồng/cây. Số
lượng cây giống bình quân được trồng cho
1.000 m2 là 4.749 cây.
Chi phí vật tư: Nếu các nông hộ kiểm
soát tốt nguồn vật tư đầu vào thì chi phí sẽ
được giảm xuống; nếu các nông hộ sử dụng
quá nhiều nguồn vật tư đầu vào thì nó sẽ
gây lãng phí và thất thoát, làm cho chi phí
của vụ sản xuất tăng lên. Từ đó, nó sẽ ảnh
hưởng đến hiệu quả sản xuất của các nông
hộ. Chi phí vật tư khoảng 1.944.730 đồng
(chiếm 10,72%) trong tổng chi phí sản xuất.
Chi phí thuốc bảo vệ thực vật: Các nông hộ
sử thuốc bảo vệ thực vật để phòng và điều
trị bệnh ở cây và có cách xử lí khác nhau
(liều lượng, số lần phun xịt và giá của từng
loại thuốc) nên lượng thuốc mà nông hộ sử
dụng cũng khác nhau. Khảo sát 125 nông hộ
sản xuất ớt chỉ thiên cho thấy mức chi phí
bình quân phải trả là 1.440.940 đồng (chiếm
7,94%).
Chi phí lao động nhà: Ngày công của lao
động nhà được tính trên tổng ngày công lao
động của hoạt động sản xuất (chuẩn bị đất,
làm cỏ, bón phân, tưới nước và phun thuốc).
Với mức giá ngày công trung bình là 150.000
đồng, nông hộ trồng ớt chỉ thiên tại tỉnh Trà
Vinh có chi phí cho ngày công lao động nhà
là 2.070.560 đồng (chiếm 11, 41%).
Chi phí lao động thuê: chiếm tỉ trọng cao
nhất (50,96%) trong tổng chi phí. Chi phí
lao đông thuê (gieo trồng, bón phân, tưới
nước và thu hoạch) bình quân là 9.246.150
đồng/1.000 m2. Theo thực tế khảo sát, chi phí
thuê người thu hoạch (bẻ hay hái trái ớt với
mức giá dao động từ 4.000 – 5.000 đồng/kg
ớt)
2) Phân tích hiệu quả tài chính của nông
hộ sản xuất ớt chỉ thiên tại tỉnh Trà Vinh:
Kết quả nghiên cứu cho thấy lợi nhuận trung
bình cho một vụ sản xuất ớt chỉ thiên khoảng
10.110.000 đồng/1.000 m2/vụ là khá cao.
Tỉ suất doanh thu (DT/CP) của hộ sản xuất
55
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 36, THÁNG 12 NĂM 2019 NÔNG NGHIỆP - THỦY SẢN
Bảng 2: Giới tính và tuổi của chủ hộ sản xuất ớt chỉ thiên tại tỉnh Trà Vinh
Hình 1: Trình độ học vấn của nông hộ
ớt chỉ thiên tại tỉnh Trà Vinh là 1,56. Điều
này nói lên rằng khi hộ sản xuất ớt chỉ thiên
đầu tư 01 đồng chi phí để sản xuất thì hộ sẽ
nhận được trung bình là 1,56 đồng doanh thu
và lợi nhuận 0,56 đồng.
3) Phân tích hiệu quả kĩ thuật, hiệu quả
phân phối và hiệu quả chi phí của nông hộ
sản xuất ớt chỉ thiên tại tỉnh Trà Vinh: Nguồn
đầu vào để phục vụ cho hoạt động sản xuất
ớt chỉ thiên bao gồm: lượng giống, lượng N,
lượng P và lượng K, lượng lao động tham gia
và lượng nhiên liệu. Các biến về sản lượng
đầu vào và các yếu tố đầu ra được sử dụng
trong mô hình phân tích màng bao dữ liệu
định hướng dữ liệu đầu vào theo quy mô cố
định tính toán ước lượng hiệu quả kĩ thuật
(TE), hiệu quả phân phối (AE) và hiệu quả
chi phí (CE) của nông hộ thông qua chương
trình DEA phiên bản 2.1 được trình bày trong
Bảng 6.
Kết quả khảo sát 125 nông hộ trồng ớt chỉ
thiên tại tỉnh Trà Vinh cho thấy:
Lượng giống: Lượng giống được các nông
hộ trồng trung bình là 47.490 cây/ha, với giá
250 đồng/cây. Tuy nhiên, tùy theo thời điểm
khác nhau mà giá giống cũng khác nhau.
Lượng phân bón (N, P, K): Tùy theo tính
chất đất và kĩ thuật trồng, nông hộ sẽ có chế
độ phân bón phù hợp với từng giai đoạn phát
triển của cây trồng. Theo kết quả nghiên cứu
này, lượng phân bón mà nông hộ sử dụng cho
01 ha đất trồng ớt chỉ thiên bình quân là N
(163 kg), P (106 kg) và K (157 kg). Đây là
một trong những yếu tố làm ảnh hưởng đến
năng suất và lợi nhuận của nông hộ.
Lượng lao động: Lượng lao động trung
bình tham gia vào quá trình sản xuất ớt chỉ
thiên của nông hộ là 545 ngày công/ha, lượng
lao động thấp nhất là 255 ngày công/ha và
lượng lao động cao nhất là 816 ngày công/ha.
Điều này cho thấy hoạt động sản xuất ớt chỉ
thiên đã góp phần đáng kể nhằm giải quyết
việc làm cho lao động nông thôn, tạo nguồn
thu nhập cho bà con nông dân, tạo sinh kế
việc làm cho người dân nông thôn thông qua
các hoạt động như gieo trồng, làm cỏ, thu
hoạch hái trái.
Lượng điện: Kết quả khảo sát các nông hộ
sản xuất ớt chỉ thiên tại tỉnh Trà Vinh cho
56
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 36, THÁNG 12 NĂM 2019 NÔNG NGHIỆP - THỦY SẢN
Bảng 3: Kinh nghiệm trồng ớt chỉ thiên của nông hộ tại tỉnh Trà Vinh
Bảng 4: Chi phí sản xuất ớt chỉ thiên của nông hộ tại tỉnh Trà Vinh
Bảng 5: Một số chỉ tiêu tài chính đánh giá hiệu quả sản xuất ớt chỉ thiên của nông hộ tại
tỉnh Trà Vinh
57
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 36, THÁNG 12 NĂM 2019 NÔNG NGHIỆP - THỦY SẢN
Bảng 6: Các biến đưa vào mô hình sản xuất ớt chỉ thiên tại tỉnh Trà Vinh
thấy lượng điện mà các hộ dân sử dụng để
phục vụ cho hoạt động sản xuất ớt chỉ thiên
là 193 KW/ha, với giá 1.600 đồng/KW. Tùy
thuộc vào điều kiện thời tiết và kĩ thuật canh
tác mà các hộ sử dụng nhiều hay ít.
Hiệu quả kĩ thuật (TE): Chỉ số TE theo mô
hình CRS-DEA trong trường hợp tối thiểu
hóa đầu vào nằm trong khoảng từ 0 đến 1.
Nếu hệ số này bằng 1 thì có nghĩa là hiệu
quả sản xuất ớt chỉ thiên đạt hiệu quả kĩ thuật
tối ưu, nếu nhỏ hơn 1 thì có nghĩa là hộ chưa
đạt hiệu quả kĩ thuật tối ưu.
Kết quả khảo sát 125 nông hộ sản xuất ớt
chỉ thiên tại tỉnh Trà Vinh ở Bảng 7 cho thấy:
Mức hiệu quả kĩ thuật trung bình của nông
hộ là đạt khá (TE= 0,77). Với mức năng suất
đã đạt được thì nông hộ sản xuất ớt chỉ thiên
sử dụng 77% lượng đầu vào, nghĩa là trong
vụ sản xuất nông hộ đã lãng phí 23% lượng
đầu vào, với độ lệch chuẩn là 0,14 và khoảng
cách giữa giá trị lớn nhất, giá trị nhỏ nhất là
rất lớn (0,39-1,00).
Ngoài ra, kết quả này còn cho thấy: nông
hộ phần nào đã có được kĩ thuật cho hoạt
động sản xuất ớt chỉ thiên thông qua việc
tham gia các lớp tập huấn về kĩ thuật trồng ớt
chỉ thiên nên mang lại hiệu quả kĩ thuật khá
và được thể hiện qua các chỉ số 1,00 (11,2%),
0,90 – 0,99 (8,8%), 0,80 – 0,89 (28,0%) và
0,70 – 0,79 (23,2%).
Hiệu quả phân phối (AE): Hiệu quả phân
phối của nông hộ tham gia vào hoạt động sản
xuất ớt chỉ thiên được đánh giá nhằm xem xét
việc phân bổ nguồn lực trong hoạt động sản
xuất của nông hộ. Kết quả khảo sát ở Bảng 4
cho thấy hiệu quả phân phối trung bình của
nông hộ sản xuất ớt chỉ thiên đạt khá (AE =
0,72).
Tuy nhiên, số nông hộ đạt hiệu quả phân
phối nguồn lực cao còn rất ít, trong đó đạt
mức hiệu quả từ 0,90 – 0,99 chiếm tỉ trọng
3,2%, mức đạt hiệu quả tối ưu 1,00 chỉ chiếm
tỉ trọng 0,8% và mức hiệu quả trung bình từ
0,50 – 0,59 chiếm tỉ trọng 10,4%. Từ đó cho
thấy, việc phân bố và quản lí yếu tố đầu vào
của nông hộ chưa hợp lí.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến hiệu quả
phân phối của nông hộ sản xuất ớt chỉ thiên
58
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 36, THÁNG 12 NĂM 2019 NÔNG NGHIỆP - THỦY SẢN
Bảng 7: Hiệu quả sản xuất ớt chỉ thiên của nông hộ tại tỉnh Trà Vinh
chưa cao như giá của yếu tố đầu vào có nhiều
biến động, sự chênh lệch giữa các đại lí vật
tư nông nghiệp, sự chênh lệch về giá giữa
các nông hộ trả trước và trả cuối vụ hoặc trả
gối đầu. Ngoài ra, trình độ học vấn sẽ làm
hạn chế trong việc tiếp cận và áp dụng những
tiến bộ khoa học kĩ thuật vào sản xuất, từ đó
làm cho nguồn lực đầu vào bị lãng phí dẫn
đến chi phí trong hoạt động sản xuất ớt chỉ
thiên của nông hộ tăng lên.
Hiệu quả chi phí (CE): Hiệu quả sử dụng
chi phí hay còn gọi là hiệu quả kinh tế được
tính toán trên cơ sở tổng hợp giữa hiệu quả
kĩ thuật và hiệu quả phân phối.
Kết quả phân tích hiệu quả chi phí/kinh
tế của nông hộ tham gia vào hoạt động sản
xuất ớt chỉ thiên ở Bảng 7 cho thấy hiệu quả
chi phí có giá trị trung bình của nông hộ sản
xuất ớt chỉ thiên là CE = 0,56, giá trị nhỏ
nhất là 0,31 và giá trị lớn nhất là 1,00. Có
đến 88,8% hộ đạt mức hiệu quả chi phí từ
0,31 – 0,69. Điều này thể hiện sự không hiệu
quả về kinh tế của nông hộ trồng ớt chỉ thiên
tại tỉnh Trà Vinh. Nguyên nhân dẫn đến hiệu
quả kinh tế của nông hộ trồng ớt chỉ thiên
thấp là do chi phí gia tăng và năng suất bị
giảm do thời tiết và sâu, bệnh diễn ra thường
xuyên, việc kiểm soát khâu đầu vào và năng
lực quản lí dịch bệnh còn hạn chế; từ đó, chi
phí sản xuất ớt chỉ thiên của các nông hộ bị
tăng lên.
Mức hiệu quả phi kĩ thuật làm năng suất
mất đi trung bình cho một vụ trồng ớt chỉ
thiên là 5,5 tấn/ha. Kết quả này cho biết nông
hộ có thể tăng năng suất ớt chỉ thiên lên nếu
kết hợp các đầu vào và đầu ra đạt mức tối
ưu hơn. Tuy nhiên, phần kém hiệu quả này
không chỉ do sự yếu kém về kĩ thuật canh
tác mà còn do tình hình dịch bệnh trên cây
ớt làm cho năng suất giảm. Điều này cho
thấy rằng nông hộ sản xuất ớt chỉ thiên tại
tỉnh Trà Vinh chưa khai thác hết năng suất
có thể đạt được trong quá trình sản xuất của
nông hộ.
Kết quả phân tích Bảng 8 cho thấy nông hộ
cần chú ý phân bổ nguồn lực hợp lí hơn. Nó
vừa giúp tiết kiệm một lượng các yếu tố đầu
vào trong sản xuất mà không giảm sản lượng
hiện có vừa làm tăng hiệu quả sản xuất.
Kết quả phân tích ở Bảng 9 cho thấy:
Lượng giống: Nông hộ lãng phí ở mức rất
thấp (0,02%). Nguyên nhân do nông hộ sử
dụng nguồn giống chưa đảm bảo chất lượng
nên nông hộ thường trồng mật độ gieo trồng
59
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 36, THÁNG 12 NĂM 2019 NÔNG NGHIỆP - THỦY SẢN
Bảng 8: Phân phối năng suất trung bình (tấn/ha) mất đi do kém hiệu quả kĩ thuật
trong sản xuất ớt chỉ thiên tại tỉnh Trà Vinh.
có sự chênh lệch. Vì vậy, để giảm lãng phí
lượng giống, nông hộ nên chọn mua giống
có chất lượng hơn khi trồng.
Lượng phân bón: Là yếu tố mà nông hộ
sản xuất ớt chỉ thiên lãng phí nhiều nhất
(28,01%), trong đó đáng chú ý nhất là lượng
P (10,31%) vì nếu bón thừa lượng P nhiều
sẽ tạo điều kiện cho sâu bệnh phát triển. Vì
thế, nếu tiết kiệm được chi phí sẽ làm tăng
hiệu quả sản xuất của nông hộ.
Lượng lao động: Đây là yếu tố có vai trò
quan trọng trong quá trình sản xuất. Để hạn
chế lượng lao động lãng phí, các nông hộ cần
cơ giới hóa một số khâu cần lượng lao động
nhiều như làm đất, tưới và phun thuốc.
Ngoài ra, các nông hộ còn sử dụng lãng
phí nguyên liệu (14,31%). Để tránh lãng phí,
nông hộ nên áp dụng hệ thống tưới nước tiết
kiệm và bố trí lịch trình tưới nước phù hợp
hơn trong quá trình sản xuất ớt chỉ thiên.
* Cách tính lượng lãng phí:
- Lượng lãng phí (giá trị) = Lượng thực tế
sử dụng - Lượng điều chỉnh
- Lượng lãng phí (%) = 1 - (Lượng điều
chỉnh/Lượng thực tế sử dụng) x 100
4) Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến
hiệu quả sản xuất của nông hộ sản xuất ớt chỉ
thiên tại tỉnh Trà Vinh: Để xác định các yếu
tố ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất (kĩ thuật,
phân phối và chi phí), chúng ta có rất nhiều
phương pháp để tiếp cận. Nói cách khác, biến
phụ thuộc của hàm ước lượng trong trường
hợp này có thể được xem là một biến bị chặn
trong khoảng giá trị từ 0 đến 1. Do đó, Tobit
được xem là hàm thích hợp để sử dụng cho
việc ước lượng mức độ ảnh hưởng của các
yếu tố kinh tế – xã hội đến hiệu quả sản xuất.
Mô hình hồi quy Tobit để xác định các yếu
tố ảnh hưởng đến hiệu quả kĩ thuật của nông
hộ sản xuất ớt chỉ thiên tại tỉnh Trà Vinh bao
gồm sáu biến độc lập: tuổi (X1), trình độ học
vấn (X2), kinh nghiệm sản xuất (X3), tham
gia tập huấn (X4), diện tích canh tác (X5),
tham gia đoàn thể (X6) và biến phụ thuộc
(Yi) là hiệu quả kĩ thuật, hiệu quả phân phối
và hiệu quả chi phí/kinh tế của nông hộ sản
xuất ớt chỉ thiên tại tỉnh Trà Vinh.
Để kiểm định độ phù hợp của mô hình hồi
quy Tobit, chúng ta có thể xem xét đến giá trị
Prob > X2 (xác suất lớn hơn giá trị kiểm định
chi bình phương). Kết quả phân tích ở Bảng
10 cho thấy giá trị Prob > X2 của mô hình
= 0,000, điều này cho thấy mô hình nghiên
cứu được sử dụng có độ tin cậy rất cao (mức
ý nghĩa 1%).
Kết quả phân tích (Bảng 10) đã chỉ ra rằng
hiệu quả sản xuất của nông hộ sản xuất ớt
chỉ thiên tại tỉnh Trà Vinh năm 2018 chịu ảnh
hưởng bởi bốn yếu tố chính với mức ý nghĩa
1% đến 5% bao gồm: trình độ học vấn, kinh
nghiệm sản xuất, tham gia tập huấn và tham
gia đoàn thể.
Trình độ học vấn: Trình độ học vấn có ý
nghĩa thống kê ở mức 1%. Trong điều kiện
60
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 36, THÁNG 12 NĂM 2019 NÔNG NGHIỆP - THỦY SẢN
Bảng 9: Lượng yếu tố đầu vào bình quân tối ưu trên cơ sở tối thiểu hóa chi phí sản xuất và
lượng đầu vào bình quân thực tế sản xuất ớt
Bảng 10: Kết quả ước lượng các yếu tố tác động đến hiệu quả sản xuất ớt chỉ thiên tại
tỉnh Trà Vinh
các yếu tố khác không thay đổi, trình độ học
vấn càng cao thì hiệu quả kĩ thuật, hiệu quả
phân phối và hiệu quả chi phí của nông hộ
sản xuất ớt chỉ thiên càng cao (các nông hộ
có ý thức trong việc chăm sóc và quản lí
ruộng ớt chỉ thiên, khả năng tiếp cận thông
tin mới cũng như ứng dụng những tiến bộ
khoa học kĩ thuật vào thực tế sản xuất dễ
dàng hơn). Và ngược lại, khi trình độ học vấn
càng thấp thì hiệu quả sản xuất của nông hộ
sẽ thấp.
Kinh nghiệm sản xuất: Biến kinh nghiệm
sản xuất có ý nghĩa thống kê ở mức 1% cho
hiệu quả kĩ thuật và hiệu quả chi phí. Riêng
hiệu quả phân phối có ý nghĩa thống kê ở
mức 5%. Điều này có ý nghĩa là trong điều
kiện các yếu tố khác không đổi, kinh nghiệm
sản xuất của nông hộ càng cao thì hiệu quả
kĩ thuật, hiệu quả phân phối và hiệu quả chi
phí càng cao. Từ đó, nó góp phần nâng cao
năng suất và cải thiện chất lượng sản phẩm
ớt chỉ thiên.
Tham gia tập huấn: Là biến giả được quy
ước nhận giá trị 1 nếu hộ có tham gia tập
huấn và nhận giá trị 0 nếu hộ không tham
gia tập huấn. Biến tham gia tập huấn có ý
nghĩa thống kê ở mức 1% cho hiệu quả kĩ
thuật, hiệu quả phân phối và hiệu quả chi
phí. Do đó, trong điều kiện các yếu tố khác
không đổi, những hộ có tham gia tập huấn
kĩ thuật sẽ mang lại hiệu quả sản xuất ớt chỉ
thiên cao hơn những hộ không tham gia tập
61
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 36, THÁNG 12 NĂM 2019 NÔNG NGHIỆP - THỦY SẢN
huấn.
Tham gia đoàn thể: Biến tham gia đoàn
thể có ý nghĩa thống kê ở mức 5% đối với
hiệu quả kĩ thuật và hiệu quả phân phối và
mức ý nghĩa 1% cho hiệu quả chi phí. Trong
điều kiện các yếu tố khác không đổi, những
hộ có tham gia đoàn thể sẽ mang lại hiệu quả
sản xuất ớt chỉ thiên cao hơn những hộ không
tham gia đoàn thể. Và ngược lại, những hộ
không tham gia đoàn thể thì cơ hội tiếp cận
thông tin liên quan đến kĩ thuật sản xuất ớt
chỉ thiên bị hạn chế, từ đó, nó ảnh hưởng đến
hiệu quả sản xuất của nông hộ.
C. Giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất ớt
chỉ thiên trên địa bàn tỉnh Trà Vinh
Từ các kết quả nghiên cứu, chúng tôi đề
xuất các giải pháp sau để nâng cao hiệu quả
sản xuất ớt chỉ thiên của nông hộ:
- Sử dụng lượng phân, điện và lao động
hợp lí hơn. Kết quả cho thấy các nông hộ sử
dụng các nguồn lực này còn lãng phí so với
lượng khuyến cáo mà nông hộ sử dụng. Vì
thế mô hình sản xuất ớt chỉ thiên chưa mang
lại hiệu quả kinh tế cao cho nông hộ tại tỉnh
Trà Vinh. Vì vậy, để đạt được hiệu quả cao,
nông hộ cần có kế hoạch phân bố nguồn lực
hợp lí hơn (phân bón, điện và lao động) trong
quá trình sản xuất để đạt hiệu quả tối ưu, giúp
nông hộ tiết kiệm một lượng chi phí đáng kể
các yếu tố đầu vào trong quá trình sản xuất.
- Phòng Nông nghiệp huyện Cầu Ngang
và Phòng Nông nghiệp huyện Trà Cú cần
quy hoạch lại diện tích trồng ớt chỉ thiên ở
hai huyện, tránh tình trạng nông dân trồng tự
phát và chạy theo phong trào làm ảnh hưởng
đến thị trường tiêu thụ (cung vượt cầu), từ
đó giá giảm thấp gây thua lỗ cho nông dân.
Cán bộ khuyến nông kết hợp với viện, trường
thường xuyên mở lớp tập huấn kĩ thuật trồng
ớt chỉ thiên cho nông dân.
- Nông dân cần thay đổi tập quán sản xuất
theo hình thức truyền thống, nắm bắt và ứng
dụng khoa học kĩ thuật mới vào sản xuất,
giảm chi phí, tăng năng suất. Ủy ban nhân
dân xã cùng với các ban ngành đoàn thể địa
phương xây dựng hệ thống thông tin về thị
trường để nông dân kịp thời nắm bắt. Mặt
khác, nông dân cũng cần có sự kết nối với
các hợp tác xã cung cấp giống và thu mua
để hạn chế tình trạng bị ép giá. Nông hộ sản
xuất ớt chỉ thiên phải chủ động tiếp cận thông
tin thị trường, các yếu tố sản xuất từ đầu vào
cho đến đầu ra.
V. KẾT LUẬN
Kết quả phân tích các chỉ số tài chính cho
thấy mô hình sản xuất ớt chỉ thiên tại tỉnh Trà
Vinh thật sự mang lại hiệu quả. Với doanh thu
trung bình là 282.540.000 đồng/ha, năng suất
trung bình là 16,6 tấn/ha, chi phí trung bình
của nông hộ phải bỏ ra trong quá trình sản
xuất là 181.440.000 đồng/ha. Nông hộ đạt
lợi nhuận trung bình là 101.100.000 đồng/ha.
Điều này cho thấy việc sản xuất ớt chỉ thiên
mang lại hiệu quả kinh tế cho nông hộ. Kết
quả nghiên cứu cho thấy hiệu quả kĩ thuật
(TE = 0,77), hiệu quả phân phối (AE = 0,72)
và hiệu quả chi phí (CE = 0,56). Điều này
cho thấy nông hộ sử dụng chưa hiệu quả các
yếu tố đầu vào trong quá trình sản xuất. Kết
quả mô hình hồi quy Tobit cho thấy các yếu
tố ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất ớt chỉ
thiên của nông hộ sản xuất ớt tại tỉnh Trà
Vinh bị tác động bởi các yếu tố: trình độ
học vấn, kinh nghiệm sản xuất, tham gia tập
huấn và tham gia đoàn thể.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Phạm Văn Vũ, Võ Quang Minh, Vương Tuấn Huy,
Phan Chí Nguyện. Tác động của mặn và ngập theo
kịch bản biến đổi khí hậu đến tiềm năng thích nghi
đất đai vùng ven biển Đồng bằng sông Cửu Long.
Tạp chí Khoa học Đại học Cần Thơ. 2016;4:71–83.
[2] UBND tỉnh Trà Vinh. Quyết định số 2695/QĐ-UBND
ngày 22/12/2016 của UBND tỉnh Trà Vinh về việc phệ
duyệt quy hoạch chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông,
lâm, liêm nghiệp và nuôi trồng thủy sản tỉnh Trà Vinh
đến 2020 và định hướng đến năm 2030; 2016.
[3] Mai Văn Quyền, Lê Thị Việt, Ngô Quang Vinh,
Nguyễn Thị Hòa, Nguyễn Tuấn Kiệt. Những cây rau
gia vị phổ biến ở Việt Nam. Thành phố Hồ Chí Minh:
Nhà Xuất bản Nông nghiệp; 2000.
[4] Trần Minh Hải. Nghiên cứu tuyển chọn giống và biện
pháp canh tác nhằm nâng cao năng suất ớt cho vùng
duyên hải Nam Trung Bộ; 2012.
[5] Hoàng Điệp. Nghiên cứu khả năng sinh trưởng và
phát triển của một số giống ớt cay tại thành phố
Lạng Sơn [Luận văn Thạc sĩ]. Trường Đại học Thái
Nguyên; 2014.
62
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH, SỐ 36, THÁNG 12 NĂM 2019 NÔNG NGHIỆP - THỦY SẢN
[6] Nguyễn Thị Thu An, Võ Thị Thanh Lộc. Phân tích
hiệu quả tài chính của nông hộ trồng ớt vùng Đồng
bằng sông Cửu Long. Tạp chí Khoa học Đại học Cần
Thơ. 2017;48(D):87–95.
[7] Cục Thống kê tỉnh Trà Vinh. Niên giám Thống kê
2016; 2016.
[8] Hà Nhung. Phân tích hiệu quả tài chính của nông
hộ trồng ớt chỉ thiên huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang
[Luận văn tốt nghiệp Đại học]. Trường Đại học An
Giang; 2016.
[9] Công Phong. Hiệu quả bước đầu từ mô hình trồng
ớt chỉ thiên ở xã Quảng Tiến; 2017. Truy cập từ:
buoc-%C4%91au-tu-mo-hinh-trong-ot-chi-thien-o-
xa-quang-tien [Ngày truy cập: 7/8/2019].
[10] A Charnes, W W Cooper, E Rhodes. Measuring
the Efficiency of Desicion Making Units. European
Journal of Operational Research. 1978;2(6):429–444.
[11] Ayaz S, Hussain Z, Sial M. Role of Credit on
Production Efficiency of Farming Sector in Pakistan.
World Academy of Science-Engineering and Technol-
ogy. 2010;2:1028–1033.
[12] Nguyễn Hồng Ngọc. Phân tích hiệu quả sản xuất
của nông hộ trồng bắp tại tỉnh Vĩnh Long [Luận văn
Thạc sĩ]. Trường Đại học Cần Thơ; 2015.
[13] Nguyễn Thị Cẩm Hồng. Phân tích hiệu quả kỹ thuật
của nông hộ sản xuất lúa trong mô hình cánh đồng
mẫu lớn tỉnh Hậu Giang [Luận văn Thạc sĩ]. Trường
Đại học Cần Thơ; 2017.
63
Các file đính kèm theo tài liệu này:
danh_gia_hieu_qua_san_xuat_ot_chi_thien_cua_nong_ho_tai_tinh.pdf