Kết quả đánh giá trên Bảng 7 cho thấy, tỷ lệ nữ là
người dân tộc thiểu số tham gia quyết định các
công việc trên đồng ruộng cao hơn so với phụ nữ
là người dân tộc Kinh. Qua các buổi thảo luận
nhóm nông dân tự đánh giá cho rằng, do tập quán
sinh sống theo chế độ mẫu hệ đối với người dân
tộc Chăm, Khmer, . nên hầu hết các công việc
sản xuất trên đồng ruộng chủ yếu là do phụ nữ
đảm trách. Nam giới chỉ đóng vai trò tham gia vào
quá trình sản xuất hoặc các công việc khác trong
gia đình
12 trang |
Chia sẻ: huyhoang44 | Lượt xem: 611 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá hiệu quả từ dự án sản xuất lúa giống thích nghi với biến đổi khí hậu tại đồng bằng sông Cửu long và miền trung Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Journal of Science – 2016, Vol. 11 (3), 1 – 12 Part C: Agricultural Sciences, Fisheries and Biotechnology
1
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ TỪ DỰ ÁN SẢN XUẤT LÚA GIỐNG THÍCH NGHI VỚI
BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TẠI ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG VÀ MIỀN TRUNG
VIỆT NAM
Phạm Ngọc Nhàn1, Huỳnh Quang Tín2, Lê Trần Thanh Liêm3
1Khoa Phát triển Nông thôn, Trường Đại học Cần Thơ
2Viện Nghiên cứu Phát triển Đồng bằng sông Cửu Long - Trường Đại học Cần Thơ
3Khoa Phát triển Nông thôn, Trường Đại học Cần Thơ
Thông tin chung:
Ngày nhận bài: 21/05/2015
Ngày nhận kết quả bình duyệt:
16/07/2015
Ngày chấp nhận đăng: 09/2016
Title:
An evaluation on the effeciency
of rice production project
adapting to the climate change
in the Mekong Delta and the
Central Area of Vietnam
Từ khóa:
Sản xuất lúa giống, hiệu quả
Keywords:
Rice production, efficiency
ABSTRACT
The project “Strengthening the cooperation of farmers in agricultural research
and extension (Fare) – in Vietnam with the period from 2011 to 2013” was
applied from 2011 to 2014. The project’s aim is to improve the abilities of
farmers in seed production which is based on the advanced technologies in
Mekong Delta. In this study, the author focused on analyzing the economic
efficiency of the seed production model before and after the farmer participated
the project. The study shows that after applying the model, the proportion of
poor household was decreased to 5.4% whereas the percentage of middle and
rich households was increased at 37.5% and 3.9%. It also reveals that the
production profit of farmers who participated in the projects is higher than who
did not with the comparison at 20.4 million VND/ha/crop to 18.9 million
VND/ha/crop. Besides, the results of the study reflects the roles of gender in
agricultural production in Mekong Delta and the central area of Vietnam.
TÓM TẮT
Dự án “Tăng cường hợp tác nông dân trong nghiên cứu nông nghiệp và khuyến
nông (Fares) - Việt Nam giai đoạn 2011 – 2013” đã được áp dụng từ năm 2011
đến năm 2014. Dự án nhằm mục đích nâng cao năng lực của nông dân trong
sản xuất lúa giống ở vùng Đồng bằng Sông Cửu Long nhờ vào sự tiến bộ của
khoa học kỹ thuật. Trong nghiên cứu này, tác giả tập trung phân tích hiệu quả
kinh tế trong mô hình sản xuất lúa giống của nông dân trước và sau khi tham
gia dự án. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng sau khi áp dụng mô hình sản xuất lúa
giống, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 5,4%, hộ gia đình khá và giàu tăng lần lượt là
37,5% và 3,9%. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng lợi nhuận đối với nông dân tham
gia mô hình (20,4 triệu đồng/ha/vụ) cao hơn đối với nông dân không tham gia
mô hình (18,9 triệu đồng/ha/vụ). Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu còn phản ánh
vai trò của giới trong sản xuất nông nghiệp ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long
và Miền Trung Việt Nam.
Journal of Science – 2016, Vol. 11 (3), 1 – 12 Part C: Agricultural Sciences, Fisheries and Biotechnology
2
1. GIỚI THIỆU
Việt Nam là một đất nước sản xuất nông nghiệp,
khoảng 80% dân số sinh sống ở vùng nông thôn
và hơn 74% lực lượng lao động làm việc trong
lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. Sản phẩm nông
nghiệp đóng vai trò chủ lực trong xuất khẩu và
tiêu thụ trong cả nước cũng như giữ vai trò quan
trọng trong tăng trưởng nền kinh tế. Đồng bằng
sông Cửu Long là vựa lúa lớn nhất trong cả nước,
đây là khu vực có tiềm năng phát triển nông
nghiệp theo hướng hiện đại hóa. Trong những
năm gần đây, một bộ phận nhỏ nông dân đã biết
áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản
xuất, tạo ra các giống lúa mới thích nghi với sự
thay đổi của điều kiện thời tiết. Tuy nhiên, vấn đề
cần quan tâm đó là hiệu quả kinh tế từ dự án sản
xuất lúa giống so với các dự án sản xuất giống lúa
lương thực. Mục tiêu của nghiên cứu này là phân
tích hiệu quả kinh tế từ dự án sản xuất lúa giống
để từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả
kinh tế và ứng dụng rộng rãi dự án sản xuất này
vào cộng đồng.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Phương pháp thu thập số liệu
Số liệu thứ cấp của nghiên cứu được thu thập từ
các nguồn báo cáo tổng kết qua các năm 2000,
2006 và 2014 của các cơ quan ban ngành tại địa
phương. Số liệu sơ cấp điều tra thông qua phỏng
vấn 540 nông dân đại diện cho các nông hộ sản
xuất lúa trên 9 tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long và
3 tỉnh thuộc Miền Trung Việt Nam. Trong đó các
tỉnh được nghiên cứu ở vùng Đồng bằng sông
Cửu Long bao gồm An Giang, Hậu Giang, Sóc
Trăng, Kiên Giang, Trà Vinh, Bến Tre, Tiền
Giang, Vĩnh Long và Bạc Liêu. Các tỉnh ở vùng
Miền Trung bao gồm Khánh Hòa, Bình Thuận và
Quảng Ngãi. Trong 540 mẫu phỏng vấn gồm có
270 mẫu phỏng vấn nông dân có tham gia mô
hình sản xuất lúa giống và 270 nông dân không có
tham gia mô hình sản xuất lúa giống. Tất cả nông
dân được phỏng vấn đều là những người tham gia
sản xuất lúa trong gia đình với mục đích thu thập
các thông tin có liên quan đến chi phí đầu tư từ dự
án. Nội dung điều tra được cụ thể hóa bằng phiếu
điều tra chuẩn bị sẵn. Ngoài ra, phương pháp
phỏng vấn chuyên sâu được áp dụng đối với lãnh
đạo cấp xã, lãnh đạo Hội Nông dân với mục đích
thu thập các thông tin liên quan đến sự nhận định
hiệu quả kinh tế từ dự án. Dựa vào các thông tin
từ kết quả điều tra cơ bản trên, tác giả đưa vào
phân tích hiệu quả kinh tế của dự án sản xuất lúa
giống góp phần phát triển kinh tế hộ trên địa bàn
nghiên cứu.
2.2 Phương pháp phân tích số liệu
Các dữ liệu được xử lý bằng phần mềm Excel,
SPSS 16.0 và tổng hợp phân tích dựa trên phương
pháp thống kê mô tả, so sánh sự khác biệt về chi
phí đầu tư và lợi nhuận của nông dân tham gia và
không tham gia mô hình sản xuất lúa giống.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO
LUẬN
3.1 Đánh giá hiệu quả kinh tế
Tình trạng kinh tế hộ
Dự án sản xuất lúa giống được nghiên cứu trên 09
tỉnh thuộc khu vực Đồng bằng sông Cửu Long với
mục đích nâng cao năng lực của cộng đồng trong
công tác chọn tạo giống lúa, cải thiện kinh tế hộ
gia đình. Kết quả về tình trạng kinh tế nông hộ
sản xuất trước và sau khi áp dụng dự án sản xuất
lúa giống được thể hiện trên Hình 1 cho thấy,
trước khi tham gia dự án, tình trạng kinh tế hộ ở
mức nghèo chiếm tỉ lệ khá cao (19,9%), ở mức
khá chiếm tỷ lệ 21,2%, mức giàu chỉ chiếm 0,5%
và cao nhất là hộ gia đình có tình trạng kinh tế
mức trung bình chiếm tỉ lệ 58,4%. Sau khi tham
gia dự án, sự cải thiện về tình trạng kinh tế rõ rệt,
tỷ lệ hộ nghèo chỉ còn 5,4%, hộ trung bình giảm
còn 53,2% và hộ gia đình khá, giàu tăng lần lượt
là 37,5% và 3,9%.
Journal of Science – 2016, Vol. 11 (3), 1 – 12 Part C: Agricultural Sciences, Fisheries and Biotechnology
3
Hình 1. Tình trạng kinh tế hộ nông dân trước và sau khi tham gia dự án
Số liệu khảo sát về tình trạng kinh tế nông hộ
trong thực tế tại các tỉnh được tổng hợp trên Bảng
1 cho thấy có sự chênh lệch lớn giữa nhóm nông
dân có tham gia dự án sản xuất lúa giống và nhóm
nông dân không tham gia dự án sản xuất này. Cụ
thể, nhóm nông dân ngoài dự án có tỷ lệ nghèo
cao nhất 4,7% vào năm 2014, trong khi nhóm
nông dân tham gia dự án tỷ lệ hộ nghèo giảm còn
3,1%. Tương tự như vậy, hộ gia đình có tình trạng
kinh tế trung bình đối với nhóm nông dân có tham
gia dự án giảm qua các năm và thấp hơn so với
nhóm nông dân không tham gia dự án. Đối với
nhóm hộ gia đình khá, giàu, nhóm nông dân tham
gia dự án chiếm tỷ lệ cao hơn so với nhóm nông
dân ngoài dự án lần lượt là 51,2%; 7,9% so với
42,9% và 7,2%. Mặc dù sự cách biệt về tình trạng
kinh tế hộ gia đình giữa nhóm nông dân ngoài dự
án và nhóm nông dân trong dự án không quá lớn,
nhưng thực tế cho thấy, dự án đã mang lại hiệu
quả cải thiện được tình trạng kinh tế hộ gia đình
cho các nhóm nông dân. Như vậy, kết quả đánh
giá khẳng định, nhóm nông dân tham gia dự án
sản xuất lúa giống đã cải thiện về điều kiện kinh
tế hộ gia đình tốt hơn so với nhóm nông dân
không tham gia dự án này. Kết quả trên được giải
thích là do nông dân sản xuất lúa giống bán cao
giá và có áp dụng kỹ thuật tiến bộ trong sản xuất
nên giảm được các khoản chi phí đầu tư.
Bảng 1. Tình trạng kinh tế hộ nông dân trong và ngoài dự án
Tình trạng kinh tế hộ
Nông dân ngoài dự án
(tỷ trọng %)
Nông dân trong dự án
(tỷ trọng %)
Năm 2000 Năm 2006 Năm 2014 Năm 2000 Năm 2006 Năm 2014
Nghèo 41,3 12,1 4,7 22,4 63 3,1
Trung bình 49,4 59,2 45,2 65,4 57,1 37,8
Khá 8,8 27,4 42,9 10,6 35,4 51,2
Giàu 0,5 1,3 7,2 1,6 1,2 7,9
Journal of Science – 2016, Vol. 11 (3), 1 – 12 Part C: Agricultural Sciences, Fisheries and Biotechnology
4
Hiệu quả đầu tư
Chi phí đầu tư và lợi nhuận của sản xuất lúa được
phân tích (Hình 2) cho thấy, trước khi tham gia dự
án sản xuất lúa giống, chi phí đầu tư vào sản xuất
lúa là 12,1 triệu đồng/ha/vụ và lợi nhuận là 11,8
triệu đồng/ha/vụ. Sau khi tham gia dự án, chi phí
đầu tư vào đồng ruộng có cao hơn, điều này được
giải thích của các nhóm nông dân: chi phí phân
bón, thuốc bảo vệ thực vật, công lao động và các
chi phí đầu tư khác tăng theo thời giá. Lợi nhuận
trong sản xuất lúa của nhóm nông dân sau khi
tham gia dự án là 20,4 triệu đồng/ha/vụ vào năm
2014.
Hình 2. Chi phí đầu tư và lợi nhuận (triệu đồng/ha/vụ) trong sản xuất lúa của nông dân trước
và sau khi tham gia dự án
Đối với nhóm nông dân ngoài dự án, kết quả khảo
sát cho thấy, chi phí đầu tư vào sản xuất trên đồng
ruộng có thấp hơn (19,1 triệu đồng/ha/vụ) so với
nhóm nông dân trong dự án là 20,5 triệu
đồng/ha/vụ. Tuy nhiên, việc đầu tư chi phí tương
đối cao trên đồng ruộng đối với nhóm nông dân
ngoài dự án cũng chưa mang lại lợi nhuận tối ưu
cho họ. Kết quả (Hình 3) cho thấy, mặc dù chi phí
đầu tư sản xuất cao nhưng lợi nhuận mang lại cho
họ vẫn thấp hơn 18,9 triệu đồng/ha/vụ so với lợi
nhuận của nhóm nông dân tham gia dự án là 20,4
triệu đồng/ha/vụ. Từ kết quả trên, nhóm nghiên
cứu đã phân tích T-test (Paired-Samples T test)
cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ở
mức 5% đối với chi phí đầu tư và lợi nhuận của
nông dân trước và sau khi tham gia dự án.
Journal of Science – 2016, Vol. 11 (3), 1 – 12 Part C: Agricultural Sciences, Fisheries and Biotechnology
5
Hình 3. Chi phí đầu tư và lợi nhuận (triệu đồng/ha/vụ) trong sản xuất lúa của nông dân trong và ngoài dự án
(Hệ số Sig. của chi phí đầu tư là 0,019 < 0,05, hệ số Sig của lợi nhuận là 0,045 < 0,05)
Bảng 2. Kết quả kiểm định T-test về sự khác biệt chi phí đầu tư và lợi nhuận của nông dân trong và ngoài dự án
F Hệ số Sig.
Đầu tư 3,000 0,084
Lợi nhuận 7,010 0,008
Kết quả kiểm định T-test cho nhóm nông dân
trong và ngoài dự án cho thấy, có sự khác biệt có
ý nghĩa thống kê đối với lợi nhuận sản xuất lúa
của nông dân tham gia và không tham gia dự án.
Tuy nhiên, kết quả kiểm định cũng cho thấy đối
với chi phí đầu tư của nông dân trong và ngoài dự
án không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Cụ
thể, giá trị kiểm định cho thấy hệ số Sig. của chi
phí đầu tư là 0,084 > 0,05 và hệ số Sig. của lợi
nhuận là 0,008 < 0,05.
Phân tích theo 2 vùng khảo sát đánh giá hiệu quả
đầu tư trong sản xuất lúa của nông hộ, nông dân
sản xuất lúa ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long có
chi phí đầu tư cao hơn 20,8 triệu đồng/ha/vụ so
với vùng Miền Trung là 18,0 triệu đồng/ha. Bên
cạnh đó, lợi nhuận của nông dân sản xuất lúa khu
vực Đồng bằng sông Cửu Long cao hơn (20,8
triệu đồng/ha/vụ) so với lợi nhuận của nông dân
làm lúa khu vực Miền Trung (17,9 triệu
đồng/ha/vụ) (Kết quả kiểm định T-test
(Independent Samples T test) cho thấy có sự khác
biệt (α=5%) về chi phí đầu tư và lợi nhuận của
nông dân sản xuất lúa ở Đồng bằng sông Cửu
Long và Miền Trung, giá trị Sig. của chi phí đầu
tư là 0,010 < 0,05 và Sig. của lợi nhuận là 0,011 <
0,05). Trong sản xuất nông nghiệp của mỗi vùng
miền khác nhau, đối với khu vực Đồng bằng sông
Cửu Long sản xuất nông nghiệp với diện tích lớn,
tập trung, dễ dàng áp dụng cơ giới hóa và các tiến
bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
Bảng 3. Chi phí đầu tư, lợi nhuận trong sản xuất lúa theo 3 vùng sinh thái
Vùng 1 Vùng 2 Vùng 3
Chi phí đầu tư (triệu đồng/ha/vụ) 18,5 23,5 18,1
Lợi nhuận (triệu đồng/ha/vụ) 18,4 23,5 18,1
(Hệ số Sig. của chi phí đầu tư và của lợi nhuận bằng = 0,000, mức ý nghĩa 5%)
Journal of Science – 2016, Vol. 11 (3), 1 – 12 Part C: Agricultural Sciences, Fisheries and Biotechnology
6
Phân tích theo 3 vùng sinh thái, trong đó vùng 1
bao gồm các tỉnh có diện tích sản xuất bị nhiễm
mặn thuộc Đồng bằng sông Cửu Long, vùng 2
bao gồm các tỉnh nằm trong lưu vực có đất phù sa
màu mỡ thuộc Đồng bằng sông Cửu Long và
vùng 3 là các tỉnh dọc theo bờ biển thuộc khu vực
Miền trung, kết quả phân tích dữ liệu cho thấy chi
phí đầu tư và lợi nhuận của vùng 1 và 2 cao hơn
vùng 3 (Bảng 3). Bên cạnh đó, kết quả phân tích
cho thấy có sự khác biệt về chi phí đầu tư cũng
như sự khác biệt về lợi nhuận trong sản xuất lúa ở
mức ý nghĩa 5%, kết quả này thể hiện sự khác biệt
rất rõ về chi phí đầu tư cũng như lợi nhuận từ sản
xuất lúa giữa 3 vùng sinh thái trên địa bàn nghiên
cứu. Đối với khu vực Miền Trung, tình trạng đất
đai manh múng, nhỏ lẻ, chủ yếu sử dụng lực
lượng lao động vào sản xuất, chưa áp dụng được
các tiến bộ khoa học kỹ thuật, cũng như cơ giới
hóa trong sản xuất. Hơn nữa, với diện tích sản
xuất nhỏ lẻ, mục đích sản xuất chủ yếu là để làm
lương thực trong gia đình và chăn nuôi nhỏ lẻ tại
nông hộ. Vì vậy, người dân khu vực Miền Trung
chưa thật sự quan tâm đến việc ứng dụng các tiến
bộ khoa học vào sản xuất và tính toán hiệu quả chi
phí đầu tư trong canh tác lúa.
Bảng 4. Chi phí đầu tư, lợi nhuận, năng suất trong sản xuất lúa nông dân Đồng bằng sông Cửu Long
và Miền Trung năm 2014
ĐB sông Cửu Long Miền Trung
Chi phí đầu tư (triệu đồng/ha/vụ) 20,8 18,0
Lợi nhuận (triệu đồng/ha/vụ) 20,8 17,9
Năng suất vụ Đông Xuân (tấn/ha) 7,8 6,6
Năng suất vụ Hè Thu (tấn/ha) 6,2 6,2
Năng suất vụ Thu Đông (tấn/ha) 6,2 5,9
Bán lúa giống
Dự án nâng cao năng lực chọn giống và sản xuất
lúa giống cộng đồng được triển khai trên 19 tỉnh,
từ khu vực Đồng bằng sông Cửu Long đến Miền
Trung. Trong các lớp học FFS, các giảng viên
ToT đã tập trung thảo luận, hướng dẫn nông dân
cách lai chọn tạo giống lúa mới. Nhiều nông dân
đã áp dụng các kỹ thuật lai tạo cho ra các giống
lúa mới thích nghi với địa phương, phù hợp với
điều kiện sinh thái của vùng. Như kết quả đánh
giá về chi phí đầu tư và lợi nhuận cho thấy, nông
dân tham gia trong dự án sản xuất có lợi nhuận
cao hơn, điều này được nhóm nông dân cho biết là
do họ áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào
sản xuất giống, giá lúa giống cao hơn so với giá
lúa lương thực. Điều này dẫn đến lợi nhuận của
những nông dân sản xuất giống cao hơn so với
sản xuất lúa lương thực. Tuy nhiên, việc sản xuất
giống đòi hỏi có sự liên kết giữa các nông dân với
nhau, với các Trung tâm giống, Đại lý giống để
tìm đầu ra cho thị trường lúa giống của họ. Kết
quả khảo sát trên Hình 4 cho thấy, nông dân sản
xuất giống trao đổi trong nông dân chiếm tỉ lệ cao
nhất (35,1%), kế đến là bán lúa giống cho các
Trung tâm giống địa phương (22,4%), thấp nhất là
các đại lý giống (11%). Kết quả này cho thấy,
mục tiêu lan tỏa về công tác giống trong cộng
đồng đạt hiệu quả cao, mặc dù hầu hết các giống
chưa được công nhận, khảo nghiệm nhưng sự
chấp nhận của cộng đồng đạt kết quả rất cao đối
với dự án.
Journal of Science – 2016, Vol. 11 (3), 1 – 12 Part C: Agricultural Sciences, Fisheries and Biotechnology
7
Hình 4. Thị trường tiêu thụ lúa giống của nông dân tham gia dự án
Vai trò của nông dân trong hệ thống giống
Nông dân đánh giá về vai trò của họ trong hệ
thống giống cho rằng, vai trò chính của họ là cung
cấp giống cho cộng đồng (17,8%) chiếm tỉ lệ cao
nhất, kế đến là cải thiện chất lượng hạt giống
(17,3%). Kết quả đánh giá vai trò liên kết giữa
nông dân và nhà khoa học, các cơ quan nghiên
cứu chưa có sự gắn kết chặt chẽ. Điều này đã hạn
chế sự phát triển trong công tác nghiên cứu, lai
tạo giống lúa mới ở các cộng đồng. Người nông
dân đa phần làm công tác lai chọn tạo giống bằng
sự đam mê của chính bản thân họ, chưa được sự
đầu tư về cơ sở vật chất, cũng như những kiến
thức chưa thật sự chuyên sâu trong lĩnh vực chọn
tạo giống. Kết quả thể hiện trên Hình 5 cũng cho
thấy sau khóa học FFS, vai trò của họ trong công
tác cung cấp giống cho cộng đồng hết sức quan
trọng. Sự lan tỏa trong công tác khuyến nông,
hướng dẫn kỹ thuật sản xuất giống giữa các nông
dân với nhau thật sự đã đạt hiệu quả nhất định như
mục tiêu hướng đến của dự án, kết quả khảo sát
này cho thấy nông dân trong dự án hướng dẫn kỹ
thuật sản xuất giống cho cộng đồng chiếm tỉ lệ
13,3%. Nhóm nông dân cho rằng, công tác sản
xuất giống đòi hỏi kỹ thuật và sự đam mê, những
ai thấy được lợi nhuận cao trong sản xuất thì đến
tìm hiểu kỹ thuật và họ sẵn sàng để chia sẻ kinh
nghiệm làm giống, vì vậy công tác khuyến nông
trong sản xuất giống đã được lan tỏa trong cộng
đồng.
Journal of Science – 2016, Vol. 11 (3), 1 – 12 Part C: Agricultural Sciences, Fisheries and Biotechnology
8
Hình 5. Vai trò của nông dân trong hệ thống giống (% nông dân trả lời)
Sử dụng tiền lãi cho các mục đích trong gia
đình
Dự án sản xuất mới đã bắt đầu với những nổ lực
liên tục đẩy mạnh công tác khuyến nông với sự
tham gia của cộng đồng nhằm thúc đẩy phát triển
kinh tế hộ cho người dân trồng lúa thông qua các
hoạt động sản xuất lúa giống chất lượng cao, lai
chọn tạo giống mới cung cấp cho cộng đồng.
Nhiều hộ nông dân đã trở nên khá, thay đổi tình
trạng kinh tế sau khi ứng dụng dự án vào chính
đồng ruộng của họ. Nhóm nông dân nhận thấy,
đời sống vật chất, tinh thần của họ thay đổi rõ rệt,
họ sử dụng tiền lãi từ sản xuất lúa phục vụ cho các
sinh hoạt trong gia đình ngày càng nhiều hơn. Cụ
thể, qua kết quả thống kê trên Bảng 5 cho thấy,
nông dân sử dụng tiền lãi từ sản xuất lúa/giống để
mua xe máy chiếm tỷ trọng cao nhất là 18,1%, kế
đến là mua sắm các trang thiết bị, đồ dùng sinh
hoạt trong gia đình chiếm 15,4%. Đặc biệt là nông
dân nâng cao nhận thức trong việc học tập, dành
chi phí đầu tư cho con cái họ ăn học (chiếm 15%),
chi phí đầu tư này nhiều hơn so với các hoạt động
khác trong gia đình như sửa/xây nhà (13,2%),
đóng góp quỹ xã hội (13,1%), mua công cụ sản
xuất (7%).
Bảng 5. Mục đích sử dụng tiền lời cho các hoạt động trong nông hộ tham gia dự án
Mục đích sử dụng tiền Tỷ trọng (%)
Mua xe máy 18,1
Đồ dùng sinh hoạt gia đình 15,4
Đầu tư cho con ăn học 15
Sửa/Xây nhà 13,2
Đóng góp quỹ xã hội 13,1
Mua bảo hiểm 8,6
Mua công cụ gieo sạ 7
Mua máy tính 4,4
Mua đất 3,7
Journal of Science – 2016, Vol. 11 (3), 1 – 12 Part C: Agricultural Sciences, Fisheries and Biotechnology
9
Mục đích sử dụng tiền Tỷ trọng (%)
Đầu tư máy sàng lọc 1
Mua xe tải 0,8
Đầu tư máy sấy 0,4
3.2 Đánh giá tác động về giới của dự án
Với mục đích nâng cao thu nhập từ nghề sản xuất
lúa, đối tượng chính của dự án là nông dân sản
xuất lúa, mục tiêu này phù hợp với các hoạt động
triển khai của dự án trong cộng đồng nhằm nâng
cao năng lực của người nông dân trong công tác
lai tạo, chọn tạo giống lúa cộng đồng. Tuy nhiên,
do đặc thù nghề trồng lúa và vai trò nam giới là
lao động chính, tham gia quyết định tất cả các
công việc có liên quan đến đồng án. Số liệu thu
thập cho thấy, tỷ lệ nam giới tham gia lớp học
FFS của nông dân Đồng bằng sông Cửu Long
chiếm cao nhất (94,9%), trong khi đó nữ giới chỉ
chiếm tỷ lệ rất thấp là 5,1% (Hình 6). Điều này
trái ngược với khu vực Miền Trung, tỷ lệ nam
giới tham gia FFS chỉ cao hơn 1,95 lần, nam giới
chiếm tỷ lệ 66,1%, trong khi nữ giới chiếm tỷ lệ
33,9%. Như vậy, vùng Đồng bằng sông Cửu Long
chủ yếu là nam giới tham gia vào lớp học, trong
khi đó ở Miền Trung có sự tham gia tương đối của
nữ giới trong lớp học tập huấn. Sự khác biệt này
là do sự phân công lao động truyền thống trong
các hộ gia đình rất khác nhau giữa Miền Nam và
Miền Trung. Ở Đồng bằng sông Cửu Long, chủ
yếu là nam giới làm công việc đồng án, trong khi
ở Miền Trung công việc này chủ yếu là phụ nữ
gánh vác do đất canh tác manh múng, nhỏ lẻ, nam
giới chủ yếu di cư đến các thành phố lao động.
Hình 6. Tỷ lệ nam nữ tham gia lớp học FFS trong dự án
Phân công lao động sản xuất nông nghiệp trong
nông hộ
Trong phát triển kinh tế nông hộ, cả nam và nữ
đều tham gia sản xuất trong các lĩnh vực nông
nghiệp, cũng như phi nông nghiệp nhằm cải thiện
tình trạng kinh tế của gia đình. Phụ nữ thường có
gánh nặng công việc gấp đôi vì ngoài việc tham
gia đồng án họ còn phải chăm sóc con cái, nội trợ
trong gia đình. Tuy nhiên, thực tế đánh giá cho
thấy việc tham gia vào các lớp học FFS, phụ nữ
được nâng cao nhận thức và có cơ hội tiếp cận
được với những kỹ thuật mới. Ví dụ như sau khóa
học, bản thân người phụ nữ đưa ra những quyết
Journal of Science – 2016, Vol. 11 (3), 1 – 12 Part C: Agricultural Sciences, Fisheries and Biotechnology
10
định tốt hơn về công việc đồng án của mình, tham
gia cùng với nam giới trong việc sản xuất, cùng
bàn bạc, chia sẻ gánh nặng công việc trên đồng
ruộng. Bảng 6 cho thấy, trước khi tham gia dự án,
người phụ nữ ít tham gia quyết định vào các công
việc sản xuất trên đồng ruộng, hầu như là nam
giới là chủ yếu. Sau khóa học FFS, phụ nữ tham
gia nhiều hơn vào các hoạt động sản xuất, bởi lẽ
họ đã có được những kiến thức cần thiết trong sản
xuất để cùng đóng góp ý kiến với người chồng
trong gia đình. Cụ thể, trước năm 2000 (trước khi
tham gia dự án) cả nam và nữ cùng tham gia
quyết định trong các hoạt động sản xuất như mật
độ gieo sạ, quản lý cỏ, quản lý ốc, sâu, bệnh, ngày
gặt lần lượt là 5,2%; 8,3%; 10,3% và 30%. Tuy
nhiên, năm 2014 (sau khóa học FFS) các hoạt
động này có sự tham gia đóng góp ý kiến của phụ
nữ trong gia đình tăng lên rõ rệt, lần lượt là
30,2%; 12,7%; 36,4% và 46,8%.
Bảng 6. Phân công lao động trong sản xuất lúa tại nông hộ tham gia dự án
STT Công việc
Năm 2000 Năm 2014
Nam
(%)
Nữ
(%)
Cả hai
(%)
Nam
(%)
Nữ
(%)
Cả hai
(%)
1 Quyết định ngày gieo sạ 82,2 12,7 5,2 77,3 13,7 9
2 Quyết định loại giống lúa 82,2 13,7 4,1 80,9 11,1 8
3 Quyết định mật độ gieo sạ 83,7 11,1 5,2 58,4 11,4 30,2
4 Quyết định loại và lượng phân bón 60,7 11,4 27,9 77,8 11,6 10,6
5 Tham gia quản lý cỏ 79,8 11,9 8,3 74,4 12,9 12,7
6 Tham gia quản lý ốc, sâu, bệnh 76,7 12,9 10,3 46 17,6 36,4
7 Quyết định ngày gặt 53 17,1 30 36,2 17,1 46,8
8 Quyết định người mua và giá bán 42,1 15,2 42,6 71,6 12,1 16,3
9 Sử dụng tiền lãi trong gia đình 77,5 12,7 9,8 38 18,9 43,2
10 Tham dự tập huấn, hội họp 77 13,2 9,8 67,7 11,6 20,7
Kết quả đánh giá trên Bảng 7 cho thấy, tỷ lệ nữ là
người dân tộc thiểu số tham gia quyết định các
công việc trên đồng ruộng cao hơn so với phụ nữ
là người dân tộc Kinh. Qua các buổi thảo luận
nhóm nông dân tự đánh giá cho rằng, do tập quán
sinh sống theo chế độ mẫu hệ đối với người dân
tộc Chăm, Khmer,. nên hầu hết các công việc
sản xuất trên đồng ruộng chủ yếu là do phụ nữ
đảm trách. Nam giới chỉ đóng vai trò tham gia vào
quá trình sản xuất hoặc các công việc khác trong
gia đình.
Bảng 7. Sự phân công lao động trong nông hộ dân tộc Kinh và dân tộc thiểu số
STT Loại công việc
Dân tộc Kinh Dân tộc thiểu số
Nữ
%
Nam
%
Cả hai
%
Nữ
%
Nam
%
Cả hai
%
1 Quyết định ngày gieo sạ 13,4 77,5 9,0 18,2 72,7 9,1
2 Quyết định loại giống lúa 11,0 81,4 7,7 13,6 72,7 13,6
Journal of Science – 2016, Vol. 11 (3), 1 – 12 Part C: Agricultural Sciences, Fisheries and Biotechnology
11
STT Loại công việc
Dân tộc Kinh Dân tộc thiểu số
Nữ
%
Nam
%
Cả hai
%
Nữ
%
Nam
%
Cả hai
%
3 Quyết định mật độ gieo sạ 11,2 58,4 30,4 13,6 59,1 27,3
4 Quyết định loại và lượng phân bón 11,5 78,1 10,4 13,6 72,7 13,6
5 Tham gia quản lý cỏ 12,9 74,8 12,3 13,6 68,2 18,2
6 Tham gia quản lý ốc, sâu, bệnh 16,2 46,6 37,3 40,9 36,4 22,7
7 Quyết định ngày gặt 15,6 36,4 47,9 36,4 31,8 31,8
8 Quyết định người mua và giá bán 12,1 72,3 15,6 13,6 59,1 27,3
9 Sử dụng tiền lãi trong gia đình 17,5 38,4 44,1 36,4 31,8 31,8
10 Tham dự tập huấn, hội họp 11,5 67,9 20,5 13,6 63,6 22,7
Ở Đồng bằng sông Cửu Long, công việc đồng án
được nam giới làm nhiều hơn, có nghĩa là phụ nữ
rất ít tham gia vào các hoạt động sản xuất trên
đồng ruộng. Trong các lớp học FFS tại các tỉnh
Đồng bằng sông Cửu Long, dự án cũng đã cố
gắng vận động phụ nữ tham gia, tuy nhiên điều
này chưa đạt được kết quả như mong đợi bởi lẽ do
tập quán phân công lao động trong sản xuất nông
nghiệp ở địa phương. Nhiều phụ nữ khi tham gia
khóa học FFS, ở Miền Trung họ lại giữ vai trò
chính yếu trên đồng ruộng của họ. Kết quả số liệu
được mô tả trên Bảng 8 cho thấy, các hoạt động
sản xuất lúa tại Miền Trung, phụ nữ tham gia
nhiều hơn so với phụ nữ vùng Đồng bằng sông
Cửu Long.
Bảng 8. Sự phân công lao động trong nông hộ vùng ĐB Sông Cửu Long và Miền Trung
STT Loại công việc
ĐB sông Cửu Long Miền Trung
Nữ
%
Nam
%
Cả hai
%
Nữ
%
Nam
%
Cả hai
%
1 Quyết định ngày gieo sạ 4,6 80,6 14,8 25,1 73,1 1,8
2 Quyết định loại giống lúa 3,7 87,0 9,3 20,5 73,1 6,4
3 Quyết định mật độ gieo sạ 4,2 67,1 28,7 20,5 47,4 32,2
4 Quyết định loại và lượng phân bón 3,2 81,5 15,3 22,2 73,1 4,7
5 Tham gia quản lý cỏ 5,1 79,2 15,7 22,8 68,4 8,8
6 Tham gia quản lý ốc, sâu, bệnh 11,1 38,4 50,5 25,7 55,6 18,7
7 Quyết định ngày gặt 11,1 30,6 58,3 24,0 43,3 32,7
8 Quyết định người mua và giá bán 3,2 72,7 24,1 23,4 70,2 6,4
9 Sử dụng tiền lãi trong gia đình 11,1 29,2 59,7 28,1 49,1 22,8
10 Tham dự tập huấn, hội họp 3,2 69,4 27,3 22,2 65,5 12,3
Journal of Science – 2016, Vol. 11 (3), 1 – 12 Part C: Agricultural Sciences, Fisheries and Biotechnology
12
Các hoạt động trong lớp học FFS được dễ dàng
ứng dụng mang lại hiệu quả cao góp phần nâng
cao thu nhập cho nông hộ. Kết quả đánh giá cho
thấy, trong các nội dung được truyền tải trên lớp
học thì nội dung kiểm tra và quản lý đồng ruộng
được phụ nữ ứng dụng nhiều nhất sau khi tham
gia FFS (39,3%), kế đến là họ ứng dụng các tiến
bộ khoa học trong sản xuất trên đồng ruộng. Mục
tiêu chính của dự án là nâng cao năng lực của
người dân trong lai tạo lúa giống có lẽ chưa phát
huy hiệu quả đối với nhóm phụ nữ, bởi lẽ đây là
hoạt động đòi hỏi có nhiều kinh nghiệm và sự
đam mê trong sản xuất, chỉ chiếm (6,5%) (Hình
7).
Hình 7. Tỷ trọng phụ nữ tham gia các hoạt động của dự án sau khóa học
4. KẾT LUẬN
Qua kết quả nghiên cứu cho thấy, nông dân tham
gia vào mô hình sản xuất lúa giống đạt hiệu quả
lợi nhuận cao hơn so với nông dân không tham
gia mô hình. Mức độ đầu tư vào mô hình sản xuất
lúa giống của nông dân vùng Đồng bằng sông
Cửu Long cao hơn so với nông dân Miền Trung.
Bên cạnh đó, năng suất lúa từ mô hình sản xuất
lúa giống của nông dân vùng Đồng bằng sông
Cửu Long cao hơn so với nông dân Miền Trung.
Các nông hộ tham gia vào mô hình sản xuất lúa
giống được tập huấn nâng cao trình độ kỹ thuật
sản xuất, nâng cao nhận thức về vai trò của giới
trong sản xuất nông nghiệp. Từ đó, các hoạt động
sản xuất có sự phân công lao động hợp lý giữa
nam và nữ trong nông hộ. Kết quả nghiên cứu là
rất cần thiết cho ngành nông nghiệp Việt Nam
tham khảo xây dựng chương trình tập huấn trong
sản xuất giống lúa nói riêng, sản xuất nông nghiệp
nói chung nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế, đẩy
mạnh việc triển khai ứng dụng các tiến bộ khoa
học kỹ thuật trong sản xuất.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Cronin, J. J., & Steven A. T. (1994). SERVPERF
versus SERVQUAL: Reconciling Performance
- Based and Perception - Minus - Expectations
Measurement of Service Quality. Journal of
Marketing, 58(1), ABI/INFORM Global.
Huỳnh Quang Tín. (2009). Impacts of famer -
Based training in seed production in Vietnam.
The University of Wageningen, Wageningen,
the Netherlands.
Hoàng Trọng & Chu Nguyễn Mộng Ngọc. (2005).
Phân tích dữ liệu với SPSS. Thành phố Hồ Chí
Minh: Nhà xuất bản Hồng Đức.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 01_nguyen_ngoc_nhan_0_3237.pdf