Phối hợp TXC bằng Levobupivacaine và
morphine với gây mê toàn thân để phẫu thuật
sửa chữa tim bẩm sinh ở trẻ em thì an toàn và
mang lại nhiều lợi ích trên lâm sàng, cho phép
giảm các đáp ứng của cơ thể đối với stress, do
đó làm giảm tỷ lệ tử vong và biến chứng. Nó
cho phép cải thiện chức năng hô hấp, duy trì
huyết động ổn định, kiểm soát đau sau mổ tốt
hơn và cho phép rút NKQ sau mổ sớm hơn so
với gây mê toàn thân và giảm đau sau mổ với
morphine chích tĩnh mạch.
Mặc dù tai biến máu tụ ngoài màng cứng rất
hiếm nhưng nếu xảy ra thì nghiêm trọng và
vĩnh viễn. Để hạn chế tối đa xảy ra tai biến này
nên tôn trọng khoảng cách thời gian từ khi thực
hiện thủ thuật chích tê cho đến khi chích
heparin ít nhất là 60 phút đối với TXC và phải
cẩn thận chọn lựa bệnh nhân có tình trạng đông
máu bình thường trước mổ.
10 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 411 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá hiệu quả và an toàn của phối hợp gây tê xương cùng bằng levobupivacaine và morphine với gây mê tổng quát trong phẫu thuật sửa chữa tim bẩm sinh ở trẻ em, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 65
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ VÀ AN TOÀN CỦA PHỐI HỢP GÂY TÊ
XƯƠNG CÙNG BẰNG LEVOBUPIVACAINE VÀ MORPHINE
VỚI GÂY MÊ TỔNG QUÁT TRONG PHẪU THUẬT SỬA CHỮA
TIM BẨM SINH Ở TRẺ EM
Nguyễn Thị Quý*
TÓM TẮT
Phối hợp gây tê xương cùng với gây mê tổng quát có thể làm giảm các đáp ứng đối với stress trong quá trình
mổ tim. Hơn nữa còn góp phần cải thiện chức năng hô hấp, tuần hoàn ổn định hơn, giảm thang điểm đau và rút
nội khí quản sớm sau mổ. Điều này dẫn đến giảm tỷ lệ tử vong và biến chứng sau mổ.
Mục đích nghiên cứu nhằm đánh giá hiệu quả và an toàn của phối hợp tê xương cùng bằng
Levobupivacaine (Chirocaine) và Morphine với gây mê tổng quát trong phẫu thuật tim mạch trên các trẻ em
bệnh tim bẩm sinh
Phương pháp nghiên cứu: chúng tôi thực hiện tê xương cùng với Levobupivacaine nồng độ 0,2 – 0,25%
với morphine không chứa chất bảo quản với liều lượng 80 – 100 g/kg trên 103 trẻ em dưới phẫu thuật sữa chữa
tim bẩm sinh, gồm 51 nam và 52 nữ. Tất cả các bệnh nhi này được gây mê tổng quát, thông khí kiểm soát và duy
trì mê với Sevoflurane.
Kết quả: Huyết động ổn định trong và sau mổ. Thời gian trung bình từ khi tê xương cùng đến rạch da
(phút) là 38,66 ± 12,68 (30 – 60).Thời gian thức tỉnh trung bình sau mổ (giờ) là 3,05 ± 2,35 (1 – 5,03). Thời gian
rút nội khí quản trung bình sau mổ (giờ) là 6,17 ± 2,33 (4 – 9). Thời gian giảm đau sau mổ từ 12 – 16 giờ. Đánh
giá hiệu quả giảm đau sau mổ với kết quả tốt 93,4%, 12 trường hợp (TH) cần cho thêm thuốc giảm đau
(Prodafalgan đặt hậu môn, morphine chích tĩnh mạch); 3 trường hợp nôn và buồn nôn; 1 trường hợp bí tiểu. Tất
cả bệnh nhân này được chuyển trại trong vòng 24 giờ sau mổ.
Kết luận: Phối hợp tê xương cùng bằng Levobupivacaine và morphine với gây mê toàn thân được thực hiện
an toàn và hiệu quả trên các trẻ em dưới phẫu thuật tim bẩm sinh.
Từ khoá: tê xương cùng, phẫu thuật tim bẩm sinh ở trẻ em, levobupivacaine, morphine không chứa chất bảo
quản.
ABSTRACT
EVALUATE THE EFFICACY AND SAFETY OF THE COMBINATION OF CAUDAL BLOCKADE BY
ASSOCIATION OF LEVOBUPIVACAINE WITH MORPHINE AND GENERAL ANESTHESIA FOR
CHILDREN WITH CONGENITAL HEART DISEASE UNDERGOING CARDIAC SURGICAL REPAIR
Nguyen Thi Quy * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 3 - 2011: 65 - 74
The combination of caudal blockade with general anesthesia in cardiac surgery can attenuate the stress
responses. Additional benefits that may be attributed to neuroaxial anesthesia include improved pulmonary
function, greater circulatory stability, reduced pain scores and early extubation. That lead to reduce the mortality
and morbidity in postoperative.
The aim of this study is to evaluate the efficacy and safety of the combination of caudal blockade by
association of Levobupivacaine (Chirocaine) with morphine without preservative and general anesthesia for
* Khoa Gây Mê hồi sức Viện Tim TP. HCM
Tác giả liên lạc: TS.BS.Nguyễn Thị Quý, 0913674254 Email: drngtquy@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 66
chidren with congenital heart disease undergoing cardiac surgery.
Methods: We performed caudal blockage with Levobupivacaine 0.2 – 0.25% associated with morphine at the
dose of 80 – 100g/kg in 103 children underwent cardiac surgical repair. There were 51 males and 52 females. All
these children was general anesthetized and intubation with control ventilation and maintenance of anesthesia by
Sevoflurane.
Result: Stable hemodynamic during and post-operative. The mean time from caudal insertion to incision
(minutes) is 38.66 ± 12.68 (30 – 60). The mean of awake time in postoperative (hour) is 3.05 ± 2.35 (1 – 5.03).
The mean of extubation time (hour) is 6.17 ± 2.33 (4 – 9). The duration of analgesia post-operative is 12 – 16
hours. Evaluation anagesia in postoperative includes 93.4% with good result, 12 cases needed giving more
analgesic (Prodafalgan or morphine intravenous), 3 cases of nausea and vomiting, 1 case of retention of urine. All
of these patients was going to hospitalisation in 24 hour postoperative.
Conclusion: The combination of caudal blockage by association of Levopubivacaine with morphine and
general anesthesia was performed effectiveness and safety in children with congenital heart disease undergoing
cardiac surgery.
Key words: caudal anesthesia, Levobupivacaine, general anesthesia, congenital heart disease, cardiac
surgical repair, morphine without preservative.
MỞ ĐẦU
Những ích lợi từ việc sử dụng kỹ thuật gây
tê ngoài màng cứng (TNMC) với thuốc phiện
trong phẫu thuật tim mạch lồng ngực ở trẻ em
bắt đầu từ nghiên cứu đầu tiên của Rosen(12)
năm 1980. Nghiên cứu này đã chứng minh việc
gây tê xương cùng chỉ với một liều duy nhất
morphine (single –shot caudal block) vào cuối
cuộc mổ có thể đạt được hiệu quả giảm đau
cũng như duy trì sự thoải mái cho các trẻ em ở
giai đoạn sau mổ các phẫu thuật lồng ngực.
Càng ngày kỹ thuật gây tê vùng càng được phổ
biến và đã có nhiều công trình báo cáo về ích lợi
của việc phối hợp gây tê vùng với gây mê toàn
thân trong các phẫu thuật tim mạch ở cả người
lớn và trẻ em. Sự phối hợp này cho phép giảm
các đáp ứng của cơ thể đối với stress ngoại
khoa, duy trì huyết động ổn định hơn trong lúc
mổ, cải thiện chức năng hô hấp, rút nội khí quản
sớm hơn, kiểm soát đau sau mổ tốt hơn. Do đó
rút ngắn thời gian thở máy sau mổ, giảm thấp tỷ
lệ tử vong, biến chứng, chi phí điều trị hơn so
với gây mê toàn thân đơn thuần và giảm đau
sau mổ bởi chích morphine qua đường tĩnh
mạch.
Mục đích nghiên cứu của chúng tôi nhằm
đánh giá hiệu quả và an toàn của phối hợp tê
xương cùng với levobupivacaine và morphine
trên các bệnh nhi phẫu thuật sửa chữa tim bẩm
sinh với/hoặc không với tuần hoàn ngoài cơ thể
tại Viện Tim TP. Hồ Chí Minh.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nhóm nghiên cứu gồm các bệnh nhi tim
bẩm sinh tím và không tím, được phẫu thuật
sửa chữa tim dưới tuần hoàn ngoài cơ thể
(THNCT) hoặc không THNCT (tim kín) tại Viện
Tim TP. Hồ Chí Minh. Khi đến phòng mổ, tất cả
bệnh nhân được thiết lập các phương tiện kiểm
báo như gắn các điện cực monitoring ECG với 5
chuyển đạo, gắn capteur đo Sp02, đo huyết áp
không xâm lấn liên tục, đặt đường truyền tĩnh
mạch. Dẫn mê với midazolam (15 - 30g/kg)
hoặc sevoflurane qua mask (đối với trẻ nhỏ
chưa đặt được đường truyền tĩnh mạch),
sufentanil 1 g/kg và Esmeron 1mg/kg.
Chúng tôi thực hiện tê xương cùng (TXC)
bằng Levobupivacaine (Chirocaine®) phối hợp
với morphine không chứa chất bảo quản để
giảm đau trong và sau mổ. Sau khi đặt nội khí
quản (NKQ), đặt trẻ ở tư thế nằm nghiêng và
gây tê xương cùng bằng kim luồn 24G hoặc 22G.
Khi kim đưa vào đúng vị trí khoang ngoài màng
cứng, hút kiểm tra không có máu hoặc dịch
trong, bơm liều test lidocaine 1% với
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 67
epinephrine 1: 200.000. Nếu Mạch (M), huyết áp
(HA) không thay đổi, tiêm chậm phối hợp thuốc
tê Levobupivacaine nồng độ 0,2 - 0,25% và
morphine không chứa chất bảo quản (opiphine)
80 - 100g/kg với liều là 1 ml/kg nhưng không
quá 20 ml đối với trẻ > 20kg. Kế đến chúng tôi
đặt catheter động mạch để theo dõi HA động
mạch và catheter 3 nòng vào tĩnh mạch cổ trong
để theo dõi CVP. Trong suốt quá trình mổ, bệnh
nhi được duy trì mê với Fi02 từ 60 – 100% và
sevoflurane nồng độ (0,8 – 2% end tidal) hoặc
tiêm thêm sufentanil (khi cần) tùy theo tình
trạng huyết động của bệnh nhân và thuốc dãn
cơ.
Hình 1: Hình tư thế bệnh nhân khi thực hiện tê
xương cùng
Đánh giá hiệu quả giảm đau và độ sâu gây
mê trong lúc mổ theo thang điểm PRST (huyết
áp, mạch, đổ mồ hôi, chảy nước mắt). Ghi nhận
mạch, huyết áp vào các thời điểm trước và sau
khi rạch da, trước và sau khi cưa xương ức và
trong suốt cuộc mổ, liều sufentanil cần tiêm
thêm hoặc nồng độ sevoflurane cần tăng cao
hơn, tỷ lệ các thuốc vận mạch cần dùng trong
lúc mổ (ephedrine, dãn mạch)
Sau khi chấm dứt cuộc mổ, đối với trẻ lớn
chúng tôi duy trì an thần với propofol truyền
liên tục bắt đầu từ phòng mổ kể từ khi cắt
thuốc mê bay hơi và tiếp tục duy trì ở hồi sức
trong khoảng 3 giờ với liều lượng 50g/kg/giờ
hoặc midazolam 0,10mg/kg trước khi chuyển
đến hồi sức.
Tại hồi sức, bệnh nhân được theo dõi và ghi
nhận mạch, HA, và đánh giá đau mỗi giờ bởi
thang điểm VAS (1 – 10) đối với trẻ lớn hợp tác
được (> 8 tuổi).Trẻ > 3 tuổi thang điểm đánh giá
đau qua nhìn vẻ mặt của Wong-Baker Faces
Rating Scale, hoặc thang điểm OPS (đối với trẻ <
5tuổi) bởi các điều dưỡng trực và xử trí cho
thêm thuốc giảm đau bởi các BS trực.
Hình 2: Thang điểm đánh giá đau VAS (visual
analogue scale)
Hình 3: Đánh giá đau bởi thang điểm Wong-Baker
(Wong-Baker FACES pain rating scale)
Đánh giá hiệu quả giảm đau như sau:
Không đau = 0; đau nhẹ (1- 3); đau trung bình (4
– 6) và đau nhiều (7 – 10). Cho thêm thuốc giảm
đau khi VAS >4. Trẻ < 5tuổi đánh giá đau theo
thang điểm OPS (objective Pain Scale) và cho
thêm thuốc giảm đau khi > 4 điểm.
Khi bệnh nhân (BN) có thể tự thở, mở mắt,
đủ trương lực vận động cơ tiến hành cai máy
thở bằng cách chuyển máy thở qua chế độ hỗ
trợ với mức áp lực (PS =6) hoặc để bệnh nhân
tự thở dưới chế độ CPAP. Sau khi kiểm tra
thấy khí máu động mạch chấp nhận được,
huyết động ổn định thì chỉ định rút nội khí
quản. Chúng tôi ghi nhận thời điểm rút NKQ,
các tác dụng phụ do tê xương cùng (nôn,
buồn nôn, tụt HA, bí tiểu, máu tụ dưới màng
cứng). Ghi nhận thời điểm cần cho thêm
thuốc giảm đau khác (morphine tiêm tĩnh
mạch, paracetamol nhét hậu môn)
Bảng 1: Thang điểm đánh giá đau OPS (Objective
Pain Scale) thích hợp đối với trẻ em < 5 tuổi (cần điều
trị giảm đau hiệu quả hơn khi > 4 điểm)
Thông số Điểm
HA ± 10 trước mổ 0
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 68
Thông số Điểm
10 – 20% trước mổ 1
20 – 30% trước mổ 2
Không 0
Có nhưng có thể dổ được 1
Khóc
Có nhưng không thể dổ được 2
Không 0
Thỉnh thoảng, trung bình 1
Cử động
Thường xuyên 2
Trẻ nằm yên hoặc ngủ 0
Dãy dụa trung bình, không nằm 1 chổ 1
Dãy dụa
Dãy dụa không ngủ dữ dội, nguy cơ bị
đau
2
Ngủ hoặc nằm yên 0
Biểu hiện đau trung bình, không khu
trú, không hoàn toàn thoải mái, hoặc
chân gập theo thân người, cánh tay
xếp chéo trên thân người
1
Đánh giá
giọng nói
hoặc cơ thể
Đau khi trú hoặc diễn tả bởi bàn tay
hoặc tư thế chân gập theo cơ thể,
nắm chặt tay và cửa bàn tay hướng
về chổ đau, hoặc tìm sự che chở
2
Phương pháp thống kê dựa trên phần mềm
SPSS, các biến số liên tục được trình bày dưới
dạng các trị số trung bình ± độ lệch chuẩn. So
sánh sự khác biệt về mạch, HA giữa các thời
điểm phẫu thuật (PT) khác nhau. Kết quả p< 0,05
được coi là có ý nghĩa thống kê.
KẾT QUẢ
Nhóm nghiên cứu gồm 103 trẻ em với 51
nam và 52 nữ; 17 TH mổ tim kín và 86 TH mổ
tim hở; với các loại bệnh lý tim bẩm sinh tím và
không tím: 5 TH còn ống động mạch, 6 TH
thông liên nhĩ, 52 TH thông liên thất, 2 TH thiểu
sản van động mạch phổi kèm thông liên thất
(APSO), 18 TH tứ chứng Fallot, 2 TH kênh nhĩ
thất, 7 TH chuyển vị đại động mạch, và 11
trường hợp tim bẩm sinh tím phức tạp (phẫu
thuật Fontan, cavopulmonary anastomosis,
Blalock). Để duy trì huyết động ổn định trong
suốt cuộc mổ có 14 TH cần dùng thuốc co mạch
(Ephedrine); 57 TH cần hỗ trợ inotrope sau khi
cai THNCT (dobutamine, milrinone,
epinephrine). 12 TH cần phải cho thêm thuốc
giảm đau prodafalgan nhét hậu môn, 2 TH cần
chích thêm 1 liều nhỏ morphine sau mổ. Các tác
dụng phụ do TXC ghi nhận được: 1 TH bí tiểu. 3
TH nôn và buồn nôn
Bảng 1: Đặc điểm bệnh nhân mổ tim
Đặc điểm BN Trung bình ± ĐLC
Phái tính (nam/nữ) 51/52
Tuổi (năm) 5,92 ± 3,35 (1 – 15)
Cân nặng (kg) 16,07 ± 3,64 (4,5 – 26)
Chiều cao (cm) 92,75 ±13,61 (70 – 126)
Bảng 2: Đặc điểm phẫu thuật
Đặc điểm PT Trung bình ± ĐLC
Thời gian gây mê (phút) 230 ± 33,91 (180 – 260)
Thời gian mổ (phút) 183,17 ± 29,05 (135 – 220)
Thời gian THNCT (phút) 67,86 ± 17,60 (43 – 96)
Thời gian kẹp ĐMC (phút) 39,57 ± 23,13 (6 – 76)
Bảng 3: Đặc điểm gây tê và thức tỉnh sau mổ
Đặc điểm gây tê vả thức tỉnh sau
mổ
Trung bình ± ĐLC
Thời gian từ khi chích tê đến rạch
da (phút)
38,66 ± 12,68 (30 –
60)
Thời gian thức tỉnh (giờ) 3,05 ± 2,35 (1 – 5,03)
Thời gian cai thở máy (giờ) 4,54 ± 2,10 (3 – 6)
Thời gian rút NKQ (giờ) 6,17 ± 2,33 (4 – 9)
Bảng 4: Hiệu quả giảm đau trong và sau mổ
Hiệu quả giảm đau Trường hợp (%)
Thêm sufentanil khi rạch da 22/103 TH (21,1%)
Liều sufentanil (g) 9,07 ± 5,30 (2,5 – 22)
Hiệu quản giảm đau sau mổ Trung bình
Tốt
: 6,6%
: 93,4%
BÀN LUẬN
Đau sau mổ vẫn là một thách thức lớn trong
lãnh vực y khoa, mặc dù đã có nhiều tiến bộ
trong việc hiểu biết về sinh lý bệnh của đau cấp
cũng như phát triển nhiều loại thuốc mới và các
kỹ thuật cho thuốc mới, nhưng vẫn còn một số
lượng đáng kể bệnh nhân tiếp tục chịu đựng
đau sau mổ do điều trị đau không đủ hiệu quả.
Điều này dẫn đến nhiều hậu quả nghiêm trọng
như các tác dụng hư hại trên chức năng thần
kinh nội tiết, hô hấp, dạ dày-ruột, tuần hoàn và
hoạt động hệ thần kinh tự động nhất là trong
các PT lồng ngực và bụng Ngoài ra, đau
nghiêm trọng không được điều trị tốt có thể dẫn
đến nguy cơ phát triển đau mạn tính sau mổ.
Việc kiểm soát đau sau mổ không đủ hiệu quả
sẽ dẫn đến kéo dài thời gian nằm viện, chậm hồi
phục và kết quả sau mổ không tốt.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 69
Tê trục thần kinh (neuroaxial block) bao
gồm tê tuỷ sống (TTS) và tê ngoài màng cứng
(TNMC) bằng thuốc tê có /hoặc không có phối
hợp với thuốc á phiện là một trong các kỹ
thuật để an thần và giảm đau sau mổ tim trẻ
em. Gây tê vùng cung cấp hiệu quả giảm đau
sau mổ tuyệt vời, thời gian tác dụng kéo dài
và chất lượng giảm đau sau mổ tốt hơn so với
điều trị giảm đau qua đường tĩnh mạch. Vì
vậy, ngày càng được sử dụng rộng rãi ở cả
người lớn và trẻ em.
Tê xương cùng là một kỹ thuật thường được
sử dụng nhất ở trẻ em vì nhiều lý do:
- Về phương diện cơ thể học, kỹ thuật TXC
đơn giản, các mốc chích tê là xương, lớp mỡ
dưới da ít cho đến 7 – 8 tuổi, nên việc xác
định mốc dễ dàng hơn nhiều so với người
lớn. Hơn nữa, thành phần của khoang ngoài
màng cứng ở trẻ em gồm mỡ lỏng, ít đậm đặc,
không có mô xơ, nên khi tiêm vào khoang
ngoài màng cứng thuốc sẽ được khuyếch tán
tốt hơn. Cột sống của trẻ sơ sanh và trẻ em thì
thẳng và ít mỡ đậm đặc, mô xơ nên có thể
luồn catheter từ lỗ xương cùng thẳng đến
khoang ngoài màng cứng ngực. Điều này cho
phép cung cấp tác dụng giảm đau đến đoạn
ngực, tránh được mối nguy hiểm chích trực
tiếp kim vào khoang ngoài màng cứng ngực.
- Duy trì huyết động ổn định vì nguy cơ tụt
HA do chẹn thần kinh giao cảm sau TNMC và
tê tuỷ sống thường rất ít xảy ra ở trẻ em so với
người lớn vì thể tích dưới cơ hoành ở trẻ em nhỏ
hơn và kháng lực mạch máu ngoại biên thấp
hơn nên tình trạng dãn mạch ít quan trọng hơn.
Bromage là người đầu tiên chứng minh tê
trục thần kinh làm giảm đáp ứng của cơ thể đối
với stress trong các PT lớn như lồng ngực và
bụng(1). Tê trục thần kinh với các loại thuốc tê
với có/hoặc không có kết hợp với thuốc phiện
dường như hiệu quả hơn trong việc ức chế các
đáp ứng của cơ thể đối với các stress ngoại khoa
hơn là dùng morphine qua đường chích tĩnh
mạch. Việc sử dụng giảm đau trục thần kinh kết
hợp với gây mê tổng quát trong PT tim mạch
làm giảm các đáp ứng đối với stress và dễ dàng
rút NKQ sớm sau mổ đã được báo cáo.
Đáp ứng của cơ thể đối với stress là tập hợp
các đáp ứng sinh lý đối với các kích thích ngoại
khoa bao gồm hư hại tuần hoàn, biến dưỡng,
miễn dịch và hệ thống huyết học có thể dẫn đến
tử vong và biến chứng. Các hư hại sinh lý như
nhịp tim nhanh, co mạch, tăng thoái dưỡng, hư
hại đáp ứng miễn dịch và kích hoạt tiểu cầu. Sự
đáp ứng đối với stress gây tăng nồng độ
epinephrine, norepinephrine, cortisol, glucagon,
-endorphine, glucose và acid lactic. Ngoài ra,
nó cũng ảnh hưởng đến chức năng tuyết giáp và
kết quả làm giảm T3 (triiodothyroxine). Thuốc
mê tĩnh mạch dường như không hoàn toàn huỷ
bỏ các đáp ứng đối với stress ngoại khoa và
THNCT. Nghiên cứu của Gruber và cs trên 2
nhóm trẻ em mổ tim dưới gây tê vùng và gây
mê tĩnh mạch đơn thuần nhận thấy nồng độ
epinephrine, norepinephrine, cortisol glucose và
lactate trong huyết tương tại 5 thời điểm khác
nhau trong suốt quá trình mổ cao hơn có ý
nghĩa ở nhóm mê tĩnh mạch. Tác giả kết luận
rằng gây mê tĩnh mạch đơn thuần với fentanyl
với có/hoặc không có kết hợp với midazolam
dường như không làm giảm các đáp ứng của
stress đối với hormon và biến dưỡng ở các trẻ
em mổ tim. Một nghiên cứu khác cũng xác định
TNMC giảm đau bằng thuốc tê làm giảm các
đáp ứng đối với stress tốt hơn sử dụng fentanyl
chích tĩnh mạch trong PT tim bẩm sinh ở trẻ em.
Các báo cáo khác chứng minh gây tê vùng ở
bệnh nhân mổ tim cho phép cải thiện chức năng
cơ học của phổi, nhanh chóng có lại các hoạt
động dạ dày ruột, tăng ổn định tim mạch và
tăng giảm đau sau mổ. Hơn thế nữa, nó còn cho
phép rút NKQ sớm vì vậy giảm chi phí điều trị
và các biến chứng do thở máy kéo dài sau mổ.
Hai nghiên cứu lớn về gây tê vùng trên trẻ em
mổ tim bởi Hammer và cs(5,6) về giảm các đáp
ứng đối với stress, cải thiện chức năng phổi và
dạ dày ruột và kết quả là giảm chi phí điều trị
khi sử dụng gây tê vùng. Nghiên cứu của
Rodgers và cs cho thấy giảm có ý nghĩa tử vong
và biến chứng với kỹ thuật gây tê vùng.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 70
TXC kết hợp với morphine tiêm một liều
bolus duy nhất được ưa chuộng nhất trong PT
tim mạch. Thuốc tê kết hợp với morphine có
khuynh hướng lan lên đốt sống ngực. Liều
morphine qua khoang xương cùng từ 0,05 – 0,1
mg/kg và cho sau dẫn mê toàn thân. Khi tiêm
thuốc phiện qua khoang ngoài màng cứng phải
thận trọng vì nó có tác dụng đồng vận với thuốc
mê qua đường tĩnh mạch, làm tăng tác dụng của
morphine chích tĩnh mạch sẽ làm tăng nguy cơ
ức chế hô hấp nên phải giảm liều dùng
morphine tĩnh mạch và phải theo dõi sát bệnh
nhân sau mổ.
Rosen và Rosen’s(12) mô tả chích TXC với
morphine không chứa chất bảo quản vào giai
đoạn cuối của PT tim khi tình trạng đông máu
trở về bình thường và sau khi đã trung hoà
heparin. Nghiên cứu ban đầu cho thấy tiêm
thuốc phiện qua khoang ngoài màng cứng
xương cùng có thể cung cấp giảm đau cho PT
lồng ngực. Chất lượng giảm đau thì tuyệt vời và
thời gian giảm đau kéo dài từ 8 – 24 giờ.
Tiêm morphine vào khoang NMC có thể
loại bỏ các gốc tự do và theo lý thuyết có thể
cung cấp tác dụng bảo vệ thần kinh. Việc
chích vào khoang ngoài màng cứng được xem
là chống chỉ định ở bệnh nhân hẹp eo ĐMC vì
nó làm tăng có ý nghĩa biến chứng thần kinh
trong lúc phẫu thuật sửa chữa. Tuy nhiên,
nghiên cứu tại đại học West Virginia, các tác
giả đã theo dõi 60 bệnh nhân sau PT sửa chữa
hẹp ep ĐMC. Không có biến chứng tổn
thương thần kinh nào được ghi nhận mặc dù
trong đó có 3 BN bị chảy máu quanh màng
cứng. Điều này đã hỗ trợ cho giả thuyết bảo
vệ thần kinh của TNMC với thuốc á phiện.
Nồng độ các thuốc tê thường được pha
loãng khi sử dụng như Bupivacaine 0,25%,
Ropivacaine 0,2%, Levobupivacaine từ 0,2 –
0,25%. Thuốc tê ở nồng độ này có 2 thuận lợi
là thời gian tác dụng tương đối dài và giảm
tác dụng ức chế vận động. Tác dụng ngộ độc
của thuốc tê trên tim và não thường do hậu
quả của việc vô ý bơm thuốc tê vào mạch máu
hoặc do quá liều bolus. Ở trẻ sơ sanh và trẻ
nhỏ, nồng độ albumine và 1 acid
glycoprotein trong huyết tương, nồng độ
bicarbonate dự trữ thấp hơn, do đó có nguy
cơ cao ngộ độc bupivacaine như loạn nhịp
hoặc ngưng thở thường xảy ra hơn là co giật.
Ropivacaine ít có độc tính trên tim hơn so với
Bupivacaine. Ropivacaine có nhiều thuận lợi
hơn ở trẻ sơ sanh, bao gồm độc tính trên tim
thấp hơn với cùng nồng độ của bupivacaine
và ngưỡng gây độc cho hệ thần kinh trung
ương của nồng độ thuốc tê không gắn kết thì
cao hơn. Ropivacaine thường được sử dụng
rộng rãi ở trẻ em mà đặc biệt ở trẻ sơ sinh và
trẻ nhỏ. Các tác giả ưa thích sử dụng
ropivacaine hơn bupivacaine cho trẻ nhỏ dưới
6 tháng tuổi vì giới hạn an toàn của nó rộng
hơn. Levobupivacaine là một thuốc tê mới
được đưa ra sử dụng trên lâm sàng với ít độc
tính trên tim và thần kinh hơn so với
Bupivacaine. Nghiên cứu của Chalkiadis và
cs(2) dùng 2mg/kg Levobupivacaine ở trẻ nhỏ
cho thấy có kết nối trực tiếp giữa P450
CYP3A4 chưa trưởng thành và enzyme đồng
dạng CYP1A2 mà nó biến dưỡng thuốc tê này
ở trẻ em và độ thanh thải thấp hơn ở người
lớn. Do đó, thời gian để đạt được nồng độ
đỉnh trong huyết tương lâu hơn, gần 50 phút
sau khi gây tê xương cùng bằng
levobupivacaine. Do độc tính nội sinh thấp,
nên Levobupivacaine trở thành một thuốc gây
tê lý tưởng sử dụng cho trẻ em, nhưng hiện
chưa có nhiều thông số mô tả dược động học
của Levobupivacaine ở trẻ em sau khi tê
xương cùng.
Khuynh hướng hiện nay là cố gắng rút NKQ
sớm ở trẻ em sau mổ tim ngày càng gia tăng
nhằm rút ngắn thời gian nằm hồi sức và tránh
được các biến chứng hô hấp do thở máy kéo dài.
Kỹ thuật tê trục thần kinh giúp tránh được việc
sử dụng morphine liều cao qua đường tĩnh
mạch, nên cho phép rút NKQ sớm ngay tại
phòng mổ hoặc vài giờ sau mổ. Vì vậy, tê trục
thần kinh là một biện pháp kiểm soát đau sau
mổ mà không gây tác dụng phụ ức chế HH
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 71
được ưa chuộng sử dụng hiện nay.
Rút NKQ sớm là một yếu tố quan trọng để
giảm thời gian ở ICU và thời gian nằm viện. Đặc
biệt đối với các trẻ em với một thất độc nhất (sau
PT tạo miệng nối tĩnh mạch chủ với động mạch
phổi (bilateral cavopulmonary anastomosis)
hoặc PT Fontan cải biên (modified Fontan
operations) vì thở tự nhiên sẽ giúp cho cải thiện
huyết động do giảm áp lực trong lồng ngực và
do đó làm tăng lưu lượng máu phổi. Rút NKQ
sớm cho phép giảm bớt các tai biến do thở máy
kéo dài như chấn thương phổi hoặc đường thở,
xẹp phổi do di lệch ống NKQ hoặc đặt qua sâu
qua 1 bên phổi và ảnh hưởng không tốt trên
huyết động khi hút khí quản. Nghiên cứu rút
NKQ sớm ngay tại phòng mổ cho phép giảm
bớt chi phí do thở máy. Đã có nhiều nghiên cứu
chứng minh rằng rút NKQ sớm trong vòng 6 – 8
giờ sau PT sửa chữa hoàn toàn tim bẩm sinh ở
trẻ em thì an toàn.
Nghiên cứu hồi cứu kiểm soát đau sau mổ
trên 91 trẻ em dưới PT tim bẩm sinh, Shayevitz
và cs so sánh TNMC liên tục bằng morphine với
gây mê bằng thuốc á phiện qua đường tĩnh
mạch cho thấy bệnh nhân ở nhóm TNMC có
thang điểm đau sau mổ thấp hơn và nhu cầu
cần thêm thuốc giảm đau chích tĩnh mạch sau
mổ thấp hơn so với nhóm gây mê tĩnh mạch.
Nghiên cứu tiền cứu, ngẫu nhiên, có
nhóm chứng, Rosen và Rosen(12) đánh giá hiệu
quả của TXC với morphine so với morphine
chích tĩnh mạch trên 32 bệnh nhân dưới phẫu
thuật tim hở. Tác giả ghi nhận thấy bệnh nhân
ở nhóm TXC có thang điểm đau thấp hơn và
nhu cầu cần thêm morphine chích tĩnh mạch
thấp hơn có ý nghĩa. Thời gian giảm đau hoàn
toàn trung bình là 6 giờ (trong khoảng 2 – 12
giờ) nhưng giảm nhu cầu thuốc giảm đau
được ghi nhận kéo dài trong 24 giờ.
Một nghiên cứu tiền cứu, ngẫu nhiên, có
nhóm chứng của Hammer(7) so sánh giảm đau
sau mổ của 2 nhóm trẻ em được gây mê căn bản
với remifentanil với có hoặc không có TTS để
mổ tim hở. Tác giả nhận thấy nhóm có kết hợp
với TTS nhận ít fentanyl hơn so với nhóm chứng
trong vòng 8 giờ đầu và 24 giờ theo dõi sau mổ
so với nhóm chứng không làm TTS.
Hơn nữa, các thuận lợi khác như cải thiện
chức năng hô hấp và kiểm soát đau sau mổ tốt
hơn. Bệnh nhân có phối hợp với gây tê vùng, ít
tác dụng phụ liên quan đến thuốc phiện hơn so
với nhóm điều trị bởi morphine chích tĩnh
mạch. Nhóm bệnh nhân gây mê toàn thân kết
hợp với TNMC hồi phục chức năng đường ruột
sau mổ sớm hơn so với nhóm nhận thuốc giảm
đau qua đường tĩnh mạch. Một tổng quan đánh
giá 16 nghiên cứu so sánh TNMC và giảm đau
qua đường tĩnh mạch về việc hồi phục chức
năng dạ dày – ruột sau mổ. Trong đó 8 nghiên
cứu thực hiện TNMC ngực với đặt catheter đến
T12 nhận thấy chức năng ruột hồi phục sớm
hơn. Họ kết luận việc sử dụng TNMC ngực với
bupivacaine và morphine cho phép hồi phục
chức năng dạ dày ruột sớm hơn và giảm chi phí
nằm viện do rút ngắn thời gian nằm viện hơn so
với nhóm bệnh nhân tự kiểm soát đau bằng
morphine chích tĩnh mạch.
Một nghiên cứu hồi cứu, có nhóm chứng
của Levy và cs(10) trên 117 bệnh nhân dưới phẫu
thuật sửa chữa thông liên nhĩ, thông liên thất,
hoặc tứ chứng Fallot (T4F). Có 46 bệnh nhân
được thực hiện TXC với bupivacaine 0,25% với
morphine từ 70 – 110 g/kg. Tác giả ghi nhận các
trường hợp T4F có làm TXC có tỷ lệ cao được
rút NKQ trong khoảng 4 giờ sau mổ (65% so với
30%), không có sự khác biệt về thời gian nằm
ICU hoặc biến chứng.
TXC để giảm đau cũng được thực hiện để
dễ dàng rút NKQ trên bệnh nhân có nguy cơ
cao. Heinle và cs(8) báo cáo trên 56 trẻ mổ tim
với THNCT, dưới 90 ngày tuổi, tất cả đều
được thực hiện TXC với 1 liều duy nhất
morphine 50 - 70g/kg, 45% được rút NKQ
ngay tại phòng mổ hoặc 3 giờ sau mổ tại ICU.
Như đã biết, việc rút nội khí quản sau mổ
phẫu thuật Fontan là cần thiết vì ảnh hưởng
của thở máy gây cản trở hồi lưu máu tĩnh
mạch về tim. Theo Jaquiss và cs(9) thực hiện
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 72
TXC với phối hợp bupivacaine và morphine
trên 68 bệnh nhân dưới PT Fontan từ lúc bắt
đầu cuộc mổ sau khi dẫn mê và kết quả là
85% bệnh nhân được rút NKQ ngay tại phòng
mổ.
Mặc dù kỹ thuật gây tê vùng có những
thuận lợi đã được chứng minh nhưng các tác
dụng phụ vẫn có thể xảy ra. Các biến chứng
nghiêm trọng nhất là tụt HA, ức chế hô hấp và
hình thành máu tụ ngoài màng cứng.
Nguy cơ tụt HA hệ thống do chẹn thần kinh
giao cảm sau TNMC, TTS dường như ít xảy ra
hơn ở trẻ em. Cho dù mức chẹn giao cảm cao
đến T3 – T5 nhưng huyết động vẫn ổn định
ngay cả khi không bù thêm thể tích.Điều này có
thể được giải thích do sự giảm phân bố thần
kinh giao cảm cho chi dưới và/hoặc sự non nớt
của hệ thống thần kinh giao cảm ở trẻ nhỏ. Hai
nghiên cứu gần đây thực hiện TTS cao trên bệnh
nhân mổ tim nhưng huyết động vẫn ổn định
trên tất cả bệnh nhân này.
Bảng 5: Tăng tác dụng phụ theo liều dùng
morphine(3)
Liều morphine
(g/kg)
Thời gian giảm
đau (giờ)
Tần suất tác dụng
phụ (%)
< 100
100 – 150
> 150
12,1
10,1
11,2
0
2,9
5,4
Phối hợp thuốc tê nồng độ thấp với nhóm
thuốc phiện (morphine hoặc fentanyl) vẫn đảm
bảo giảm đau đủ hiệu quả với rất ít tác dụng
phụ. Tác dụng phụ thường xảy ra nhất khi
TNMC với nhóm thuốc á phiện là ngứa, buồn
nôn và ói mữa, an thần và bí tiểu. Glensky và
cs(3) ghi nhận rằng việc gia tăng liều thuốc phiện
trong TNMC không cải thiện hiệu quả giảm đau
nhưng lại gây tăng các tác dụng phụ (bảng 5).
Ức chế hô hấp có thể xảy ra ở trẻ em với
TNMC với morphine ở liều trên 0,05 mg/kg.
Nhiều NC đã cho thấy morphine TNMC thì có
hiệu quả giảm đau rất tốt và không gây ức chế
hô hấp nều liều morphine không quá
0,05mg/kg. Nguy cơ ức chế hô hấp tăng với TTS
hoặc TNMC với morphine, đặc biệt khi dùng
liều cao hơn. Bí tiểu xảy ra ở 50 – 80% trẻ em,
dường như thường xảy ra nhất trong 24 giờ đầu
sau gây tê, tuy nhiên trong thời gian này, đa số
các bệnh nhân sau mổ tim có đặt thông tiểu.
Kỹ thuật chích một liều duy nhất thì hiệu
quả và an toàn. Tỷ lệ biến chứng thấp nhất
(0,7/1000 TH) so với các kỹ thuật tê trung ương.
Tiêm morphine qua ngả xương cùng thì thuận
lợi do độ hoà tan trong mỡ thấp và có khuynh
hướng lan lên đến các đốt sống ngực (thoracic
dermatomes), thời gian tác dụng kéo dài hơn,
thời gian để đạt được tác dụng chậm hơn, lan
rộng hơn và thường có tác dụng an thần và ức
chế hô hấp hơn.
Nhóm á phiện ái mở (fentanyl, sufentanil),
không gây ức chế HH, tác dụng giảm đau
ngắn hơn và hiệu quả đạt được khi chích vào
khoang ngoài màng cứng không có ích lợi
hơn so với chích vào đường tĩnh mạch.
Fentanyl không kéo dài thời gian giảm đau
hơn khi tiêm vào khoang xương cùng với 1
liều duy nhất, nhưng làm tăng có ý nghĩa các
tác dụng phụ như buồn nôn và ói mửa.
Chảy máu là vấn đề bàn cải chống lại việc
gây tê vùng trong PT tim mạch. Bệnh nhân điều
trị lâu ngày với thuốc kháng đông, theo lý
thuyết xác định là có mối liên quan giữa kỹ
thuật TTS với tổn thương thần kinh. Nếu bệnh
nhân không điều trị thuốc kháng đông trước
mổ, biến chứng máu tụ không có ý nghĩa đã
được báo cáo trên bệnh nhân mổ tim.
Báo cáo các trường hợp biến chứng thì rất
hiếm. Ho và cs(4) đánh giá tần suất máu tụ là
1/150.000 đến 1/1.500. Nghiên cứu TNMC trên
24.000 trẻ em mổ tim chỉ có 5 biến chứng
nghiêm trọng được ghi nhận có thể liên quan
đến việc đặt catheter ngoài màng cứng. Trong
tất cả 5 TH này, xác định khoang ngoài màng
cứng bằng kỹ thuật bơm khí. Do đó kết luận
rằng việc bơm khí vào khoang NMC gây ra vấn
đề này. Từ lâu, qua theo dõi bằng siêu âm người
ta ghi nhận có hiện diện của khí trong hệ thống
tĩnh mạch khi bơm khí vào khoang ngoài màng
cứng. Tuy nhiên không kết luận ngưng thực
hiện TNMC mà khuyến cáo nên dùng dung
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 73
dịch nước muối sinh lý để xác định khoang
ngoài màng cứng.
Một nghiên cứu trên 961 trẻ em dưới phẫu
thuật tim mạch lồng ngực có đặt catheter ngoài
màng cứng qua các ngã xương cùng, thắt lưng
và ngực, có trường hợp có sử dụng heparine và
có trường hợp không sử dụng heparine, bao
gồm cả phẫu thuật sửa chữa hẹp eo động mạch
chủ (coartation of aorta). Có 7,9% các trường
hợp quan sát thấy có máu ở kim chích và
catheter trong lúc thực hiện thủ thuật, và 88%
của tai biến này xảy ra khi đặt catheter qua ngã
xương cùng. Cuộc mổ dường như không bị trì
hoãn trong các trường hợp này, nhưng thời gian
từ khi đặt catheter cho đến khi chích heparine là
90 phút đối với đặt catheter ngoài màng cứng
qua xương cùng và 183 phút với catheter ngoài
màng cứng ngực. Không có tai biến thần kinh
nào được ghi nhận, bao gồm cả 60 trường hợp
mổ sửa chữa hẹp eo động mạch chủ mà trong
đó có 3 TH chảy máu khi luồn catheter.
Hammer và cs(5) báo cáo không có tần suất
chảy máu trên 50 trẻ em dưới phẫu thuật sửa
chửa tim bẩm sinh. Peterson và cs(11) nghiên cứu
trên 220 bệnh nhân và ghi nhận có 1 trường hợp
chảy máu nhưng không có biến chứng nào. Tại
bệnh viện Nhi West Virginia, các thông số tiền
cứu thu thập trên các trẻ em mổ tim mạch lồng
ngực với gây tê vùng (n=1109) có tần suất chảy
máu là 8% khi thực hiện tê. Tần suất chảy máu
khi làm TNMC ngực thấp hơn so với tê xương
cùng. Theo dõi trên bệnh nhân có chảy máu sau
6 năm không có tai biến thần kinh nào xảy ra do
việc đặt catheter này. Chảy máu khi đặt cahteter
qua xương cùng hoặc thắt lưng ít có di chứng vì
tại đây rất ít các cấu trúc sinh tồn có thể bị hư
hại. Tuy nhiên, các tác giả khuyến cáo nên thực
hiện gây tê vùng ít nhất 1 giờ trước khi cho
heparin đối với khoang xương cùng và 3 giờ đối
khoang ngực để có thể giảm thấp nhất nguy cơ
khi tình trạng chảy máu xảy ra (5, 11). Ở trẻ nhỏ,
tiến hành gây tê vùng khi thức tỉnh làm tăng
nguy cơ chảy máu hoặc thoát dịch não tuỷ trong
quá trình thực hiện. Khoảng cách tối đa từ khi
thực hiện gây tê đến khi cho kháng đông càng
xa càng tốt và nên cẩn thận kiểm tra tình trạng
đông máu bình thường trước mổ. Sự thành công
của kỹ thuật này đôi khi cũng có thể bị hạn chế
bởi các khiếm khuyết vế cấu trúc.
Ngoài ra cũng phải kể đến tai biến làm
thủng màng cứng gây thoát dịch não tuỷ trong
quá trình thực hiện TNMC. Theo nghiên cứu
của đại học Virginia (1109 bệnh nhân), tần suất
hút dịch não tuỷ là 1% các trường hợp. Do đó
phải kiểm tra catheter cho dù đặt từ xương cùng
trước khi chích thuốc cho tất cả các trường hợp
vì liều thuốc phiện TNMC có thể gây ức chế hô
hấp nếu chích vào tuỷ sống. Không có trường
hợp suy hô hấp nào ghi nhận được trong nhóm
nghiên cứu này. Báo cáo của Hammer(5) về việc
dùng kỹ thuật TTS trong PT tim mạch lồng ngực
ở trẻ em nhận thấy hiệu quả của TTS trong lúc
mổ rất tốt tuy nhiên thời gian giảm đau kéo dài
sau mổ ngắn hơn so với TNMC.
KẾT LUẬN
Phối hợp TXC bằng Levobupivacaine và
morphine với gây mê toàn thân để phẫu thuật
sửa chữa tim bẩm sinh ở trẻ em thì an toàn và
mang lại nhiều lợi ích trên lâm sàng, cho phép
giảm các đáp ứng của cơ thể đối với stress, do
đó làm giảm tỷ lệ tử vong và biến chứng. Nó
cho phép cải thiện chức năng hô hấp, duy trì
huyết động ổn định, kiểm soát đau sau mổ tốt
hơn và cho phép rút NKQ sau mổ sớm hơn so
với gây mê toàn thân và giảm đau sau mổ với
morphine chích tĩnh mạch.
Mặc dù tai biến máu tụ ngoài màng cứng rất
hiếm nhưng nếu xảy ra thì nghiêm trọng và
vĩnh viễn. Để hạn chế tối đa xảy ra tai biến này
nên tôn trọng khoảng cách thời gian từ khi thực
hiện thủ thuật chích tê cho đến khi chích
heparin ít nhất là 60 phút đối với TXC và phải
cẩn thận chọn lựa bệnh nhân có tình trạng đông
máu bình thường trước mổ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bromage PR, Shibata HR, Willoughby HW. (1971): Influence of
prolonged epidural blockade on blood sugar and cortisol
responses to operation upon the upper part of the abdomen and
thorax. Surg Gynecol Obstet 1971: 132: 1051 – 1056.
2. Chalkiadis GA, Anderson BJ, Tay M et al (2005).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 74
Pharmacokinetics of levobupivacaine after caudal epidural
administration in infants less than 3 months of age. Br j Anaesth
95: 524 – 529.
3. Glenski JA, Warner MA, Dawson B, Kaufman B (1984)
Postoperative use of epidurally administered morphine in
children and adolescents. Mayo Clinic Proc 59: 530 – 533.
4. Ho AM, chung DC, Joynt GM. (2000): Neuraxial blockade and
hematoma in cardiac surgery: Estimating the risk of a rare
adverse event that has not (yet) occurred. Chest 117; 551 – 555.
5. Hammer GB, Ngo K, Macario A. (2000): A retrospective
examination of regional plus general anesthesia in children
undergoing open hert surgery. Anesth Analg; 90: 1020 – 1024.
6. Hammer GB (1999): Regional anesthesia for pediatric cardiac
surgery. J Cardiothorac Vasc Anesth 13: 210.
7. Hammer GB, Drover D, Jackson E, et al (2002). Comparision of
remifentanil with or without spinal anesthesia for children
undergoing open heart surgery. Anesthesiology 96: A1222.
8. Heinle JS, Diaz LK, Fox LS (1997) Early extubation after cardiac
operations in neonates and young infants. J Thorac Cardiovasc
Surg 114: 413 - 418
9. Jaquiss RD, Siehr SL, Ghanayem NS et al (2006) Early
cavopulmonary anastomosis after Norwood procedure results in
excellent Fontan outcome. Ann Thorac Surg 82: 1260 – 1265.
10. Leyvi G, taylor DG, Reich E, et al. (2005) Caudal anesthesia in
pediatric cardiqac surgery: does it affect outcome? J Cardiothorac
Vasc Anesth 19: 734 – 738.
11. Peterson KL, DeCampli WM, Pike NA, et al. (2000): Regional
anesthesia in pediatric cardiac surgery. Report of 220 cases.
Anesth Analg; 90: 1014 – 1019.
12. Rosen KR, Rosen DA (1989): Caudal morphine for control of
postoperative pain following open heart surgery in children.
Anesthesiology 70: 418 – 421.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_gia_hieu_qua_va_an_toan_cua_phoi_hop_gay_te_xuong_cung.pdf