Tỉ lệ nhiễm trùng đường mật trong 6 tháng
đầu sau mổ
37,9% (11/29), có 30 đợt nhiễm trùng đường
mật ở những trẻ này (1-5 đợt). Theo tác giả
Hung, tại Taiwan Nhiễm trùng đường mật xảy
ra ở 54,6% bệnh nhân trong 2 năm đầu sau mổ,
trong số này có 22,0% trẻ tái phát (2-6 lần)(10).
Cấy máu dương tính trong nghiên cứu
chúng tôi chiếm tỉ lệ thấp 2/30 trường hợp. Theo
tác giả Hung, cấy máu dương tính 35,1%
(45/128). Các vi khuẩn thường gặp nhất là
Escherichia coli (22,2%), Klebsiella pneumoniae
(22,2%). Pseudomonas aeruginosa, Enterobacter
cloacae, và Candida là các tác nhân thường gặp
khác(10). Có thể giải thích do đa số bệnh nhân tại
Việt Nam có thói quen tự mua kháng sinh uống
trước khi vào viện. Cũng theo nghiên cứu này
trẻ hết vàng da và không có nhiễm trùng đường
mật tái phát sau mổ có tiên lượng tốt hơn(10).
Tăng áp lực tĩnh mạch cửa trong vòng 12
tháng sau mổ (Bảng 5)
10 ca (55%) có dấu hiệu tăng áp lực tĩnh
mạch cửa. 100% trẻ phẫu thuật Kasai không
thành công có dấu hiệu tăng áp lực tĩnh mạch
cửa trong vòng 12 tháng sau mổ. Do đó cần có
kế hoạch theo dõi và dựa vào siêu âm Doppler
để phát hiện sớm các trường hợp tăng áp lực
tĩnh mạch cửa và dùng thuốc phòng ngừa biến
chứng vỡ dãn tĩnh mạch thực quản. Theo tác giả
Duché M, đo áp lực tĩnh mạch cửa tại thời điểm
phẫu thuật Kasai có giá trị giúp tiên lượng khả
năng thành công của phẫu thuật. Bệnh nhân có
tăng áp cửa giảm khả năng thành công và có
nguy cơ cao tăng áp cửa ngay cả khi mức
Bilirubin trong máu về bình thường sau phẫu
thuật. Đây là một phương pháp đơn giản, an
toàn có ý nghĩa tiên lượng hậu phẫu tốt hơn là
chỉ số xơ hóa của gan trên mô học.
Tại Bệnh viện Nhi Đồng 2, phương pháp này
chưa được thực hiện.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 26/01/2022 | Lượt xem: 149 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá hiệu quả và các biến chứng ở bệnh nhân teo đường mật bẩm sinh sau mổ Kasai từ năm 2008 đến 2010 tại bệnh viện Nhi đồng 2, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010 65
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ VÀ CÁC BIẾN CHỨNG Ở BỆNH NHÂN
TEO ĐƯỜNG MẬT BẨM SINH SAU MỔ KASAI TỪ NĂM 2008 ĐẾN 2010
TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 2
Nguyễn Diệu Vinh*, Phạm Thị Ngọc Tuyết*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Khảo sát kết quả và diễn tiến của bệnh nhân teo đường mật bẩm sinh sau phẫu thuật Kasai từ
năm 2003 đến 2009 tại Bệnh Viện Nhi Đồng 2.
Phương pháp: Nghiên cứu tiền cứu, mô tả hàng loạt ca.
Bệnh nhân: Gồm tất cả các bệnh nhân teo đường mật bẩm sinh đã được phẫu thuật Kasai tại Bệnh Viện Nhi
Đồng 2.
Kết quả: Có 31 bệnh nhân. Nữ nhiều hơn nam (64,5%), đa số (96,8%) trẻ sinh đủ tháng, phần lơn trẻ
không được ghi nhân vàng da trong giai đoạn sơ sinh (77,4%) Tuổi trung bình khi trẻ nhập viện: 76,7 ngày tuổi
(36 -166). Tuổi trung bình khi phẫu thuật Kasai: 95,8 ngày tuổi (50-170). Thời gian nằm viện trung bình cho đợt
mổ: 40,2 ngày (10-95). 46,7% trẻ có CMV-IgM dương tính. 32,3% bệnh nhân phẫu thuật sau 71 ngày tuổi và
38,7% sau 91 ngày tuổi. 29 (93,5%) trẻ teo đường mật type 3. 38,7% trường hợp dẩn lưu mật thành công. Tỉ lệ
tử vong là 8/28 (28,6%) Tỉ lệ phẫu thuật Kasai thất bại cao nhất và tử vong nhiều nhất ở trẻ mổ sau 91 ngày:
50% và 45,5%. Suy dinh dưỡng chiếm tỉ lệ cao: 62,5% và 56% ở trẻ phẫu thuật Kasai không thành công và dẫn
lưu mật một phần. Nhiễm trùng đường mật chiếm tỉ lệ cao hơn ở nhóm phẫu thuật Kasai thành công và dẫn lưu
mật một phần. 100% trẻ phẫu thuật Kasai không thành công có dấu hiệu tăng áp lực tĩnh mạch cửa trong vòng
12 tháng sau mổ 12,5% trẻ dẫn lưu mật thành công có biểu hiện tăng áp lực TMC.
Kết luận: Tỉ lệ dẫn lưu mật thành công trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi chiếm tỉ lệ thấp, do đa số
bệnh nhân được phẫu thuật trễ. Trẻ phẫu thuật Kasai thất bại có tỉ lệ các biến chứng suy dinh dưỡng, tăng áp lực
tĩnh mạch cửa trong năm đầu sau mổ, và tử vong cao. Chúng ta có thể cải thiện hiệu quả điều trị teo đường mật
bằng cách giáo dục sức khỏe cộng đồng và nhân viên y tế giúp bệnh nhân đến bệnh viện sớm và rút ngắn thời
gian chờ phẫu thuật. Nên phẫu thuật khi bệnh nhân đến trễ sau 91 ngày vì tỉ lệ dẫn lưu mật thành công là:
33,3%.
Từ khoá: Teo đường mật bẩm sinh, phẫu thuật Kasai.
ABSTRACT
TO EVALUATE THE EFFECTIVE AND THE COMPLICATIONS AFTER KASAI OPERATION IN
BILIARY ATRESIA AT CHILDREN’S HOSPITAL 2
Nguyen Dieu Vinh, Pham Thi Ngoc Tuyet
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 14 - Supplement of No 4 - 2010: 66 - 72
Objectives: To evaluate the effective and the complications after kasai operation in biliary atresia at Children
Hospital N0 2.
Method: Prospective, descriptive study.
Patients: All of biliary atresia patients were kasai operated from 1/2008 to 6/2010 at Children’s Hospital 2.
Result: There were 31 patients, female: 64.5%. Jaundice was not noticed in most of children in neonatal
* Khoa Tiêu hoá Bệnh viện Nhi đồng 2
Tác giả liên lạc: Ths.BS Nguyễn Diệu Vinh, ĐT: 0908644975, Email: dieuvinhgastro@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010 66
period (77.4%). Median age of referral: 76.7 days (36-166), median age at Kasai operation: 95.8 days (50-170).
The mean day hospitalized for Kasai operation: 40.2 days (10-95). 46.7% has CMV infection. The age of the
patients at surgery 32.3% after 71days and 38.7% after 91 days. The type of atresia was 93.5% type 3. Jaundice
disappear rate was 38.7%. The mortality rate was 28.6%. The rate of unsuccessful surgery and the mortality rate
were highest in the patients surgery after 91 days: 50% and 45.5%, respectively. The rate of malnutrition was
high (62.5%) in the unsuccessful surgery patients. The high rate of cholangitis in successful Kasai operation. The
most unsuccessful Kasai operation and 12.5% successful Kasai operation have portal hypertension in the first
year after operation.
Conclusions: The rate of successful Kasai operation was not high. Almost the patients have late undergone
operation. The unsuccessful surgery patients have high rate of complications such as malnutrion, portal
hypertension in the first year, and mortality. Management has been improved by public and professional
education to encourage early referral and diagnosis early. We should shorten waiting time for surgery and the
Kasai operation should be done in the patient with age of referral after 91 days.
Key words: Biliary atresia, Kasai operation.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Phẫu thuật Kasai (portoenterostomies) là
phẫu thuật nối mật-ruột, là phương pháp điều
trị bước đầu bệnh lý teo đường mật bẩm sinh,
và sau đó là ghép gan khi có chỉ định. Phẫu
thuật giúp kéo dài sự sống bệnh nhân trong
thời gian chờ ghép gan. Nếu phẫu thuật Kasai
dẫn lưu mật thành công, trẻ tiêu phân có màu
và vàng da giảm dần. Quá trình này có thể kéo
dài vài tuần đến vài tháng. Diễn tiến đến xơ
gan ứ mật được phòng ngừa hay ít nhất cũng
làm chậm lại, trẻ teo đường mật sống với gan
tự nhiên đến tuổi trưởng thành cũng đã được
báo cáo.
Sau phẫu thuật Kasai (ngay cả trường hợp
thành công), các biến chứng như: suy dinh
dưỡng, nhiễm trùng đường mật hướng lên
(ascending cholangitis), tăng áp lực tĩnh mạch
cữa, hội chứng gan phổi, bệnh não gan cũng
thường gặp. Phòng ngừa và kiểm soát các biến
chứng trên bệnh nhân sau phẫu thuật là mục
tiêu thứ hai trong quá trình điều trị bệnh nhân
teo đường mật (sau mục tiêu thứ nhất là phẫu
thuật dẫn lứu mật đúng thời điểm). Do đó việc
theo dõi, có kế hoạch phòng ngừa và điều trị
tốt các biến chứng đóng vai trò quan trọng,
giúp kéo dài và tăng chất lượng cuộc sống
trong khi chờ ghép gan (ghép gan là mục tiêu
điều trị cuối cùng).
Chúng tôi thực hiện nghiên cứu “Đánh giá
hiệu quả và các biến chứng ở bệnh nhân teo
đường mật bẩm sinh sau mổ Kasai” nhằm
đánh giá kết quả phẫu thuật Kasai tại Bệnh
viện Nhi Đồng 2 trong những năm qua và
tổng kết quá trình theo dõi bệnh nhân trong
thời gian vừa qua tại khoa Tiêu Hoá, đồng thời
đề ra các biện pháp chẩn đoán sớm, phòng
ngừa, điều trị thích hợp các biến chứng và có
chỉ định ghép gan kịp thời.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu tiền cứu, mô tả hàng loạt ca
Đối tượng bệnh nhân
Tất cả bệnh nhân teo đường mật bẩm sinh
đã được phẫu thuật Kasai tại Bệnh viện Nhi
Đông 2, TP Hồ Chí Minh từ tháng 1/2008 đến
tháng 6/2010.
Phương pháp thu thập và xử lý số liệu
Chọn vào lô nghiên cứu tất cả những trẻ
được chẩn đoán teo đường mật bẩm sinh và
phẫu thuật Kasai tại Bệnh viện Nhi Đồng 2 trong
thời gian từ 1/2008 đến 6/2010. Ghi nhận theo
mẫu phiếu soạn sẵn. Sau phẫu thuật, tất cả các
bệnh nhân sẽ được điều trị kháng sinh phòng
ngừa trong năm đầu tiên, uống Ursodeoxycholic
acid, bổ sung Vitamin A, D, E, K, và theo dõi tại
phòng khám ngoại trú (phòng khám tiêu hóa và
phòng khám dinh dưỡng), ghi nhận số lần nhập
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010 67
viện, các biến chứng đến khi kết thúc nghiên cứu
hoặc khi trẻ tử vong hay bỏ tái khám.
Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 11.5 for
Windows.
Định nghĩa một số biến số
Phân loại giải phẫu teo đường mật
Có 4 dạng
- Type I: tổn thương phần xa của ống mật
chủ.
- Type II: tổn thương ống gan chung nhưng
không ảnh hưởng đến túi mật và ống mật
chủ .
- Type III: tổn thương ống gan phải, trái và
túi mật.
- Teo đường mật dạng nang.
Đánh giá hiệu quả dẫn lưu mật sau phẫu
thuật (sau mổ 6 tháng)(3) .
Dẫn lưu mật thành công: bệnh nhân hết
vàng da, Bil/máu < 2 mg/dl.
Dẫn lưu mật một phần: có giảm nhưng còn
vàng da, lâm sàng ổn định.
Không thành công: Vàng da ngày càng tăng,
diễn tiến xấu.
Tiêu chuẩn chẩn đoán nhiễm trùng đường
mật(10)
Lâm sàng: Sốt, vàng da tăng hơn, phân bạc
màu, không có vị trí nhiễm trùng khác.
Cận lâm sàng: CRP tăng, Bil/máu tăng hơn,
giảm khi đáp ứng với kháng sinh.
Tiêu chuẩn đánh giá có tăng áp lực tĩnh
mạch cửa(10)
Khi bệnh nhân có lách to, cường lách, có thể
có báng bụng, tuần hoàn bàng hệ.
Siêu âm Doppler hệ tĩnh mạch cửa, khảo sát
tuần hoàn bàng hệ (cửa–chủ), tính RI (Resistance
Index), xác định qua nội soi tiêu hóa trên.
Suy dinh dưỡng
Dựa vào chuẩn tăng trưởng của WHO 2007.
Ghi nhận các biến chứng: Suy dinh dưỡng,
nhiễm trùng đường mật trong vòng tháng sau
mổ, tăng áp lực tĩnh mạch cửa trong vòng 12
tháng sau mổ.
KẾT QUẢ
Có 31 bệnh nhi, có 3 trẻ bỏ tái khám sau mổ 7
tháng.
Đặc điểm bệnh nhi
Bảng 1: Đặc điểm bệnh nhi (N=31)
Nữ/Nam 20/11
Đủ tháng/thiếu tháng 30/1
Ghi nhận vàng da sơ sinh 6/31
Tim bẩm sinh 1/31
Sứt môi-chẻ vòm 1/31
Hội chứng teo ñường mật 1/31
Tuổi trung bình khi trẻ nhập viện (ngày) 76,7(36-166)
Tuổi trung bình khi phẫu thuật Kasai (ngày) 95,8 (50-170
Nhóm tuổi khi phẫu thuật:
Trước 60 ngày tuổi
Từ 61-70 ngày tuổi
Từ 71-90 ngày tuổi
Sau 91 ngày tuổi
1 (3,2%)
8 (25,8%)
10 (32,3%)
12 (38,7%)
Thời gian nằm viện trung bình cho ñợt phẫu
thuật (ngày)
40,2 (10-95)
Thời gian theo dõi trung bình sau mổ (tháng) 13,23 (2-30)
Đặc điểm cận lâm sàng
Bảng 2: Đặc điểm cận lâm sàng
Các men ñường mật
PAL
GGT
1523 UI/l
647 UI/l
Nhiễm CMV 14/31
SA bụng gợi ý teo ñường mật 28/31
Phẫu thuật Kasai
Bảng 3: Các dạng teo đường mật và tình trạng dẫn
lưu mật sau phẫu thuật
Dạng teo ñường mật N =31 (100%)
Type1
Dạng nang
Type 3
1 (3,2)
1 (3,2)
29(93,5)
Tình trạng dẫn lưu mật sau phẫu thuật
Thành công
Dẫn lưu mật một phần
Không thành công
12 (38,7)
9 (29)
10 (32,3)
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010 68
Bảng 4: Liên quan giữa tuổi phẫu thuật với tình
trạng dẫn lưu mật và tử vong sau mổ
Phẫu thuật Kasai Tuổi phẫu
thuật
(ngày) Không thành công
n (%)
Dẫn lưu
một phần
n (%)
Thành
công
n (%)
Tử vong
n (%)
< 60 0 0 1(100) 0
61-70 2 (25) 3 (37,5) 3 (37,5) 2 (25)
71-90 2 (20) 4 (40) 4 (40) 1(12,5)
91 6 (50) 2 (16,7) 4 (33,3) 5 (45,5)
Tỉ lệ phẫu thuật Kasai thất bại cao nhất (50%)
và tỉ lệ tử vong cao nhất (45,5%) ở trẻ được phẫu
thuật sau 91 ngày.
Các biến chứng sau mổ
Bảng 5: Liên quan giữa dẫn lưu mật sau mổ với các
biến chứng sau mổ, tỉ lệ tử vong
Phẫu thuật
Kasai
Suy dinh
dưỡng
n %
Nhiễm trùng
ñường mật
n %
Tăng áp
lực TMC
n%
Tử
vong
Không thành
công
5 (62,5) 2 (28,6) 6 (100%) 8 (80%)
Dẫn lưu mật
một phần
5(56%) 4 (44,5%) 3(75%) 0
Thành công 3(25%) 5 (41,7%) 1(12,5%) 0
Tỉ lệ nhiễm trùng đường mật trong 6 tháng
đầu sau mổ
37,9% (11/29), có 30 đợt nhiễm trùng đường
mật ở những trẻ này (ít nhất là 1 đợt, nhiều nhất
là 5 đợt). Cấy máu âm tính trong phần lớn các
trường hợp. 2/30 dương tính với Klebsiella.
BÀN LUẬN
Đặc điểm bệnh nhi
Giới
Nữ chiếm ưu thế: 20/31 ca (64,5%). Tương tự
ghi nhận trong các nghiên cứu khác: Theo tác giả
Schoen BT, năm 2001, tại Hoa Kì: Nữ chiếm
74%(1). Tác giả Carceller A, năm 2000, tại Canada:
Nữ chiếm (50/77) 64,9%(7).
Các dị tật khác đi kèm
Đa số trẻ không có dị tật bẩm sinh khác đi
kèm, chỉ có một ca hội chứng teo đường mật có
kèm đa lách, đảo ngược phủ tạng, tim bẩm sinh.
Phù hợp y văn(2).
Tuổi trung bình khi trẻ nhập viện
76,7 ngày (36-166).
Đa số trẻ nhập viện khá trễ, theo nghiên cứu
của Lee WS tại Malaysia năm 2009, tuổi vào viện
trung bình là 62 ngày. Điều này cho thấy thân
nhân không được hướng dẫn theo dõi tình trạng
vàng da của bé và thói quen nằm trong buồng
tối của mẹ sau sinh nên không phát hiện triệu
chứng vàng da.
Tuổi trung bình khi phẫu thuật Kasai
95,8 ngày tuổi (50 - 170).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, trẻ được
phẫu thuật khá muộn so với những nơi khác:
Richard A. Schreiber năm 2007 ở Canada, năm
1985-1995 là: 65 ngày, 1996-2002 là: 65,5 ngày.
Theo Wildhaber BE tại Thụy sĩ từ năm 1994-2004
là 68 ngày tuổi (30-126)(3). Theo Lee WS tại
Malaysia là 70 ngày tuổi. Điều này có thể do:
bệnh nhân nhập viện trễ, sau khi nhập viện,
bệnh nhân thường chờ làm một số xét nghiệm
giúp chẩn đoán và hội chẩn ngoại khoa nhiều
lần trước khi quyết định phẫu thuật.
Thời gian nằm viện trung bình cho đợt mổ
40,2 ngày (10-95)
Đây là khoảng thời gian khá dài: Trước mổ
bệnh nhân trải qua khoảng thời gian trung bình
là 19,1 ngày để chẩn đoán bệnh. Một tỉ lệ không
nhỏ trẻ bị các biến chứng sau mổ như: Dò dịch
ống dẫn lưu kéo dài, viêm phúc mạc mật sau
mổ, nhiễm trùng huyết, và nhiễm trùng đường
mật sớm làm kéo dài thời gian hậu phẫu.
Đặc điểm cận lâm sàng
Các men đường mật
GGT 647UI/l
Theo nghiên cứu của Liu CS, Taiwan: nồng
độ GGT >300 U/l được sử dụng như một tiêu
chuẩn chẩn đoán teo đường mật trước 10 tuần
tuổi, độ chính xác 85%(4).
Nhiễm CMV
Có 30 trẻ được thử tìm CMV-IgM, 46,7% trẻ
dương tính .
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010 69
CMV là virus nghi ngờ đã khởi phát đáp
ứng viêm không kiểm soát được ở những trẻ
nhạy cảm và có thể là bệnh nguyên của teo
đường mật(2).
Theo tác giả Shen C, trẻ nhiễm CMV sẽ có tỉ
lệ hết vàng da thấp hơn và tỉ lệ nhiễm trùng
đường mật sau mổ cao hơn so với trẻ không
nhiễm CMV (p<0.05) Mức độ xơ hóa gan cũng
nặng nề hơn.
Siêu âm bụng:
Trong nghiên cứu chúng tôi, siêu âm bụng
gợi ý teo đường mật chiếm tỉ lệ khá cao: 28/31 ca
(90,3%). Theo tác giả Nguyễn Đức Trí, siêu âm
bụng 3 bước (khảo sát túi mật khi bệnh nhân
nhịn đói 4 giờ, trong khi bú và sau bú) chẩn
đoán teo đường mật có độ nhạy 83,3%, đặc hiệu
75%(5), cao hơn nhiều so với nghiên cứu của tác
giả Liu CS là 68%(4).
Phẫu thuật Kasai
Bảng 6: So sánh tuổi phẫu thuật với tác giả Kasai(6)
Chúng tôi Kasai
Tuổi phẫu thuật n (%) n(%)
Trước 60 ngày tuổi 1 (3.2) 13 (22.8)
Từ 61-70 ngày tuổi 8 (25.8) 21 (36.8)
Từ 71-90 ngày tuổi 10 (32.3) 16 (28.1)
Sau 91 ngày tuổi 12 (38.7) 7 (12.3)
Tổng cộng 100 100
Chi có 1 trẻ được phẫu thuật trước 60 ngày
tuổi (3.2%), trong khi đó trong nghiên cứu của
Kaisai, có tới 22,8% trẻ được mổ sớm. Đa số trẻ
trong lô nghiên cứu của chúng tôi được phẫu
thuật trễ sau 91 ngày tuổi (38,7%).
Các dạng teo đường mật (Bảng 3)
29 (93,5%) trẻ teo đường mật type 3,
1(3,2%) trẻ teo đường mật dạng nang, tương tự
tác giả Lee WS tại Malaysia teo đường mật
type 3 chiếm 93%, teo đường mật dạng nang
2%(8). Teo đường mật dạng nang là một thể ít
gặp của teo đường mật, thường chẩn đoán
nhầm là nang ống mật chủ. Một số trường hợp
được phát hiện trước sinh. Teo đường mật
dạng nang bắt đầu xuất hiện từ trong bào thai,
tuy nhiên tiên lượng tốt hơn nếu được mổ
sớm. Theo tác giả Caponcelli E, teo đường mật
dạng nang chiếm tỉ lệ 10,7%.
Tình trạng dẫn lưu mật sau phẫu thuật
Kasai và tỉ lệ tử vong (Bảng 3)
38,7% trường hợp trẻ hết vàng da sau mổ
(dẫn lưu mật thành công). Tỉ lệ này thấp hơn
nhiều so với nghiên cứu vào năm 2000 của tác
giả McKiernan PJ ở Anh và Ireland 55%(11). Năm
2003, theo báo cáo từ Japanese Biliary Atresia
Registry, có 1381 bệnh nhân từ năm 1989, có 57%
trẻ hết vàng da sau phẫu thuật(2). Theo tác giả
Hung, tại Taiwan nghiên cứu trên 141 trẻ teo
đường mật đã mổ Kasai, có 86 (61,0%) hết vàng
da(10). Có thể do đa số bệnh nhân trong nhóm
nghiên cứu của chúng tôi được phẫu thuật trễ.
Có thể tiên lượng sớm khả năng thành công
của phẫu thuật Kasai bằng cách đánh giá khả
năng bài tiết của gan qua xạ hình gan
(hepatobiliary scintigraphy) và nồng độ
Bilirubin trong máu sau phẫu thuật 6 tuần. Nếu
nồng độ Bil <30mg/l, tỉ lệ sống sau 5 năm là
100%, nếu nồng độ Bil của bệnh nhân cao hơn
mức này, cần có kế hoạch theo dõi sát và xem xét
ghép gan(9). Tại Bệnh viện Nhi Đồng 2, chúng tôi
chưa có xạ hình gan, tuy nhiên có thể theo dõi và
tiên lượng dựa vào nồng độ Bil/máu. Bilirubin
trong máu về bình thường 3 tháng sau phẫu
thuật tiên lượng trẻ sống lâu(2).
Bệnh nhân phẫu thuật Kasai thành công, tuổi
trung bình cần ghép gan là 9 tuổi. Nếu phẫu
thuật không thành công, tuổi trung bình cần
ghép gan là 11 tháng. Tỉ lệ tử vong và bệnh tật
cao hơn nhiều ở trẻ được ghép gan sớm sau
phẫu thuật Kasai thất bại. Phẫu thuật Kasai
thành công cho phép ghép gan ở lứa tuổi mà tỉ lệ
tử vong cũng như bệnh tật giảm, giúp tiên lượng
tốt hơn(7).
Tỉ lệ tử vong
Số bệnh nhân tử vong trong thời gian nghiên
cứu (30 tháng): 8/28 (28,57%). Trong khi đó,
nghiên cứu của tác giả Kasai sau 5 năm theo dõi
tỉ lệ tử vong chỉ có 8,5%(6). Năm 2003, theo báo
cáo từ Japanese Biliary Atresia Registry (n=1381)
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010 70
tỉ lệ sống sau 5 năm và 10 năm lần lượt là 75,3%
và 66,7%(2). Theo tác giả Shinkai M tại Nhật Bản,
năm 2009 tỉ lệ sống sau phẫu thuật với gan tự
nhiên sau 5, 10 và 20 năm lần lượt là 63%, 54%,
và 44%. Tỉ lệ này thay đổi nhiều phụ thuộc vào
type teo đường mật, tuổi bắt đầu phẫu thuật
Kasai, kỉ nguyên phẫu thuật và phương pháp
phẫu thuật.
Liên quan giữa tuổi phẫu thuật và dẫn lưu
mật sau mổ (Bảng 4)
Tỉ lệ phẫu thuật Kasai thành công ở trẻ mổ
sau 91 ngày: 33%. Do đó nên can thiệp phẫu
thuật đối với những trẻ nhập viện trễ(1).
Liên quan giữa tuổi phẫu thuật và tử vong
sau mổ (Bảng 4)
Trong nghiên cứu chúng tôi, tỉ lệ tử vong cao
ở trẻ được phẫu thuật sau 91 ngày. Theo nghiên
cứu của Wildhaber BE, tại Thụy Sĩ, cho thấy: Tỉ
lệ sống sau 4 năm 75% ở bệnh nhân mổ Kasai
trước 46 ngày tuổi, 33% ở bệnh nhân mổ Kasai
lúc 46-75 ngày tuổi, 11% ở bệnh nhân mổ Kasai
sau 75 ngày(3).
Do đó, cải thiện hiệu quả điều trị teo
đường mật bằng cách giáo dục sức khỏe cộng
đồng và nhân viên y tế giúp bệnh nhân đến
bệnh viện sớm để được chẩn đoán và phẫu
thuật trước 8 tuần.
Liên quan giữa tử vong và dẫn lưu mật sau
mổ (Bảng 4)
Trong thời gian làm nghiên cứu, có đến 80%
trẻ phẫu thuật không thành công tử vong
Nếu bệnh nhân phẫu thuật Kasai thành
công, tuổi trung bình cần ghép gan là 9 tuổi. Nếu
phẫu thuật không thành công, tuổi trung bình
cần ghép gan là 11 tháng. Tỉ lệ tử vong và bệnh
tật cao hơn nhiều ở trẻ được ghép gan sớm sau
phẫu thuật Kasai thất bại. Phẫu thuật Kasai
thành công cho phép ghép gan ở lứa tuổi mà tỉ lệ
tử vong cũng như bệnh tật giảm, giúp tiên lượng
tốt hơn(7).
Tình trạng suy dinh dưỡng sau mổ (Bảng 5)
Suy dinh dưỡng chiếm tỉ lệ cao: 62,5% và
56% ở trẻ phẫu thuật Kasai không thành công và
dẫn lưu mật một phần. Những trẻ này thường
biếng ăn, hấp thu kém do giảm tiết mật dẫn đến
suy dinh dưỡng.
Liên quan giữa nhiễm trùng đường mật và
dẫn lưu mật sau mổ (Bảng 5)
Nhiễm trùng đường mật chiếm tỉ lệ cao
41,7% và 44,5% lần lược ở nhóm phẫu thuật
Kasai thành công và dẫn lưu mật một phần
trong 6 tháng đầu sau mổ. Nhiễm trùng đường
mật tái phát xảy ra nhiều nhất trong 2 năm đầu
sau phẫu thuật, có thể góp phần làm tổn thương
tiếp tục các ống mật, thậm chí có thể gây tái tắc
nghẽn(12). Nhiễm trùng đường mật gặp chủ yếu
ở những trẻ có dẫn lưu được mật, có lẽ vì nhiễm
trùng hướng lên qua các ống mật còn thông ở
cửa gan(2). Kháng sinh dự phòng đường uống
thường được sử dụng để phòng ngừa nhiễm
trùng đường mật tái phát sau phẫu thuật
Kasai(13), nhưng các nghiên cứu mù đôi về vấn đề
này chưa được thực hiện(2).
Tỉ lệ nhiễm trùng đường mật trong 6 tháng
đầu sau mổ
37,9% (11/29), có 30 đợt nhiễm trùng đường
mật ở những trẻ này (1-5 đợt). Theo tác giả
Hung, tại Taiwan Nhiễm trùng đường mật xảy
ra ở 54,6% bệnh nhân trong 2 năm đầu sau mổ,
trong số này có 22,0% trẻ tái phát (2-6 lần)(10).
Cấy máu dương tính trong nghiên cứu
chúng tôi chiếm tỉ lệ thấp 2/30 trường hợp. Theo
tác giả Hung, cấy máu dương tính 35,1%
(45/128). Các vi khuẩn thường gặp nhất là
Escherichia coli (22,2%), Klebsiella pneumoniae
(22,2%). Pseudomonas aeruginosa, Enterobacter
cloacae, và Candida là các tác nhân thường gặp
khác(10). Có thể giải thích do đa số bệnh nhân tại
Việt Nam có thói quen tự mua kháng sinh uống
trước khi vào viện. Cũng theo nghiên cứu này
trẻ hết vàng da và không có nhiễm trùng đường
mật tái phát sau mổ có tiên lượng tốt hơn(10).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010 71
Tăng áp lực tĩnh mạch cửa trong vòng 12
tháng sau mổ (Bảng 5)
10 ca (55%) có dấu hiệu tăng áp lực tĩnh
mạch cửa. 100% trẻ phẫu thuật Kasai không
thành công có dấu hiệu tăng áp lực tĩnh mạch
cửa trong vòng 12 tháng sau mổ. Do đó cần có
kế hoạch theo dõi và dựa vào siêu âm Doppler
để phát hiện sớm các trường hợp tăng áp lực
tĩnh mạch cửa và dùng thuốc phòng ngừa biến
chứng vỡ dãn tĩnh mạch thực quản. Theo tác giả
Duché M, đo áp lực tĩnh mạch cửa tại thời điểm
phẫu thuật Kasai có giá trị giúp tiên lượng khả
năng thành công của phẫu thuật. Bệnh nhân có
tăng áp cửa giảm khả năng thành công và có
nguy cơ cao tăng áp cửa ngay cả khi mức
Bilirubin trong máu về bình thường sau phẫu
thuật. Đây là một phương pháp đơn giản, an
toàn có ý nghĩa tiên lượng hậu phẫu tốt hơn là
chỉ số xơ hóa của gan trên mô học.
Tại Bệnh viện Nhi Đồng 2, phương pháp này
chưa được thực hiện.
KẾT LUẬN
Phẫu thuật Kasai là một giai đoạn điều trị
quan trọng trong bệnh lý teo đường mật. Nếu
không phẫu thuật, hầu hết trẻ tử vong trước 2
tuổi. Bệnh là một gánh nặng về mặt tình cảm, tài
chính cho bệnh nhân và gia đình cũng như nhân
viên y tế. Trẻ teo đường mật có tiên lượng tốt
hơn khi được phẫu thuật sớm với các phẫu thuật
viên có tay nghề cao cũng như được theo dõi và
điều trị kịp thời các biến chứng sau mổ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bu LN, C.H., Chang CJ, et al, (2003): Prophylactic oral
antibiotics in prevention of recurrent cholangitis after the
Kasai portoenterostomy. J Pediatr Surg, (38): p. 590-3.
2. Carceller A, B.H., Alvarez F, St-Vil D, Bensoussan AL, Di
Lorenzo M., (2001): Past and future of biliary atresia. J Pediatr
Surg, 2001. 35(5): p. 717-720.
3. Hung, P.-Y.C., Chiu-Chiang; Chen, Wei-Jao, (2006): Long-
Term Prognosis of Patients with Biliary Atresia: A 25 Year
Summary Journal of Pediatric Gastroenterology & Nutrition.
42(2): p. 190-195.
4. Kelly DA, Davenport M., (2007): Current management of
biliary atresia. Arch Dis Child. 92(12): p. 1132-5.
5. Liu CS, C.T., Wei CF., (1998): Value of gamma-glutamyl
transpeptidase for early diagnosis of biliary atresia. Zhonghua
Yi Xua Za Zhi (Taipei). 61(12): p. 716-20.
6. M, S., (2009): Long-term outcome of children with biliary
atresia who were not transplanted after the Kasai operation:
>20-year experience at a children's hospital.. J Pediatr
Gastroenterol Nutr. 48(4): p. 443-50.
7. McKiernan PJ, Kelly DA., (2000): The frequency and outcome
of biliary atresia in the UK and Ireland. Lancet. 355(9197): p.
25-9.
8. Rodeck B, B.A., Gratz KF, Petersen C., (2007): Early predictors
of success of Kasai operation in children with biliary atresia.
Eur J Pediatr Surg. 17(5): p. 308-12.
9. Schoen BT, L.H., Sullivan K, Ricketts RR., (2001): The Kasai
portoenterostomy: when is it too late? J Pediatr Surg. 36(1): p.
97-9.
10. Schreiber A, R., (2007): Biliary Atresia: The Canadian
Experience The Journal of Pediatrics. 151: p. 659-65.
11. Suchy, F.J., (2010): Anatomy, Histology, Embryology,
Developmental Anomalies, and Pediatric Disorders of the
Biliary Tract.. 9th ed. Section VIII, Chapter 62. Vol.1: W.B.
Saunders. pp 1045-1052.
12. Wildhaber BE, M.P., Mayr J, Zachariou Z, Hohlfeld J,
Schwoebel M, Kistler W, Meuli M, Le Coultre C, Mentha G,
Belli D, Chardot C., (2008): Biliary atresia: Swiss national
study1994-2004. J Pediatr Gastroenterol Nutr., 46(3): p. 299-
307.
13. Wu ET, C.H., Ni YH, et al, (2001): 17:390-5, Bacterial
cholangitis in patients with biliary atresia: Impact on short-
term outcome. Pediatr Surg Int 2001(17): p. 390-5.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010 72
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010 73
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_gia_hieu_qua_va_cac_bien_chung_o_benh_nhan_teo_duong_ma.pdf