Bí tiểu
Bí tiểu liên quan với việc chích opioids vào
trục thần kinh là kết quả của sự tương tác với
những thụ thể opioids trong tủy sống, làm giảm
sức co bóp của những cơ tống xuất. Tỷ lệ bí tiểu
với việc dùng opioids trục thần kinh hình như
cao hơn khi dùng opioids toàn thân. Tuy nhiên,
tỷ lệ chính xác của sự bí tiểu được thấy trên lâm
sàng có thể khó quyết định được bởi vì những
bn trải qua những quá trình phẫu thuật lớn
thường phải đặt sonde tiểu. Bí tiểu hình như
không phụ thuộc vào liều opioids và có thể được
điều trị với việc dùng naloxone liều thấp, mặc dù
nguy cơ đảo ngược tác dụng giảm đau. Dùng
thuốc tê vùng chích vào khoang NMC cũng gây
ra bí tiểu, với một tỷ lệ được báo cáo là xấp xỉ 10-
30%. Tốc độ truyền thuốc tê vùng vào khoang
NMC cao hơn (với tác dụng phong bế cảm giác
kéo dài hơn và tỷ lệ phong bế vận động cao hơn)
có thể kết hợp với một tỷ lệ bí tiểu cao hơn(1, 6).
Trong nghiên cứu này, do các bệnh nhân
được phẫu thuật đều được đặt thông tiểu, hoặc
đưa 2 niệu quản ra da do tính chất phẫu thuật,
nên chúng tôi rất khó đánh giá được tình trạng
rối loạn bàng quang của bệnh nhân.
Mức độ hài lòng của bệnh nhân
Nhận xét của BN khi đánh giá về phương
pháp nghiên cứu rất quan trọng, điều này cho
chúng ta biết được mức độ thành công của
phương pháp, thái độ, cung cách phục vụ, và
nhiều những yếu tố khác. Để có được kết quả hài
lòng từ đối tượng nghiên cứu không phải là
chuyện dễ dàng, hơn nữa đây là phương pháp
còn rất mới lạ đối với bệnh nhân và cả nhân viên
y tế tại BV Bình Dân. Trong nghiên cứu này,
phần lớn các bệnh nhân hài lòng với tỉ lệ đánh
giá hài lòng mức độ tốt là 62,2%, đánh giá khá là
21,6%, đánh giá trung bình là 16,2%, không có
TH nào đánh giá kém. Như vậy, tỉ lệ được xem
là đạt yêu cầu chiếm 83,8%, đây là con số rất có ý
nghĩa với một phương pháp giảm đau cho
những phẫu thuật lớn. Vì vậy đây là một kỹ
thuật nên được đưa vào phục vụ rộng rãi hơn
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 26/01/2022 | Lượt xem: 310 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá hiệu quả và mức độ hài lòng của gây tê ngoài màng cứng trong phẫu thuật vùng bụng dưới tại bệnh viện bình dân thành phố Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 82
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ VÀ MỨC ĐỘ HÀI LÒNG CỦA GÂY TÊ
NGOÀI MÀNG CỨNG TRONG PHẪU THUẬT VÙNG BỤNG DƯỚI
TẠI BỆNH VIỆN BÌNH DÂN TP.HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Văn Chừng*, Trần Đỗ Anh Vũ**, Nguyễn Thị Thanh Ngọc **, Nguyễn Văn Chinh*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Gây tê ngoài màng cứng (GTNMC) để giảm đau trong và sau mổ được áp dụng rộng rãi trên
thế giới từ nhiều thập niên qua. Kết quả của nhiều công trình nghiên cứu cho thấy phương pháp này làm giảm
những biến chứng trong và sau mổ, giảm tỉ lệ tử vong sau mổ của các phẫu thuật nặng.
Mục tiêu: Đánh giá sự an toàn và hiệu quả giảm đau trong và sau mổ của phương pháp GTNMC với sự
phối hợp thuốc tê và thuốc giảm đau trung ương cho phẫu thuật lớn vùng bụng dưới.
Phương pháp nghiên cứu: cắt ngang, mô tả. Từ tháng 10/2012 đến tháng 06/2013 tại Bệnh viện Bình Dân
TPHCM, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu 37 trường hợp ASA từ 1 đến 3, phẫu thuật lớn vùng bụng dưới với
gây mê toàn diện kết hợp GTNMC để giảm đau trong và sau phẫu thuật.
Kết quả: tuổi trung bình trong mẫu nghiên cứu: 56,1 ± 13,6 tuổi (25 – 85). Thời gian gây mê phẫu thuật
217,1 ± 107,7 (80 - 480) phút. Hầu hết các trường hợp đều đáp ứng đủ nhu cầu thao tác ngoại khoa trong mổ, rất
ít sử dụng thêm opioids tĩnh mạch ngoại trừ liều khởi mê, chỉ có 5 trường hợp cần sử dụng thêm thuốc giảm đau
opioids trong mổ. Thuốc mê hô hấp duy trì trong mổ < 1 MAC. Không có tai biến nặng liên quan catheter NMC
và tử vong chu phẫu trong nghiên cứu.
Kết luận: Kết quả cho thấy phương pháp GTNMC phối hợp gây mê là kỹ thuật an toàn cho phẫu thuật vùng
bụng dưới, với hiệu quả vô cảm và giảm đau sau mổ tốt, không có những tai biến và biến chứng nặng.
Từ khóa: gây tê ngoài màng cứng, phẫu thuật vùng bụng dưới.
ABSTRACT
EVALUATE THE EFFICIENCY AND SATISFACTION OF EPIDURAL
IN LOWER ABDOMINAL SURGERY AT BINH DAN HOSPITAL
Nguyen Van Chung, Tran Do Anh Vu, Nguyen Thi Thanh Ngoc, Nguyen Van Chinh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - Supplement of No 4- 2014: 82 - 90
Background: Epidural for intra and postoperative pain relief has been widely used in the world for many
decades. Previous studies have shown that this method may reduce complications, and decrease the mortality in
severe cases.
Objectives: The present study investigates the safety and the efficacy of epidural combined local anaesthetics
and opioids in major lower abdominal surgery.
Methods: descriptive, cross-sectional study. 37 ASA physical status 1 - 3 patients undergoing major surgery
of the lower abdomen with a combined general anaesthesia and epidural postoperative analgesia were studied at
Binh Dan hospital from 2012 October to 2013 March.
Results: Average ages: 56.1 ± 13.6 years (25 – 85). Duration of surgery: 217.1 ± 107.7 (80 - 480) minutes.
In most cases, the patients had no negative responses to the stimulus provided during the surgical procedure.
Anesthesiologists rarely needed to administer intravenous opioids except a conductive dose. There were only five
* Đại học Y Dược Tp. Hồ Chí Minh ** Bệnh viện Bình Dân Tp. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: TS.BS. Nguyễn Văn Chinh ĐT: 0903885497 Email: chinhnghiem2006@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 83
cases which more opioids were used during on operation. Anesthesia was maintained with less than 1 MAC of
inhalation anesthetics. With regards to epidurals in this study, there were no severe complications or mortality.
Conclusions: The results illustrate that a combined general - epidural anesthesia technique is safe for lower
abdominal surgery with both efficient anesthesia and satisfactory pain relief. There were no serious complications
involved in this process.
Keyword: epidural, lower abdominal surgery.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Giảm đau luôn là vấn đề được bệnh nhân
(BN) và thầy thuốc quan tâm, đặc biệt trong lĩnh
vực ngoại khoa. Đau tạo nên nỗi sợ hãi cho bệnh
nhân khi phải đi mổ làm ảnh hưởng đến kết quả
hồi phục sức khỏe và tâm lý của bệnh nhân. Như
vậy, việc lựa chọn một phương pháp vô cảm
phù hợp và thực hiện tốt việc giảm đau trong và
sau mổ sẽ hỗ trợ rất nhiều cho bệnh nhân trong
cuộc mổ và phục hồi sức khỏe sau mổ. Đồng
thời, giúp bệnh nhân vận động trở lại sớm, hạn
chế được nhiều biến chứng, góp phần vào sự
thành công của phẫu thuật và có thể rút ngắn
thời gian nằm viện.
Kết quả của nhiều công trình nghiên cứu cho
thấy Phương pháp giảm đau bằng GTNMC làm
giảm những biến chứng trong và sau mổ, cải
thiện tình trạng phục hồi chức năng sau mổ và
giảm tỉ lệ tử vong sau mổ của các phẫu thuật
nặng. Bên cạnh đó, việc phối hợp giữa thuốc tê
và thuốc giảm đau trung ương dùng trong
GTNMC bằng cách dùng bơm tiêm điện cũng đã
cho thấy những ưu điểm, thuận lợi rõ rệt như cải
thiện chất lượng giảm đau do đó giảm bớt được
liều lượng sử dụng của cả hai nhóm thuốc, giảm
tai biến ngộ độc thuốc, duy trì nồng độ thuốc ổn
định, giảm tải công việc cho người làm công tác
hồi sức sau mổ, tránh được tác dụng ức chế giao
cảm ngắt quãng do chích từng liều.(1, 8, 9)
Đối với các phẫu thuật lớn vùng bụng dưới,
thời gian mổ kéo dài, trên các đối tượng có các
bệnh lý tim mạch, hô hấp kèm theo với nhiều
nguy cơ trong và sau phẫu thuật, ngoài các vấn
đề về ngoại khoa, đau được ví như một dấu hiệu
sinh tồn cần phải được quan tâm đúng mức.
Những trường hợp như vậy, việc đặt một ống
thông nhỏ (catheter) vào khoang ngoài màng
cứng (NMC) vừa là phương pháp vô cảm và
giảm đau trong mổ, vừa giảm đau sau mổ liên
tục rất tiện lợi.
Mục tiêu nghiên cứu
Đánh giá sự an toàn và hiệu quả giảm đau
trong và sau mổ của phương pháp GTNMC với
sự phối hợp thuốc tê và thuốc giảm đau trung
ương cho phẫu thuật lớn vùng bụng dưới.
Xác định tỷ lệ các tai biến, biến chứng và
mức độ hài lòng của bệnh nhân của phương
pháp giảm đau.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng
BN có chỉ định phẫu thuật lớn vùng bụng
dưới tại Bệnh viện Bình Dân TP.HCM.
Tiêu chuẩn nhận bệnh
Bệnh nhân thuộc nhóm ASA I, II, III.
Không có chống chỉ định GTNMC: Tiền sử
dị ứng thuốc tê hoặc thuốc họ opioids; Có dị
dạng, bệnh lý cột sống; Rối loạn đông máu;
Nhiễm trùng tại chỗ chọc kim; Có bệnh lý của hệ
thần kinh trung ương, tăng áp lực nội sọ
Bệnh nhân đồng ý hợp tác với thầy thuốc để
tiến hành gây tê khi mổ và giảm đau bằng
catheter ngoài màng cứng
Tiêu chuẩn loại trừ
Các bệnh nhân không thuộc nhóm nghiên
cứu bao gồm:
Bệnh nhân đang nhiễm trùng toàn thân,
đang ở trong tình trạng sốc hay thiếu khối lượng
tuần hoàn
Không thực hiện chọc dò NMC được
Bệnh nhân không giao tiếp được
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 84
Thu thập thiếu số liệu
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu mô tả, tiền
cứu
Phương tiện theo dõi và hồi sức: Nguồn
dưỡng khí, ống nghe tim phổi; Máy đo HA động
mạch, nhiệt độ, kim luồn 20G, 18G; Bộ dụng
cụ cấp cứu: ống nội khí quản, đèn soi thanh
quản, ambu bagDụng cụ theo dõi bệnh nhân:
máy monitor
Dụng cụ tê NMC
Bộ GTNMC với kim Touhy số 18 có kèm
theo catheter và bộ nối
Hộp đựng dụng cụ gây tê đã vô khuẩn: gồm
ống chích thủy tinh 10ml, 20ml, ống chích nhựa
5ml, 10ml, 20ml, gòn gạc, khăn lỗ
Máy bơm tiêm điện liên tục
Găng tay vô trùng
Thuốc và dịch truyền
Thuốc tê: Lidocaine 2% 2ml; Bupivacain
(Marcain) 0,5%, 20ml.
Thuốc khác: Fentanyl 100mcg (2ml),
Ephedrine 1ml, 30mg; Adrenaline 1ml, 1mg;
Atropine 1ml, 0,25mgvà dịch truyền.
Phương thức tiến hành
Thăm khám, giải thích và chuẩn bị BN như
một cuộc gây mê bình thường: thăm khám
tiền mê, đặc biệt vùng lưng, cột sống, các chức
năng vận độngkiểm tra các xét nghiệm
thường qui, các yếu tố đông máu, X quang
phổi, điện tâm đồ
Đánh giá, phân loại nguy cơ theo ASA, kiểm
tra những chỉ định và chống chỉ định của
GTNMC
Thực hiện phương pháp GTNMC
Đặt đường truyền tĩnh mạch ngoại biên bằng
kim luồn 20G hay 18G, dung dịch NaCl 0,9% hay
Lactate Ringer.
Kiểm tra mạch (M), huyết áp (HA), nhịp thở,
có thể gắn monitor theo dõi sinh hiệu, cho BN
thở oxy 2-3 lít/phút.
Đặt bệnh nhân nằm nghiêng tư thế cong
lưng tôm. Mốc chọc dò là khoảng liên đốt sống
L2-L3 hoặc L3-L4.
Người thực hiện rửa tay, mang găng, sát
trùng bằng Betadin, trải khăn lỗ.
Tê tại chỗ TL 3-4 hoặc TL 2-3 với Lidocaine
2% 2ml. Tê NMC TL 3-4 hoặc TL 2-3 với độ sâu
khoang NMC tùy theo BN.
Xác định khoang ngoài màng cứng bằng kỹ
thuật « mất sức cản », luồn catheter vào khoang
NMC với độ sâu 3 – 5 cm. Bơm liều test bằng
hỗn hợp 3ml Lidocain 1,5% và epinephrine
1/200.000.
Sau khi xác định catheter đúng vào khoang
NMC. Tiến hành gây mê toàn diện có đặt ống
nội khí quản (NKQ) cho bệnh nhân.
Truyền liên tục trong mổ hỗn hợp:
Bupivacaine 0,1% + Fantanyl 4 mcg/1ml với vận
tốc 4-8ml/giờ.
Sau mổ, vẫn tiếp tục truyền liên tục hỗn hợp
Bupivacaine 0,1% + Fantanyl 4 mcg/1ml với vận
tốc 4-8ml/giờ.
Theo dõi dấu sinh tồn của BN trước, trong và
sau khi thực hiện thủ thuật, xử lý những rối loạn
khi cần, bao gồm :
Tại phòng mổ: sau khi gây tê, theo dõi: mạch,
HA, nhịp thở, tri giác.
Trong mổ: theo dõi các chỉ số M, HA, các
đáp ứng về độ mê với các kích thích phẫu
thuật khác nhau.
Sau mổ: tiếp tục duy trì giảm đau qua
catheter NMC bằng bơm điện liên tục. Ghi
nhận và đánh giá các yếu tố cần nghiên cứu:
mức tê, độ liệt Khi bệnh nhân về trại, thăm
khám BN vào những giờ nhất định trong ngày
theo phác đồ nghiên cứu, và thăm khám ngay
lập tức các vấn đề liên quan đến catheter
NMC để đưa ra hướng xử tríc. Ghi nhận cảm
tưởng của BN và các biến chứng muộn như bí
tiểu, đau lưng, đau đầu
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 85
Đánh giá kết quả
Ghi nhận những khó khăn, thuận lợi của
phương pháp GTNMC giảm đau trong và sau
mổ.
Đánh giá tỉ lệ % của các yếu tố cần khảo sát
theo mẫu nghiên cứu
Đánh giá tính hiệu quả, tính an toàn của
GTNMC trong và sau mổ
Đánh giá mức độ mất cảm giác, thang điểm
đau (VAS), hiệu quả trong cuộc mổ theo phiếu
thu thập số liệu
Thang điểm đau (VAS = Visual Analog
Scale): từ 8 đến 10 điểm đau (đau nhiều nhất)
Đánh giá phong bế vận động: đánh giá theo
thang điểm Bromage
Độ IV: cử động các khớp háng, gối và bàn
chân bình thường
Độ III: không thể nhấc cẳng chân lên, cử
động được khớp gối và bàn chân
Độ II: không gấp được khớp gối, chỉ cử động
được bàn chân
Độ I: không thể cử động được các khớp
háng, gối và bàn chân
Phát hiện và cử trí những rối loạn khi cần
Ghi nhận các tác dụng ngoại ý, các tai biến
Về hô hấp:
Thở bình thường, tấn số thở > 10 lần/phút
Thở ngáy, tần số thở > 10 lần/phút
Thở không đều, nông, tắc nghẽn, co kéo hoặc
tần số thở < 10 lần/phút
Thở ngắt quãng hoặc ngừng thở
Các TH 3 và 4 hoặc tần số thở <10 lần/phút:
ngừng thuốc, thở oxy, theo dõi sát
Về tuần hoàn: theo dõi M, HA, tụt HA nếu
HA tối đa <90mmHg hoặc giảm 20-30% trị số
HA ban đầu (loại trừ tụt HA do các nguyên
nhân khác)
Nôn và buồn nôn: Không nôn hoặc buồn
nôn; Nôn và buồn nôn xuất hiện thoáng qua,
không cần điều trị; Nôn và buồn nôn cần phải
điều trị nhưng đáp ứng với điều trị; Nôn và
buồn nôn không đáp ứng điều trị
Rối loạn bàng quang: Tiểu bình thường; Phải
chườm nóng mới tiểu được; Phải đặt thông tiểu
Các tác dụng ngoại ý khác: Dị ứng: ngứa, nổi
mẩn; Đau đầu, đau lưng: thời gian xuất hiện, kéo
dài, kết thúc; Lạnh run
Thu thập và xử lý số liệu
Thu thập số liệu: Các BN có đủ tiêu chuẩn,
được chọn vào mẫu nghiên cứu đều được ghi
nhận các dự kiện theo một mẫu nghiên cứu khoa
học thống nhất.
Phương pháp xử lý các số liệu: Căn cứ vào
các dữ liệu, các chi tiết thu thập được từ phiếu
nghiên cứu. Xử lý các dữ liệu: phần mềm thống
kê SPSS 13.0 for Windows.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Từ tháng 10/2012 đến tháng 06/2013 tại Bệnh
Viện Bình Dân TPHCM, chúng tôi đã tiến hành
thực hiện và theo dõi 37 trường hợp phẫu thuật
lớn vùng bụng dưới với gây mê toàn diện kết
hợp GTNMC để giảm đau trong và sau phẫu
thuật. Kết quả thu thập và phân tích như sau:
Đặc điểm của mẫu nghiên cứu
Bảng 1: Đặc điểm chung của bệnh nhân
Đặc điểm Trung bình Nhỏ nhất Lớn nhất
Tuổi 56,1 ± 13,6 25 85
Chiều cao (cm) 161,6 ± 9,4 150 180
Cân nặng (kg) 55,9 ± 10,1 36 77
ASA: Có 4 trường hợp (8,5%) loại 1, 28
(59,6%) loại 2, và 5 (10,6%) loại 3.
Bảng 2: Loại phẫu thuật
Loại phẫu thuật Trường hợp
Bướu bàng quang 12
K tiền liệt tuyến 2
Dò bàng quang âm đạo 1
Bàng quang thần kinh 1
K trực tràng 19
K ống hậu môn 2
Thời gian phẫu thuật: 217,1 ± 107,7 (80 -
480) phút.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 86
Bệnh kèm theo
Hầu hết các bệnh nhân đều có ít nhất một
bệnh lý nội khoa kèm theo, nổi bật là tình trạng
tăng huyết áp, với 10 trường hợp, chiếm 27%
bệnh nhân. Có 6 trường hợp bệnh tim thiếu máu
cục bộ, 2 trường hợp hen phế quản.
Thay đổi M, HA của bệnh nhân trong các
thời điểm
Bảng 3: Thay đổi sinh hiệu của bệnh nhân
Thay đổi sinh hiệu Mạch HA TB
Trước gây tê (tỉnh táo) 82,7 ± 9,6 105,3 ± 9,4
Trước rạch da 65,2 ± 11,4 * 69,7 ± 6,2 *
Trong mổ 71,9 ± 9,3 * 75,3 ± 8,7 *
Sau mổ (vừa hồi tỉnh) 89,7 ± 10,8 110,4± 8,5
(*): khác biệt có ý nghĩa thống kê, P < 0,05.
Chúng tôi lấy các thông số về M và HA trước
khi gây tê làm mức cơ bản của BN.
Thời điểm trước rạch da và trong phẫu
thuật, sự thay đổi M và HA có ý nghĩa về mặt
thống kê, nhưng về phương diện lâm sàng thì
BN chấp nhận được mức đáp ứng thay đổi
huyết động này.
Đặc điểm về kỹ thuật – tai biến biến chứng
Đặc điểm về kỹ thuật
Bảng 4: Các thông số về đặc điểm kỹ thuật
Đặc điểm về kỹ thuật Số trường
hợp
Tỷ lệ (%)
Thời gian làm thủ
thuật (phút)
<10 14 37,8
10 – 20 16 43,2
>20 7 18,9
Đường chọc Đường giữa 8 21,6
Đường bên 29 78,4
Khoảng cách
từ da đến
khoang NMC
< 4cm 5 13,5
4 - 5cm 15 40,5
> 5cm 17 45,9
Tai biến - Biến chứng
Không có tai biến nặng ghi nhận trong
nghiên cứu này.
Trong nghiên cứu này chúng tôi không ghi
nhận trường hợp nào bị tụt HA trầm trọng cần
phải xử lý, cũng không có trường hợp nào bị suy
hô hấp phải điều trị ở giai đoạn sau mổ.
Bảng 5: Các tai biến, biến chứng khác
Biến chứng Số trường hợp Tỷ lệ %
Buồn nôn - nôn 9 24,3%
Đau đầu 5 13,5%
Đau lưng 1 2,7%
Đánh giá hiệu quả giảm đau trong và sau
phẫu thuật
Giảm đau trong mổ
Hầu hết các trường hợp đều đáp ứng đủ nhu
cầu thao tác ngoại khoa trong mổ, không sử
dụng thêm opioids tĩnh mạch ngoại trừ liều khởi
mê, có 5 trường hợp cần sử dụng thêm thuốc
giảm đau opioids trong mổ. Thuốc mê hô hấp
duy trì trong mổ < 1 MAC.
Giảm đau sau mổ
Thang điểm đau (VAS)
Bảng 6: Thang điểm đau VAS
VAS Giờ 0
(tỉnhtáo)
Giờ
4
Giờ
8
Giờ
16
Giờ
24
Giờ
36 - 72
0-1 0 0 0 1 1 1
>1-3 5 15 19 20 25 28
>3-5 27 21 17 15 10 3
>5-8 5 1 1 1 1 0
>8-10 0 0 0 0 0 0
Có 5 trường hợp rút catheter sớm sau 1 ngày
vì lý do bệnh nhân sốt cao (2 trường hợp), và do
catheter bị sút (1 trường hợp), tắc nghẽn (2
trường hợp).
Phong bế vận động: đánh giá theo thang điểm
Bromage:
Chỉ có 1 trường hợp bị liệt hoàn toàn 2 chi
dưới (Bromage I) vào giờ thứ 4, sau khi giảm liều
thì phục hồi vận động. 5 trường hợp yếu nhẹ ở 1
hoặc 2 chi dưới (Bromage III). Các trường hợp
còn lại đa số chỉ có cảm giác dị cảm nhẹ.
Đánh giá mức độ hài lòng của bệnh nhân
Bảng 7: Mức độ hài lòng của bệnh nhân
Mức độ hài long Tốt Khá TB Kém
Số trường hợp 23 8 6 0
Tỷ lệ % 62,2 21,6 16,2 0
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 87
NHẬN XÉT VÀ BÀN LUẬN
Đặc điểm chung mẫu nghiên cứu
Tuổi trung bình của bệnh nhân trong mẫu
nghiên cứu 56,1 ± 13,6 tuổi, thấp nhất là 25 tuổi,
cao nhất là 85 tuổi. Tuổi trong dân số mẫu
nghiêng về phía người cao tuổi, phù hợp với
phân bố dịch tể của loại bệnh cần phẫu thuật,
gồm 12 trường hợp (32,4%) bướu bàng quang và
19 trường hợp (51,4%) K trực tràng. Điều này
cũng góp phần gây khó khăn cho nghiên cứu vì
ở độ tuổi càng cao, việc chuyển hóa và đào thải
thuốc ít nhiều bị ảnh hưởng, dễ dẫn đến tình
trạng tích lũy thuốc và gây ngộ độc(1).
Bệnh kèm theo
Kết quả nghiên cứu cho thấy đa số bệnh
nhân đều có bệnh lý nội khoa kèm theo, đặc biệt
là tình trạng tăng huyết áp với 10 trường hợp
(27%). Tất cả các trường hợp có bệnh kèm theo,
chúng tôi đều mời hội chẩn và điều trị theo
chuyên khoa ổn định trước khi lên lịch mổ
chương trình.
Bệnh nhân tăng huyết áp cần kiểm tra chức
năng tâm thất trái, tình trạng mạch vành, chức
năng thận và soi đáy mắt trước mổ. Gây tê tủy
sống hoặc GTNMC trên bệnh nhân tăng huyết
áp, dễ có nguy cơ tụt huyết áp do khả năng vận
mạch bị giảm sút. Tuy nhiên, gây tê tủy sống
hoặc GTNMC trong mổ cũng như GTNMC để
giảm đau hậu phẫu lại cho thấy giảm tỷ lệ tử
vong, giảm nguy cơ tai biến tim mạch sau mổ.
Các thuốc điều trị tăng huyết áp đường uống
vẫn tiếp tục được dùng cho đến ngày mổ vì sợ
tai biến cơn tăng huyết áp khi ngưng thuốc; trừ
nhóm ức chế men chuyển và nhóm ức chế thụ
thể angiotensin II, cần ngưng trước mổ 24 giờ.
Thiếu máu cơ tim là một tổn thương phổ
biến và nguy hiểm trong phẫu thuật, thường liên
quan với bệnh nhân tăng huyết áp. Tai biến sau
mổ về suy tim, suy thận và bệnh lý mạch máu
não cũng liên quan với tăng huyết áp. Chứng cớ
thấp về mối liên quan giữa huyết áp trước mổ
< 180/110 mmHg với nguy cơ tim mạch trong
giai đoạn chu phẫu. Do đó việc kiểm soát huyết
áp dưới mức < 180 mmHg trước mổ là điều kiện
cần thiết cho cuộc mổ chương trình.(4)
Vai trò gây tê ngoài màng cứng giảm đau
trong mổ
Phương pháp gây mê cân bằng được xem là
một cách thức lý tưởng cho một cuộc phẫu thuật
lớn, gây nhiều thay đổi về mặt sinh lý cho bệnh
nhân. Trong gây mê cân bằng, người bệnh sẽ
được thực hiện đầy đủ và đồng thời việc ngủ,
giảm đau và dãn cơ.
Theo Robert J ( 2003), gây tê NMC phối hợp
gây mê và giảm đau hậu phẫu làm giảm biến cố
tim mạch chu phẫu 30%, giảm nhiễm trùng phổi
40%, tắc mạch phổi 50%, suy thận cấp 30% so với
gây mê toàn thân và giảm đau truyền thống.(10)
Trong nghiên cứu chúng tôi nhận thấy, vai
trò của phối hợp GTNMC hoàn toàn có thể thay
thế nhóm opioids giảm đau trong mổ, lượng
sufentanil hoặc fentanyl trong hầu hết các
trường hợp chỉ dùng lúc khởi mê để đặt NKQ.
Tránh được việc sử dụng opioids liều cao trong
phẫu thuật rất có lợi, đặc biệt ở người già và
những bệnh nhân có tình trạng thể chất kém
(ASA 3), giúp sớm tỉnh mê và tránh những biến
cố do dùng opioids quá nhiều được cộng dồn
vào khi cho giảm đau sau mổ. Điều này được
chứng minh khi thời gian rút NKQ sớm, bệnh
nhân tỉnh táo sớm. Để tránh tình trạng tụt HA,
một tác dụng thường đi kèm với phối hợp gây tê
vùng và gây mê toàn diện, trong nghiên cứu,
chúng tôi chỉ thực hiện liều bolus khi M và HA
đã ổn định sau khởi mê, điều này giúp chúng tôi
phòng ngừa được tác dụng tụt HA khi phối hợp
giữa gây tê NMC và gây mê toàn diện.
Các thuốc sử dụng trong mổ như thuốc mê
bốc hơi cũng có xu hướng giảm, chúng tôi sử
dụng gây mê với nồng độ thuốc mê < 1 MAC, và
không có trường hợp nào bệnh nhân bị thức tỉnh
trong mổ.
Khó khăn về thực hiện thủ thuật
Chọc dò cột sống thắt lưng thường thực hiện
qua đường giữa hoặc đường bên. Trong nghiên
cứu, chúng tôi thực hiện 8 TH đường giữa chiếm
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 88
21,6%. Sau khi gây tê tại chỗ, kim được đưa vào
qua các lớp cấu trúc: da, tổ chức dưới da, dây
chằng trên gai, dây chằng liên gai, dây chằng
vàng và màng cứng. Chọc dò cột sống thắt lưng
cũng có thể theo đường bên khi gây tê tủy sống
hoặc GTNMC, chúng tôi có 29 trường hợp
(78,4%) theo đường bên. Phương thức này hữu
dụng đáng kể trong trường hợp bệnh nhân có
khó khăn khi cúi gập cột sống hoặc trong trường
hợp dây chằng trên gai và dây chằng liên gai bị
vôi hóa làm kim chọc dò đi qua khó khăn. Người
ta khuyên nên đi vào theo đường giữa vì ở đấy
khoảng cách khoang ngoài màng cứng rộng
nhất; giảm nguy cơ chọc nhầm vào tĩnh mạch
màng cứng, động mạch cột sống, rễ thần kinh vì
các thành phần này chủ yếu nằm ở phần bên của
khoang ngoài màng cứng. Một nghiên cứu của
các nhà gây mê sản khoa tại Anh năm 1993 cho
thấy, 85% bác sĩ gây mê thích chọn đường giữa
trong GTNMC, trong khi chỉ có 2% chọn đường
bên(1, 11). Lý do mà nhiều người tránh đi vào bằng
đường bên, vì làm bệnh nhân đau nhiều hơn.
Tuy nhiên tại Bệnh viện Bình Dân, các bác sĩ gây
mê đã có thói quen tiếp cận khe liên đốt theo
đường bên, vì vậy trong thời gian đầu triển khai
chúng tôi chọn thực hiện theo đường bên. Thời
gian hoàn thành thủ thuật < 20 phút chiếm 30/37
trường hợp. Điều này có thể chấp nhận được
trong hoàn cảnh mới triển khai thủ thuật.
Đánh giá mức độ an toàn của giảm đau hậu
phẫu qua catheter NMC với các tai biến,
biến chứng trong nghiên cứu
Tác dụng phụ của những thuốc giảm đau chích
vào trục thần kinh
Nhiều tác dụng phụ liên quan đến thuốc
(opioids và thuốc tê vùng) có thể xảy ra với
việc dùng giảm đau NMC ở hậu phẫu, nhưng
trước khi quy nguyên nhân do chế độ trị liệu
giảm đau NMC, điều quan trọng đầu tiên là
phải xem xét những nguyên nhân khác, như
giảm thể tích, chảy máu, cung lượng tim thấp
dẫn đến tụt huyết áp, tai biến mạch máu não,
phù phổi; và nhiễm trùng huyết diễn tiến dẫn
đến suy hô hấp.(1, 6). Trong mẫu nghiên cứu
này, chúng tôi không gặp phải các tai biến
nặng liên quan đến catheter như tử vong hoặc
các tai biến liên quan với tổn thương thần kinh
trung ương không hồi phục.
Một số tác dụng phụ khác được chúng tôi ghi
nhận như sau
Tụt huyết áp
Thuốc tê vùng dùng trong chế độ trị liệu
giảm đau NMC có thể phong bế những sợi giao
cảm và góp phần gây tụt huyết áp sau mổ. Tỷ lệ
tụt huyết áp hậu phẫu với giảm đau NMC sau
mổ có thể cao xấp xỉ 7%, trung bình gần 0,7 - 3%.
Những chiến lược điều trị tụt huyết áp không
nguy hiểm gây ra bởi giảm đau NMC bao gồm
việc giảm tổng liều thuốc tê vùng sử dụng (bằng
việc giảm tốc độ hay nồng độ), chỉ truyền opioid
vào khoang NMC và điều trị những nguyên
nhân căn bản của tụt huyết áp.(2, 3, 6)
Trong nghiên cứu của chúng tôi, các trường
hợp tụt HA có ý nghĩa đều xảy ra trong lúc phẫu
thuật. Nguyên nhân chủ yếu vẫn là do tình trạng
giảm thể tích do mất máu. Trong giai đoạn hậu
phẫu, chúng tôi không ghi nhận trường hợp nào
tụt HA liên quan đến việc truyền thuốc tê và
opioid qua catheter khoang ngoài màng cứng.
Phong bế vận động
Sử dụng thuốc tê vùng cho tác dụng giảm
đau NMC ở hậu phẫu cũng góp phần phong
bế vận động chi dưới xấp xỉ 2 - 3% BN. Nồng
độ thấp hơn của thuốc gây tê vùng và catheter
- đường rạch da - vị trí phù hợp của catheter
NMC cho quá trình phẫu thuật bụng hay ngực
có thể làm giảm tỷ lệ phong bế vận động. Mặc
dù trong phần lớn các trường hợp sự phong
bế vận động được giải quyết sau khi ngưng
truyền vào khoang NMC trong vòng gần 2
giờ, nếu sự phong bế vận động tiếp tục tồn tại
hay tăng lên cần phải được đánh giá nhanh,
các nguyên nhân như khối máu tụ ở tủy sống,
áp-xe tủy sống, sự di dời của catheter vào
trong tủy sống, phải được quan tâm xem xét
như một phần của chẩn đoán phân biệt.(6,7).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 89
Một trong những vấn đề của truyền thuốc tê
vào khoang NMC liên tục là tích lũy thuốc và
gây ngộ độc. Vì vậy để đảm bảo an toàn,
chúng tôi luôn tuân thủ những quy tắc truyền
thuốc: liều thấp nhất cung cấp giảm đau đầy
đủ (≤ 12 ml/giờ); trong khoảng thời gian 4 giờ
bất kỳ: Bupivacaine không sử dụng quá
2mg/kg; tổng liều Bupivacaine không vượt
quá 400 mg trong 24 giờ; không truyền liên tục
Bupivacaine qua catheter ngoài màng cứng
quá 72 giờ.
Trong nghiên cứu này, chỉ có 1 trường hợp bị
liệt đột ngột sau khoảng 5 giờ truyền thuốc tê.
Chúng tôi xử trí bằng cách ngưng truyền thuốc
và theo dõi, vận động của bệnh nhân hồi phục
trong khoảng 2 giờ sau đó. Tiếp theo chúng tôi
cho thực hiện lại việc truyền thuốc nhưng giảm
tốc độ, và bệnh nhân không còn hiện tượng liệt 2
chi dưới. Vì vậy với nghiên cứu này, chúng tôi
nhận thấy nồng độ thuốc tê, opioids và tốc độ
truyền như vậy là phù hợp để giảm đau đủ và ít
phong bế vận động nhất.
Buồn nôn và nôn
Buồn nôn và nôn kết hợp với việc chích
một liều đơn opioids vào trục thần kinh xảy ra
xấp xỉ 20 - 50% BN, và tỷ lệ tích lũy ở những
BN nhận sự điều trị truyền opioids liên tục có
thể cao từ 45 - 80%. Những dữ liệu lâm sàng
và thử nghiệm cho thấy rằng tỷ lệ buồn nôn
và nôn liên quan đến opioid chích vào trục
thần kinh thì tùy thuộc vào liều. Buồn nôn và
nôn từ việc chích opioid vào trục thần kinh có
thể liên quan đến sự di chuyển về phía đầu
của opioid. Dùng fentanyl một mình hay kết
hợp với một thuốc tê vùng trong truyền vào
khoang NMC thì tỷ lệ buồn nôn và nôn thấp
hơn việc truyền với morphine. Một số thuốc
được sử dụng thành công để điều trị chứng
buồn nôn và nôn do việc chích opioids vào
trục thần kinh bao gồm naloxone, droperidol,
metoclopramide, dexamethasone,
ondansetron, và scopolamine qua da.(5,6).
Nghiên cứu của chúng tôi có 9 trường hợp
(24,3%) bệnh nhân bị buồn nôn và nôn, cũng
phù hợp với tỷ lệ chung.
Suy hô hấp
Opioids chích vào trục thần kinh được dùng
với những liều thích hợp thì không gây ra suy hô
hấp cao hơn việc dùng opioids toàn thân. Tỷ lệ
suy hô hấp với opioids chích vào trục thần kinh
thì tùy thuộc vào liều và khoảng từ 0,1 - 0,9%. Tỷ
lệ suy hô hấp với việc truyền liên tục opioids vào
khoang NMC hình như không nhiều hơn những
gì đã thấy sau khi dùng opioid toàn thân. Mặc
dù một số cơ sở đòi hỏi những BN được truyền
liên tục opioids ưa nước vào khoang NMC phải
được theo dõi trong phòng săn sóc đặc biệt,
nhưng nhiều thử nghiệm với quy mô lớn đã
chứng minh tính an toàn tương đối (tỷ lệ suy hô
hấp < 0,9%) của kỹ thuật này tại các khoa ngoại.
Những opioids ưa mỡ chích vào trục thần
kinh đã được nghĩ là nguyên nhân làm suy hô
hấp nhanh hơn những opioid ưa nước, mặc dù
việc dùng những opioid ưa mỡ có thể kết hợp
với sự suy hô hấp nhanh và đáng chú ý hơn. Suy
hô hấp chậm đầu tiên kết hợp với sự lan truyền
về phía đầu của opioids ưa nước, điều này
thường xảy ra trong vòng 12 giờ sau khi chích
morphine. Những yếu tố nguy cơ của suy hô
hấp với opioids chích vào trục thần kinh bao
gồm tăng liều, tuổi cao, dùng đồng thời với
opioids toàn thân hay thuốc an thần và có thể do
phẫu thuật mở rộng hay kéo dài, và phẫu thuật
lồng ngực.(1, 5, 6). Trong nghiên cứu này, chúng tôi
không ghi nhận trường hợp nào bị suy hô hấp
cần phải can thiệp. Có thể trong giai đoạn đầu,
việc theo dõi và chỉnh liều cho BN được quan
tâm chặt chẽ.
Bí tiểu
Bí tiểu liên quan với việc chích opioids vào
trục thần kinh là kết quả của sự tương tác với
những thụ thể opioids trong tủy sống, làm giảm
sức co bóp của những cơ tống xuất. Tỷ lệ bí tiểu
với việc dùng opioids trục thần kinh hình như
cao hơn khi dùng opioids toàn thân. Tuy nhiên,
tỷ lệ chính xác của sự bí tiểu được thấy trên lâm
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 90
sàng có thể khó quyết định được bởi vì những
bn trải qua những quá trình phẫu thuật lớn
thường phải đặt sonde tiểu. Bí tiểu hình như
không phụ thuộc vào liều opioids và có thể được
điều trị với việc dùng naloxone liều thấp, mặc dù
nguy cơ đảo ngược tác dụng giảm đau. Dùng
thuốc tê vùng chích vào khoang NMC cũng gây
ra bí tiểu, với một tỷ lệ được báo cáo là xấp xỉ 10-
30%. Tốc độ truyền thuốc tê vùng vào khoang
NMC cao hơn (với tác dụng phong bế cảm giác
kéo dài hơn và tỷ lệ phong bế vận động cao hơn)
có thể kết hợp với một tỷ lệ bí tiểu cao hơn(1, 6).
Trong nghiên cứu này, do các bệnh nhân
được phẫu thuật đều được đặt thông tiểu, hoặc
đưa 2 niệu quản ra da do tính chất phẫu thuật,
nên chúng tôi rất khó đánh giá được tình trạng
rối loạn bàng quang của bệnh nhân.
Mức độ hài lòng của bệnh nhân
Nhận xét của BN khi đánh giá về phương
pháp nghiên cứu rất quan trọng, điều này cho
chúng ta biết được mức độ thành công của
phương pháp, thái độ, cung cách phục vụ, và
nhiều những yếu tố khác. Để có được kết quả hài
lòng từ đối tượng nghiên cứu không phải là
chuyện dễ dàng, hơn nữa đây là phương pháp
còn rất mới lạ đối với bệnh nhân và cả nhân viên
y tế tại BV Bình Dân. Trong nghiên cứu này,
phần lớn các bệnh nhân hài lòng với tỉ lệ đánh
giá hài lòng mức độ tốt là 62,2%, đánh giá khá là
21,6%, đánh giá trung bình là 16,2%, không có
TH nào đánh giá kém. Như vậy, tỉ lệ được xem
là đạt yêu cầu chiếm 83,8%, đây là con số rất có ý
nghĩa với một phương pháp giảm đau cho
những phẫu thuật lớn. Vì vậy đây là một kỹ
thuật nên được đưa vào phục vụ rộng rãi hơn.
KẾT LUẬN
Kết quả cho thấy phương pháp GTNMC
phối hợp gây mê là kỹ thuật an toàn, hiệu quả và
không có những tai biến biến chứng quan trọng.
Với phác đồ sử dụng trong nghiên cứu, đặt
catheter NMC đoạn TL 2 - 3 hoặc TL 3 - 4, truyền
liên tục hỗn hợp Bupivacaine 0,1% và Fentanyl 4
mcg/mL trong và sau mổ, tốc độ 4 – 8 mL/giờ.
Phác đồ này đã đáp ứng được nhu cầu giảm đau
trong và sau phẫu thuật với tính hiệu quả và an
toàn cao cho các trường hợp phẫu thuật lớn
vùng bụng dưới.
Do đó, đề tài có thể được ứng dụng rộng rãi
hơn cho các phẫu thuật lớn vùng bụng trên và
vùng ngực. Tuy nhiên, với những nguy cơ của
thủ thuật và thuốc sử dụng, chúng tôi khuyến
cáo khi áp dụng phương pháp này cần phải
chuẩn bị đầy đủ nhân lực, trang thiết bị, nhất là
phải có quy trình và phác đồ thống nhất với các
bộ phận liên quan.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Brown DL (2009). “Spinal, Epidural, and Caudal Anesthesia”.
In: Miller’s Anesthesia, 7th edition, Churchill Livingstone, pp.
1611 – 1636.
2. Doi K, Yamanaka M, Shono A, Fukuda N, Saito Y (2007).
Preoperative epidural fentanyl reduces postoperative pain
after upper abdominal surgery. Br J Anaesth, 98(3): 380-4.
3. Duncan F (2011). Prospective observational study of
postoperative epidural analgesia for major abdominal surgery.
J Clin Nurs, 20(13-14):1870 – 1879.
4. Finucane BT, Tsui BCH (2008). “Managing Adverse Outcomes
during Regional Anesthesia”. In: Anesthesiology, Medical
Books, McGraw – Hill, Volume 1, pp. 1053 – 1080.
5. Gudaityte J, Germaniene O, Juknyte A, Ubartiene G (2010).
The quality of postoperative epidural analgesia after upper
and lower abdominal surgery: A survey of postoperative
records: 14AP11-3. EUR J ANAESTH, Volume 27 - Issue 47 - p
220.
6. Hurley RW and Wu CL (2009). “Acute Postoperative Pain”.
In: Miller’s Anesthesia, 7th edition, Churchill Livingstone, pp.
2757 – 2776.
7. Lê Văn Chung, Nguyễn Văn Chừng (2008), “Gây tê ngoài màng
cứng và gây tê tủy sống phối hợp trong phẫu thuật chỉnh hình
chi dưới”. Y học TP Hồ Chí Minh, tập 12 (1), tr. 78 - 83.
8. Nguyễn Thị Thanh (2003), “Hiệu quả và tính an toàn của giảm
đau sau mổ bằng gây tê ngoài màng cứng”. Sinh hoạt khoa học
chuyên đề áp dụng GTNMC để giảm đau trong và sau mổ,
TP. HCM, tr. 3 – 7.
9. Nguyễn Văn Chừng (2002), “GMHS trong phẫu thuật vùng
hậu môn trực tràng”. Trong: Lê Quang Nghĩa: Bệnh trĩ, NXB Y
Học TP.HCM, tr.167-192.
10. Robert J et al (2003), “The role of Epidural Anesthesia and
Analgesia in surgical practice”, Annals Surgery, 238(5): 663-673.
11. Võ Thị Nhật Khuyên, Nguyễn Thị Ngọc Đào, Phan Tôn Ngọc
Vũ, Nguyễn Văn Chừng (2010). “Máu tụ ngoài màng cứng
sau gây tê ngoài màng cứng”. Y học TP Hồ Chí Minh, tập 14
(1), tr. 278 - 282.
Ngày nhận bài báo: 30/04/2014
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 23/05/2014
Ngày bài báo được đăng: 30/6/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_gia_hieu_qua_va_muc_do_hai_long_cua_gay_te_ngoai_mang_c.pdf