Đánh giá hoạt động phòng chống tiêu chảy cấp tại một số tỉnh thành phía Nam năm 2007

Trong khi có dịch tiêu chảy cấp xảy ra, mặc dù miền Nam chỉ phát hiện 1 vụ nhưng người dân cũng đã biết được một số thông tin xảy ra về vụ dịch (87,6%) thông qua Ti vi, báo đài, loa phóng thanh của phường xã Tuy nhiên cũng vẫn còn 12,4% hộ dân không hề biết đang có dịch chủ yếu là các hộ dân cư ngụ sâu trong đồng ruộng và chưa có điện hay hệ thống thông tin trong gia đình. Điều này cho thấy sự thiệt thòi của các hộ dân cũng như một phần nào trách nhiệm của Cán bộ y tế vẫn còn chưa đưa được thông tin đầy đủ đến với người dân. Từ nguồn thông tin về tiêu chảy cấp đa số người dân đã có nhận thức về tiêu chảy cấp là nguy hiểm có thể gây tử vong nếu không cứu chữa kịp thời (90,7 %) và từ đó có những nhận thức về biện pháp phòng ngừa tiêu chảy cấp cho bản thân và gia đình như ăn chín uống sôi, giữ vệ sinh cá nhân, không đi cầu ra kênh rạch (89,3%), cũng như ý thức rửa tay trước khi ăn, rửa tay sau khi đi vệ sinh bằng xà phòng và nước sạch của người dân cũng khá cao (>60,5%). Tuy nhiên đây cũng chỉ là kiến thức còn trên thực tế những hoạt động trên có được người dân thực hiện một cách thường xuyên không cũng khó có thể giám sát được. Chỉ có 26,8% người dân có kiến thức đúng về việc khử khuẩn môi trường trong khi đây là một kiến thức rất quan trọng có thể khi thực hiện khảo sát chưa có công bố phác đồ chính thức về xử lý và điều trị tiêu chảy cấp nên người dân cũng chưa được phổ biến những kiến thức này. Vì vậy, các cán bộ y tế cần phải đẩy mạnh hơn nữa vấn đề truyền thông để củng cố và bổ sung kiến thức thêm cho người dân về vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường trước trong và sau khi có dịch

pdf9 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 27/01/2022 | Lượt xem: 201 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá hoạt động phòng chống tiêu chảy cấp tại một số tỉnh thành phía Nam năm 2007, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 4 * 2008 Nghiên cứu Y học ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG PHÒNG CHỐNG TIÊU CHẢY CẤP TẠI MỘT SỐ TỈNH THÀNH PHÍA NAM NĂM 2007 Lê Hoàng Ninh và Cs.* TÓM TẮT Đặt vấn đề: Tiêu chảy cấp năm 2007 đã nhanh chóng xuất hiện và lan rộng ra các tỉnh thành trên cả nước đặc biệt là các tỉnh phía Bắc. Điều kiện sống mất vệ sinh trong các khu dân cư, thói quen sử dụng các loại thực phẩm không an toàn, thói quen dùng phân và chất bẩn, nguồn nước bẩn để tưới rau của các hộ nông dân sản xuất chính là những nguyên nhân gây phát tán dịch. Bên cạnh đó, năng lực phòng chống và đáp ứng dịch của cán bộ y tế cũng rất quan trọng. Vì vậy, tìm hiểu về thực trạng và hoạt động phòng chống dịch của cán bộ y tế và người dân là rất cần thiết. Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỷ lệ một số các hoạt động ứng phó đối với dịch tiêu chảy cấp của cấp tỉnh, huyện, xã và xác định tỷ lệ kiến thức và thực hành người dân về phòng chống tiêu chảy cấp. Phương pháp nghiên cứu: Cắt ngang mô tả. Đối tượng nghiên cứu: 15 cán bộ YTDP tuyến tỉnh, 15 cán bộ YTDP tuyến huyện, 15 trưởng trạm y tế tuyến xã, 746 hộ gia đình. Kết quả: Có 40% cán bộ y tế tuyến tỉnh và 6,6% cán bộ y tế tuyến xã nhận biết được ca bệnh tả, không có trạm y tế xã nào có dụng cụ lấy mẫu và chuyên chở bệnh phẩm, trên 60% đã có đội phòng chống dịch. Thiếu hệ thống báo cáo giám sát ca bệnh của hệ thống y tế tư nhân. 52,8% hộ gia đình sử dụng cầu tiêu không hợp vệ sinh; 73,2% chưa có kiến thức về Khử khuẩn môi trường khi có dịch, 10,7 % hộ chưa biết các biện phòng chống tiêu chảy cấp. Kết luận: Những kết quả thu được từ nghiên cứu sẽ cho thấy những điểm cần khắc phục trong công tác phòng chống dịch để từ đó hoạch định các chương trình hoạt động phòng chống tiêu chảy cấp lâu dài và phù hợp. ABSTRACT EVALUATION ACTIVITIES IN THE PREVENTION OF ACUTE DIARRHOEA OUTBREAK AT 15 SOUTHERN PROVINCES Le Hoang Ninh, et al. * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 - Supplement of No 4 - 2008: 128 - 134 Background: The acute diarrhoe outbreak in 2007 appeared and spread rapdily especially in many provinces of the North. People live in the bad environment sanitation, the habit of usage unsafety food, use dirty water in cultivate vesgetablesare the reasons which make the outbreak disperse. Beside that, the capacities of the heath wokers in response and prevent outbreaks are almost important. So, study about the reality and prevention outbreak of people and health workers are nessesery. Objectives: Identify percentages some activities in response diarrhoea outbreak of heath wokers at provinces, district,and commune. Identify percentages the knowlegdes and practises of people who live in there about the prevention diarrhoea outbreak. Materials and methods: A cross-sectional study was designed and conduct investigation in 15 health workers in each province , district and commune and 746 families. Results: 40% health workers at province and 6.6% health workers at commune known the definition of cholera diarrhoea case. None of communal health has the carry medical waste samples equipments. Lack of the report about the number of cases from private heath systems. 52.8 families use the insanitary lautrins. 73.2% * Viện Vệ sinh - Y tế công cộng thành phố Hồ Chí Minh Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 4 * 2008 Nghiên cứu Y học families did not know how to sterilize the environment in the outbreaks. Conclusion: The results gained from this study will show the weak points of the preventive activities for acute diarrhea. Since then long-term and appropriate programmes for preventing accute diarrhea will be developed. ĐẶT VẤN ĐỀ Tiêu chảy cấp nguy hiểm (hay còn gọi là bệnh tả) năm 2007 đã nhanh chóng xuất hiện và lan rộng ra các tỉnh thành trên cả nước đặc biệt là các tỉnh phía Bắc. Tiêu chảy cấp có những triệu chứng điển hình như: tiêu chảy liên tục có khi hàng chục lít một ngày; phân toàn nước, trắng đục như nước vo gạo... Bệnh tả do vi khuẩn hình dấu phẩy Vibrio cholerae gây ra, gây mất nước và điện giải trầm trọng, dẫn đến sốc nặng và tử vong nếu không được điều trị kịp thời(1). Bệnh tả vẫn xuất hiện thường xuyên trên thế giới, mỗi năm có 100.000-300.000 ca mắc tại 40-80 nước, khoảng 2% trong số đó tử vong. Tả từng gây các đại dịch làm chết hàng triệu người, đến nay vẫn còn xảy ra dịch ở châu Phi và một số nước châu Á. Ở Việt Nam vẫn có các trường hợp tản phát, thường vào mùa hè ở các tỉnh ven biển. Tuy nhiên, chính điều kiện sống quá mất vệ sinh trong các khu dân cư, thói quen sử dụng các loại thực phẩm không an toàn, thói quen dùng phân và chất bẩn, nguồn nước bẩn để tưới rau của các hộ nông dân sản xuất(2) chính là những nguyên nhân gây phát tán dịch một cách nhanh chóng và nghiêm trọng. Tại Việt Nam, nguy cơ dịch tái phát rất cao do mầm bệnh tả vẫn tồn tại khá lâu trong môi trường và người lành mang bệnh, nhất là tại các vùng lũ của miền Nam và trong dịp cuối năm, người dân đi lại nhiều.(4) Chính vì vậy, tìm hiểu về tình hình phòng chống dịch của người dân, về phòng chống dịch tiêu chảy cấp, khả năng ứng phó của cán bộ y tế các tuyến là hết sức quan trọng và có ý nghĩa phòng bệnh lớn lao trong cộng đồng. Mục tiêu nghiên cứu Xác định tỷ lệ các hoạt động ứng phó đối với dịch tiêu chảy cấp của cấp tỉnh, huyện, xã Xác định tỷ lệ kiến thức và thực hành người dân về phòng chống tiêu chảy cấp. ĐỐI TƯỢNG -PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thiết kế nghiên cứu Cắt ngang mô tả Địa điểm nghiên cứu 15 tỉnh thành phía Nam (TP.HCM, Đồng Nai, Bình Dương, Tây Ninh, Bà Rịa-Vũng Tàu, Long An, Tiền Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long, An Giang, Trà Vinh, Sóc Trăng, Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau). Đối tượng nghiên cứu: Cán bộ phụ trách chương trình VSATTP, phòng chống dịch tuyến tỉnh. Cán bộ phụ trách chương trình VSATTP, phòng chống dịch tuyến huyện. Trưởng trạm y tế xã. Hộ gia đình: chủ hộ. Cỡ mẫu Theo công thức ước lượng một tỷ lệ: Z21- α/2 P(1-P) N= d2 Với: Z: trị số từ phân phối chuẩn α: xác suất sai lầm loại I P: trị số mong muốn của tỷ lệ (0,5) d: độ chính xác mong muốn (0,05) Hệ số thiết kế =2 Ta có, N = 768 Phương pháp thu thập số liệu Sử dụng bộ câu hỏi thiết kế sẵn để phỏng vấn các đối tượng. Phương pháp xử lý và phân tích Sử dụng phần mềm Epidata và Stata 8.0 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 4 * 2008 Nghiên cứu Y học KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN Năng lực đối phó với dịch của cán bộ y tế Tuyến tỉnh (N=15) Tuyến huyện (N=15) Tuyến xã (N=15) Năng lực/Nguồn lực Tần suất Tần số(%) Tần suất Tần số Tần suất Tần số(%) Biết về định nghĩa ca bệnh tả 6 40,0 4 26,7 1 6,6 Có báo cáo từ hệ thống y tế tư nhân về số ca bệnh tả 2 13,3 0 0 0 0 Đội phòng chống dịch 14 93,3 10 66,6 9 60,0 Được huấn luyện lấy bệnh phẩm 12 80,0 12 80,0 2 13,3 Dụng cụ lấy và chuyên chở bệnh phẩm 15 100 8 53,3 0 0 Kế hoạch huấn luyện trước dịch 15 100 15 100 15 100 Kế hoạch truyền thông về dịch 15 100 15 100 13 86,6 Qua khảo sát 15 tỉnh và 15 huyện, xã trực thuộc cho thấy năng lực và nguồn lực phòng chống dịch của các địa phương còn yếu và thiếu nhiều trang thiết bị cần thiết và hầu như các tuyến dưới thì năng lực và nguồn lực càng mỏng. Ngay trong thời điểm khảo sát là thời điểm có dịch xảy ra nhưng tỷ lệ số cán bộ nhận biết được ca bệnh khá thấp tuyến xã chỉ có 6,6%; tuyến tỉnh cũng chỉ có 40,0%. Cán bộ y tế là bộ phận trực tiếp xử lý dịch nhưng chưa có đầy đủ kiến thức thì sẽ khó có thể đáp ứng được với dịch khi có dịch xảy ra. Hệ thống y tế tư nhân ngày càng phát triển rộng rãi về số lượng, tuy nhiên báo cáo từ hệ thống này chưa được kiểm soát và có những thông báo chính thức với y tế địa phương, ở tuyến xã và tuyến huyện không có địa phương nào nắm giữ được số liệu báo cáo từ hệ thống tư nhân về các ca bệnh, ngay tại tuyến tỉnh cũng có tỷ lệ rất thấp (13,3%). Điều này, có thể gây nên sự thiếu sót trong việc thống kê số liệu ca bệnh, ảnh hưởng đến tình hình kiểm soát dịch bệnh. Đa số các tỉnh, huyện, xã đã có đội phòng chống dịch riêng (> 60%) tuy nhiên, trang thiết bị như dụng cụ lấy và chuyên chở bệnh phẩm cho các tuyến vẫn còn rất thiếu nhất là ở tuyến xã (0%). Nếu có dịch xảy ra thì cán bộ y tế tại tuyến xã không thể tự lấy mẫu mà phải chờ tuyến trên làm chậm trễ quá trình nhận biết và xử lý dịch.Vì vậy, cần lưu ý nhiều hơn đến việc hỗ trợ thêm các dụng cụ phòng chống dịch,việc huấn luyện lấy bệnh phẩm nhất là cho các tuyến xã, huyện - nơi phải phụ trách một lượng dân cư lớn và việc huấn luyện này nên được duy trì thường xuyên. Hầu hết các tỉnh, huyện, xã đều có kế hoạch huấn luyện trước dịch và kế hoạch truyền thông, một số xã không tự lập kế hoạch riêng nhưng dựa trên kế hoạch của tỉnh để thực hiện triển khai phòng chống dịch. Hộ gia đình Nguồn nước sinh hoạt Bảng 1: Tỷ lệ hộ gia đình sử dụng các nguồn nước sinh hoạt. (Một hộ có thể dùng nhiều nguồn nước khác nhau) Nguồn nước Tỷ lệ Nước máy (n=465) 62,3% Nước giếng (n = 220) 30,5% Nước mưa (n = 111) 15,3% Nước sông (n = 78) 10,9 % Bảng 2: Tỷ lệ xử lý nước ở các hộ gia đình. Xử lý nước Nguồn nước Có Không Nước giếng (n = 220) 66,4% 33,6 % Nước mưa (n = 111) 50,5% 49,5 % Nước sông (n = 78) 85,9% 14,1% Cung cấp đủ nguồn nước sinh hoạt cho người dân luôn là yếu tố được chú ý hàng đầu của các quốc gia, tỉnh, thành phố. Nguồn nước có ý nghĩa đánh giá chất lượng sống và đặc biệt quan trọng trong mùa dịch, nhất là đối với những bệnh dịch có thể lây lan qua nguồn nước. Qua khảo sát tỷ lệ hộ gia đình sử dụng nguồn nước máy là 62,3% tập trung ở các vùng là thành phố, trung tâm thị xã, thị trấn.Kết quả này tương đương với nghiên cứu về chất lượng nước sinh Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 4 * 2008 Nghiên cứu Y học hoạt nông thôn trước đây(3). Các hộ gia đình ở xã, huyện sử dụng nguồn nước là giếng đào, giếng khoan chiếm 30,5%; nguồn nước mưa là 15,3%; nước sông là 10,9%. Qua kết quả cho thấy tỷ lệ hộ dân được sử dụng nước máy vẫn còn thấp hoặc nguồn nước máy cung cấp vẫn chưa đủ dùng, các hộ phải tận dụng cả những nguồn nước từ giếng, nước sông, nước mưa. Nếu các nguồn nước này không được xử lý cẩn thận thì có thể là tác nhân gây bệnh nếu có mầm bệnh trong nước. Tuy nhiên tỷ lệ các hộ gia đình không sử dụng nước máy không xử lý nước còn khá cao. Cụ thể là các hộ sử dụng nước giếng chỉ có 66,4% hộ có xử lý nước bằng các phương pháp như lắng lọc, các hộ sử dụng nước sông đã có ý thức xử lý nước trước khi dùng tốt, tuy nhiên vẫn còn 14,1% số hộ dùng nước sông chưa qua xử lý. Có 50,5% hộ gia đình dùng nước mưa có xử lý thêm như lắng lọc lại trước khi dùng. Bảng 3: Tỷ lệ hộ gia đình dùng dụng cụ chứa nước có nắp đậy. Nắp đậy Dụng cụ chứa nước Có Không Lu (n =294) 92,5 % 7,5 % Thùng nhựa (n = 208) 93,7 % 6,3 % Thùng inox (n =116) 98,3 % 1,7 % Khác (chủ yếu bể ximăng) (n = 44) 86,4% 13,6% Bảng 4: Tỷ lệ hộ gia đình súc rửa dụng cụ chứa nước đúng. Súc rửa Dụng cụ chứa nước Dưới 1 tuần Trên 1 tuần Lu (n = 294) 57 % 43 % Thùng nhựa (n = 208) 40,6 % 59,4 % Thùng inox ( n = 116) 24,1% 75,9 % Khác (bể ximăng) ( n = 44) 25 % 75% Qua 746 phiếu khảo sát có 89,7 % hộ gia đình có dụng cụ chứa nước các loại như: lu, thùng nhựa, thùng inox, bể ximăng.. Hầu hết các hộ đều có ý thức dùng nắp đậy các dụng cụ chứa nước để tránh ruồi muỗi, bụi bặm chỉ có bể ximăng là ít được đậy do thể tích khá lớn chiếm 13,6%. Tuy nhiên ý thức của người dân về việc súc rửa dụng cụ đúng (dưới 1 tuần) còn khá thấp đặc biệt ở các hộ dân sử dụng bể ximăng và thùng inox thì qua khảo sát cho thấy có >75% hộ súc rửa thùng không thường xuyên hoặc khi nào thấy dơ mới cọ rửa. Điều này có thể giúp cho các loại vi khuẩn có thể tồn lưu ở lâu trong nước phát triển về số lượng và gây bệnh. Vì vậy đây cũng là một kiến thức mà người dân cần được cung cấp nhất là trong mùa dịch. Nguồn nước uống Bảng 5: Tỷ lệ sử dụng nguồn nước uống. Nguồn nước uống Tỷ lệ Nước mưa 26,9% Nước giếng 15,4% Nước máy 27,2 % Nước tinh khiết ( đóng chai, bình) 36,2% Nước sông 5,7 % Bảng 6: Tỷ lệ đun sôi nước uống trước khi dùng ở các hộ gia đình. Đun sôi Nguồn nước Có Không Nước mưa (n = 200) 74 % 26 % Nước giếng (n = 115) 94,7 % 5,3 % Nước máy (n = 203) 94,5 % 5,5 % Nước tinh khiết (n = 270) 42,6 % 57,4 % Nước sông (n = 42) 95,2 % 4,8 % Nguồn nước uống của người dân là từ các nguồn như: nước mưa (26,9%), nước máy (27,2%), nước giếng (15,4%), nước uống tinh khiết đóng chai (36,2%). Đối với nước uống tinh khiết đóng chai qua ghi nhận cho thấy người dân đa số sử dụng các loại nước sản xuất tại địa phương, cơ sở sản xuất nhỏ lẻ hoặc không có nguồn gốc rõ ràng nhưng chỉ có 42,6% hộ có đun sôi nước trước khi uống. Các hộ gia đình sử dụng nước sông, nước giếng để uống cũng có ý thức tốt về việc đun sôi nước trước khi uống tuy nhiên cũng vẫn còn >5% các hộ sử dụng nước để uống trực tiếp mà không đun nấu gì thêm. Nguồn nước sông và giếng chưa được xử lý hàm chứa rất nhiều vi sinh vật là các vi sinh vật gây bệnh đường ruột nhất là ở những nơi người dân còn có thói quen đi cầu ra sông và chôn đất, chất bẩn và vi khuẩn có thể tồn lưu và phát tán nếu không được giám sát chặt chẽ. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 4 * 2008 Nghiên cứu Y học Các loại cầu tiêu Bảng 7: Loại cầu tiêu được sử dụng Loại cầu tiêu Tỷ lệ Tự hoại, dội thấm 47,2 % Chôn đất 19,7 % Cầu ao cá 20,1 % Đi ra sông 13,0 % Qua khảo sát cho thấy tỷ lệ người dân sử dụng các loại cầu tiêu hợp vệ sinh rất thấp chỉ có 47,2% tập trung ở các khu trung tâm của tỉnh hay thị xã, thị trấn. Có đến 52,8% hộ gia đình sử dụng các loại hình cầu tiêu không hợp vệ sinh như đi ra sông, chôn xuống đất hay cầu cá. Nguyên nhân phần nhiều là do thói quen, tập quán đã tồn tại của người dân sông nước, một nguyên nhân khác là do người dân không đủ tiền để xây dựng công trình phụ. Những năm gần đây tuy chính quyền đã có nhiều hỗ trợ trong việc xây dựng cầu tiêu hợp vệ sinh hoặc có nhiều khuyến cáo đến người dân trong việc xử lý phân và chất thải tuy nhiên vẫn còn là chưa đủ so với hiện trạng và thưc tế đặt ra. Đồng bằng sông Cửu Long lại là nơi kênh rạch chằng chịt, các con sông nối thông với nhau, vì vậy nếu có mầm bệnh sẽ lan ra rất nhanh chóng. Vì vậy hệ thống y tế cần phải tích cực hơn nữa trong việc tuyên truyền và vận động người dân trong việc xây dựng các loại cầu tiêu hợp vệ sinh và xử lý các loại phân và chất thải đúng cách. Điều này có ý nghĩa thiết thực to lớn trong việc góp phần phòng các bệnh lây lan qua đường tiêu hóa. Thực phẩm Bảng 8: Cách rửa trái cây,rau thông dụng Cách xử trí Nguồn gốc rau sống, trái cây Thuốc tím Nước rửa rau quả Ngâm nước muối Nước thông thường Gọt vỏ Chợ 4,9% 4,5 % 54,2 % 33,8 % 2,3 % Siêu thị 12,5% 20,8 % 43,3 % 16,6 % 16, 7 % Tự trồng 0% 16,7% 66, 7 % 16,6% 0% Nguồn rau quả trái cây được cung cấp cho người dân là mua từ chợ, siêu thị và tự trồng một số được mua từ gánh hàng rong và xe đẩy.Đa số người dân dùng nước muối để ngâm rửa rau quả trước khi sử dụng hay chế biến (> 40,0%). Bên cạnh đó còn có một số cách khác như: thuốc tím, nước rửa rau quả, gọt vỏTuy nhiên nhìn chung người dân vẫn chưa biết cách rửa rau quả đúng cách như chỉ rửa sơ bằng nước thông thường và dưới 2 lần/mỗi lần rửa. Bảng 9: Tỷ lệ hộ gia đình ăn 3 loại thực phẩm (rau sống, mắm, thức ăn đường phố) trong 1 tuần trước khi khảo sát. Loại thực phẩm ăn/1tuần. Tỷ lệ Rau sống 54 % Các loại mắm 10,8 % Thức ăn đường phố 49,8 % Khảo sát cho thấy trong 1 tuần tỷ lệ người dân sử dụng thức ăn đường phố khá cao (49,8%), tương tự với rau sống (54%) người dân cũng sử dụng khá nhiều. Tuy nhiên thức ăn đường phố lại là nhóm thức ăn nhiễm vi sinh khá cao, theo một số nghiên cứu thì tỷ lệ nhiễm các loại vi sinh của thức ăn đường phố có thể >70%. Vì vậy chính quyền và các cơ quan y tế cần phải thường xuyên giám sát không chỉ nguồn thực phẩm này mà còn cả người bán thức ăn đường phố về vệ sinh cá nhân, vệ sinh dụng cụđể góp phần đảm bảo sức khỏe cho người dân. Các loại mắm là thức ăn phổ biến của người dân miền Tây nhưng tại thời điểm khảo sát, người dân ít sử dụng có lẽ do có nguồn thông tin nhiều ca bệnh tiêu chảy cấp là do ăn mắm (10,8%). Kiến thức người dân về phòng ngừa tiêu chảy cấp Bảng 10: Kiến thức người dân về phòng ngừa tiêu chảy cấp Kiến thức Nội dung Có Không Thông tin về tiêu chảy cấp 87,6% 12,4 % Nhân thức tiêu chảy cấp là nguy hiểm 90,7 % 9,3 % Các biện phòng chống tiêu chảy cấp (ăn chín uống sôi, giữ vệ sinh cá nhân, không đi cầu ra kênh rạch) 89,3 % 10,7 % Ý thức rửa tay trước khi ăn 67,8 % 32,2 % Ý thức rửa tay sau khi đi vệ sinh bằng xà phòng và nước sạch 90,6 % 9,4 % Khử khuẩn môi trường khi có dịch (xử lý phân, nước thải của người bệnh,..) 26,8% 73,2% Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 4 * 2008 Nghiên cứu Y học Trong khi có dịch tiêu chảy cấp xảy ra, mặc dù miền Nam chỉ phát hiện 1 vụ nhưng người dân cũng đã biết được một số thông tin xảy ra về vụ dịch (87,6%) thông qua Ti vi, báo đài, loa phóng thanh của phường xã Tuy nhiên cũng vẫn còn 12,4% hộ dân không hề biết đang có dịch chủ yếu là các hộ dân cư ngụ sâu trong đồng ruộng và chưa có điện hay hệ thống thông tin trong gia đình. Điều này cho thấy sự thiệt thòi của các hộ dân cũng như một phần nào trách nhiệm của Cán bộ y tế vẫn còn chưa đưa được thông tin đầy đủ đến với người dân. Từ nguồn thông tin về tiêu chảy cấp đa số người dân đã có nhận thức về tiêu chảy cấp là nguy hiểm có thể gây tử vong nếu không cứu chữa kịp thời (90,7 %) và từ đó có những nhận thức về biện pháp phòng ngừa tiêu chảy cấp cho bản thân và gia đình như ăn chín uống sôi, giữ vệ sinh cá nhân, không đi cầu ra kênh rạch(89,3%), cũng như ý thức rửa tay trước khi ăn, rửa tay sau khi đi vệ sinh bằng xà phòng và nước sạch của người dân cũng khá cao (>60,5%). Tuy nhiên đây cũng chỉ là kiến thức còn trên thực tế những hoạt động trên có được người dân thực hiện một cách thường xuyên không cũng khó có thể giám sát được. Chỉ có 26,8% người dân có kiến thức đúng về việc khử khuẩn môi trường trong khi đây là một kiến thức rất quan trọng có thể khi thực hiện khảo sát chưa có công bố phác đồ chính thức về xử lý và điều trị tiêu chảy cấp nên người dân cũng chưa được phổ biến những kiến thức này. Vì vậy, các cán bộ y tế cần phải đẩy mạnh hơn nữa vấn đề truyền thông để củng cố và bổ sung kiến thức thêm cho người dân về vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường trước trong và sau khi có dịch. Cơ sở y tế Bảng 11 Nơi khám bệnh đầu tiên Tỷ lệ Trạm y tế 22,9 % Bệnh viện 38,1 % Phòng khám tư 32,4% Tự chữa bệnh 6,6 % Đa phần người dân sẽ lựa chọn bệnh viện, trạm y tế. là nơi đến để khám bệnh đầu tiên. Trong đó, phòng khám tư cũng chiếm một tỷ lệ không nhỏ người dân lựa chọn là nơi đến khám chữa bệnh đầu tiên khi bị bệnh. Tuy nhiên như đã nêu ở trên, tại cả 3 tuyến tỉnh, huyện, xã thì việc quản lý báo cáo về ca bệnh từ các phòng khám tư là rất thấp có khi là 0% gây khó khăn cho việc kiểm soát dịch. KẾT LUẬN Nhìn chung các hoạt động phòng chống tiêu chảy cấp của các địa phương còn nhiều thiếu sót và bất cập: Cán bộ y tế vẫn còn thiếu kiến thức và chưa được tập huấn thường xuyên trong việc nhận định ca bệnh và cách xử trí với tỷ lệ khá cao có thể ảnh hưởng đến công tác đối phó với dịch nếu dịch bùng phát. Trang thiết bị cần thiết để xử lý ổ dịch, lấy mẫu bệnh phẩm đã được trang bị nhưng còn rất thiếu đặc biệt là ở tuyến xã. (0%) Hệ thống y tế địa phương chưa phối hợp được với hệ thống y tế tư nhân trong việc thống kê báo cáo số ca bệnh. Truyền thông ở địa phương chưa đẩy mạnh tuyên truyền cho người dân cách phòng chống dịch tiêu chảy cấp. Tỷ lệ người dân sử dụng cầu tiêu không hợp vệ sinh khá cao (>50%). Người dân còn thiếu kiến thức trong việc phòng chống tiêu chảy cấp: xử lý và đun sôi nước trước khi sử dụng, súc rửa lu vại 1 tuần/lần, khử khuẩn môi trường khi có dịch, vệ sinh cá nhân KHUYẾN NGHỊ Tiếp tục củng cố hệ thống y tế dự phòng đảm bảo công tác dự báo, phòng chống, xử lý và quản lý dịch bệnh nhất là những bệnh có tính lây lan nhanh và mạnh như tiêu chảy cấp. Bộ y tế hỗ trợ thêm các loại trang thiết bị phòng chống dịch cho các tuyến huyện, xã như dụng cụ lấy mẫu và chuyên chở bệnh phẩm đồng thời Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 4 * 2008 Nghiên cứu Y học thường xuyên tập huấn công tác phòng chống dịch sẵn sàng cho các tuyến. Hệ thống y tế các cấp phối hợp với các cơ quan truyền thông hướng dẫn cho người dân các kiến thức để nhận biết tiêu chảy cấp, cách xử trí và quan trọng nhất là các phương pháp phòng chống bệnh lâu dài. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Y Tế (2007), Phác đồ chuẩn điều trị tiêu chảy cấp 2. Đại học Y Hà Nội (2004), Dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm- Ngộ độc thực phẩm do vi khuẩn, NXB Y Học. 3. Nguyễn Xuân Mai, Vũ trọng Thiện và Cs. (2006), Điều tra chất lượng nước sinh hoạt nông thôn tại các tỉnh phía Nam Tiền Giang, An Giang,Tây Ninh, Vũng Tàu, Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh , Số đặc biệt chuyên đề y tế công cộng và y học dự phòng - Tập 10, số 4. 4. ì sao bệnh tả vẫn rải rác xuất hiện ở một số tỉnh phía Bắc, Biện pháp cơ bản để dập dịch Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 4 * 2008 Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 4 * 2008 Nghiên cứu Y học

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdanh_gia_hoat_dong_phong_chong_tieu_chay_cap_tai_mot_so_tinh.pdf
Tài liệu liên quan