Đánh giá kết quả ban đầu về điều trị dự phòng đột tử bằng máy chuyển nhịp phá rung tự động cấy (ICD) tại viện tim mạch Việt Nam
Về việc lập chương trình điều trị cho máy ICD
Trong một máy chống rung chuyển nhịp
cấy, hai phương pháp cơ bản được sử dụng để kết
thúc rối loạn nhịp: Tạo nhịp chống nhịp nhanh và
sốc điện trực tiếp. Thầy thuốc lựa chọn phương
pháp để sử dụng trước tiên cho điều trị trong mỗi
vùng phát hiện nhịp nhanh. Tạo nhịp chống nhịp
nhanh là một kỹ thuật điện sinh lý học chuẩn hữu
ích để kết thúc cơn nhịp tim nhanh đơn dạng. các
nhà điện sinh lý học có thể lập trình máy để đưa
ra một hoặc nhiều kiểu tạo nhịp chống nhịp nhanh
để làm ngừng các cơn nhịp nhanh. các đặc tính
của tạo nhịp burst có thể được lập trình và có thể
thay đổi, phụ thuộc vào vùng phát hiện. Tạo nhịp
chống nhịp nhanh không gây đau cho bệnh nhân
và /bởi vì capacitor không cần nạp điện, có thể
phát nhanh. Tuy nhiên tạo nhịp chống nhịp nhanh
không phải luôn có hiệu quả, và nó có thể làm gia
tốc nhịp nhanh thất hoặc nếu được áp dụng với
nhịp nhanh trên thất, tạo ra một loạn nhịp thất. Do
đó phát sốc điện luôn được lập trình tiếp theo khi
tạo nhịp chống nhịp nhanh không hiệu quả.
Tất cả các máy chuyển nhịp chống rung có
thể được lập chương trình để phát sốc thường
là với năng lượng thấp hoặc sốc không đồng
bộ với năng lượng cao hơn. Sốc với năng lượng
thấp có thể thời gian nạp điện ngắn hơn, nhưng
đôi khi chúng có thể làm gia tốc nhịp nhanh
thất. Trong những nghiên cứu gần đây cho thấy
nếu chương trình để sốc điện trong những nhát
sốc đầu tiên, nếu đặt mức năng lượng sốc dưới
10J thì cũng cho hiệu quả tương tự như đặt ở
mức sốc từ 10J đến 20 J , do đó một số tác giả
khuyên nên để nhát sốc đầu tiên dưới 10J. Qua
theo dõi của chúng tôi trên một số bệnh nhân
đặt mức sốc trong nhát sốc đầu tiên dưới 10J cho
kết quả tốt. Nếu nhát sốc đầu tiên không thành
công thì nhát sốc tiếp theo sẽ là năng lượng tối
đa 30J. chống rung được sử dụng qua đường
tĩnh mạch có thể phát năng lượng sốc 30J đạt
được thành công cho hầu hết các trường hợp.
Đối với bệnh nhân Brugada khi gắn IcD
thì chương trình điều trị can thiệp nên để chế
độ shock mà không nên để chế độ tạo nhịp
chống nhịp nhanh , vì hội chứng Brugada
thường xuất hiện rung thất ngay.
Đối với trường hợp bị bệnh tim thiếu
máu cục bộ hoặc các rối loạn nhịp thất có
chỉ định đặt IcD mà trong hồ sơ có biểu hiện
có cơn nhịp nhanh thất hoặc trong khi theo
dõi trong chương trình của máy IcD có phát
hiện có xuất hiện nhịp nhanh thất thì trong
lập chương trình điều trị chúng tôi chọn cả
chương trình shock điện và chương trình tạo
nhịp chống nhịp nhanh. Đối với những bệnh
nhân nếu được tiên lượng có nhiều nguy cơ
xuất hiện rung thất hơn thì chúng tôi cũng
thường chỉ lập chương trình shock điện.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 2 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá kết quả ban đầu về điều trị dự phòng đột tử bằng máy chuyển nhịp phá rung tự động cấy (ICD) tại viện tim mạch Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 56 - 2010 73
Đánh Giá Kết Quả Ban Đầu Về Điều Trị Dự Phòng
Đột Tử Bằng Máy chuyển Nhịp Phá Rung Tự Động
cấy (IcD) Tại Viện Tim Mạch Việt Nam
TS. Phạm Quốc Khánh
TOÙM TAÉT
Mục tiêu nghiên cứu: Bước đầu đánh giá hiệu quả của máy điều trị chuyển nhịp chống rung tự động cấy để
dự phòng chết đột ngột do những rối loạn nhịp thất nguy hiểm.Tìm hiểu khả năng áp dụng phương pháp
điều trị này tại Việt nam. Đối tượng và phương pháp: 19 bệnh nhân được cấy IcD gồm 17 nam và 2 nữ, tuổi
trung bình 55,8 ± 12,7 năm, bệnh nhân thuộc nhóm có nguy cơ cao về đột tử như hội chứng Brugada, nhịp
nhanh thất, cuồng thất, rung thất, ngừng tim. Thời gian theo dõi từ 3 đến 96 tháng. Kết quả và bàn luận:
Trong quá trình theo dõi phát hiện có 8 bệnh nhân có can thiệp của sốc điện và 4 bệnh nhân có can thiệp của
tạo nhịp chống nhịp nhanh. các ca rối loạn nhịp thất được kết thúc bởi nhát sốc đầu tiên. Tất cả các ca gắn
máy IcD, thủ thuật được tiến hành thuận lợi, thành công và không có tai biến.
GIÔÙI THIEÄU
Mặc dù có nhiều tiến bộ trong cấp cứu nội
khoa và kỹ thuật hồi sức, chết đột ngột do ngừng
tim hãy còn là một vấn đề lớn trong sức khoẻ
cộng đồng. Hầu hết những người có ngừng tim
ngoài bệnh viện không được cứu sống. Những
người được cấp cứu hồi sức có thể có tổn thương
nặng nề trong thời gian dài và tổn thương vận
động do chậm trễ truớc khi nhịp cơ bản ổn định
được phục hồi. các số liệu nghiên cứu hiện nay
cho thấy hàng năm trên thế giới có khoảng 3
triệu người bị ngừng tim đột ngột và ngừng tim
đột ngột chiếm tới 63% những trường hợp tử
vong liên quan đến tim mạch tại Hoa Kỳ. Đây
là một trong những nguyên nhân gây tử vong
hàng đầu ở các nước đang phát triển [9,10,11].
Trong những năm 1970, có động cơ thúc đẩy
bởi cái chết của một đồng nghiệp, Dr Michel
Mirowski và Mortom Mower, và những đồng
nghiệp của họ, đã phát triển khái niệm về một
thiết bị cấy có thể tự động theo dõi và phân tích
nhịp tim và phát nhát sốc chống rung tim khi nó
phát hiện rung thất. Sau nhiều năm thử nghiệm,
vào năm 1980, ca cấy máy lâm sàng đầu tiên đã
được thực hiện cho một phụ nữ trẻ bị rung thất
tái phát. Tiếp sau đó máy chống rung chuyển
nhịp cấy (IcD) đã phát triển từ áp dụng điều trị
cuối cùng cho những bệnh nhân bị ngừng tim
tái phát sang tiêu chuẩn quản lý để sử dụng
phòng ngừa cấp một (dự phòng hiện tượng có
thể đe doạ tính mạng) và phòng ngừa cấp hai
(dự phòng tái phát những rối loạn nhịp tim có
thể gây tử vong hoặc ngừng tim) ở những bệnh
nhân bị bệnh mạch vành. IcD đã được chứng
minh là làm giảm đáng kể tỷ lệ chết đột ngột do
tim ở những bệnh nhân bị các rối loạn nhịp thất
nguy hiểm. Hiện nay ở Việt nam bệnh tim mạch
là một trong những nguyên nhân tử vong hàng
đầu, trong đó các rối loạn nhịp thất nguy hiểm
Viện Tim mạch Việt nam
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG74
là một trong những nguyên nhân chính. Do đó
việc nghiên cứu các phương pháp điều trị dự
phòng đột tử để làm giảm tỷ lệ tử vong luôn là
vấn đề thời sự. chính vì vậy mục tiêu nghiên
cứu của chúng tôi nhằm mục đích:
- Bước đầu đánh giá hiệu quả của máy
điều trị chuyển nhịp chống rung tự động cấy
để dự phòng chết đột ngột do những rối loạn
nhịp thất nguy hiểm.
- Tìm hiểu khả năng áp dụng phương
pháp điều trị này tại Việt nam.
ÑOÁI TÖÔÏNG VAØ PHÖÔNG PHAÙP NGHIEÂN CÖÙU:
Những bệnh nhân là những người trưởng
thành trên 18 tuổi, bệnh nhân thuộc nhóm có
nguy cơ cao về đột tử như hội chứng Bru-
gada, nhịp nhanh thất, cuồng thất, rung thất,
ngừng tim.
các bệnh nhân được làm đầy đủ các xét
nghiệm về máu và sinh hóa máu cơ bản, siêu
âm tim, điện tâm đồ và chụp mạch vành,
holter điện tâm đồ hoặc thăm dò điện sinh
lý tim nếu thấy cần thiết. Thủ thuật được tiến
hành tại phòng can thiệp tim mạch dưới sự
hướng dẫn của máy xquang chụp mạch số
hóa. Bệnh nhân được gắn IcD hoặc cRT-D
theo chỉ định. Máy IcD có thể của Biotronik
hoặc Medtronic, hoặc S.Jude. các bệnh nhân
được theo dõi tại Viện Tim mạch Bạch Mai,
thời gian theo dõi từ 3 đến 96 tháng. các bệnh
nhân được kiểm tra định kỳ máy IcD.
KEÁT QUAÛ NGHIEÂN CÖÙU VAØ BAØN LUAÄN
19 bệnh nhân gồm 17 nam và 2 nữ, tuổi từ
32 đến 81năm, trung bình 55,8 ± 12,7. Hai bệnh
nhân bị bệnh tim thiếu máu cục bộ và rung thất,
1 bệnh nhân bị bệnh tim thiếu máu cục bộ và
nhịp nhanh thất, 1 bệnh nhân bị bệnh cơ tim
giãn và nhịp nhanh thất, 7 bệnh nhân bị nhịp
nhanh thất, 8 bệnh nhân bị hội chứng Brugada
trong đó có 4 bệnh nhân loại type 1 và 4 bệnh
nhân loại type 2, Trong 8 bệnh nhân hội chứng
Brugada có 2 người có tiền sử gia đình có đột
tử. Trong 19 bệnh nhân có 16 bệnh nhân được
gắn IcD và có 1 bệnh nhân được thay IcD lần
2 sau 5 năm, có 3 bệnh nhân được gắn cRT-D.
Trong 19 bệnh nhân có tiền sử trên lâm sàng
có 14 bệnh nhân có tiền sử có cơn ngất chiếm
73,6%, số lượng cơn ngất từ 1 đến 8 cơn, trung
bình 2,3 ±1,9 cơn. có 10 bệnh nhân được phát
hiện có cơn ngừng tim chiếm 52,6%.
Tất cả các bệnh nhân đều được tiến hành
dưới sự hướng dẫn của máy chụp mạch số
hóa. Thời gian tiến hành thủ thuật và thời
gian chiếu tia xquang có trong bảng 1. Tất
cả các thủ thuật cấy máy đều tiến hành thành
công, không có ca nào bị thất bại.
Thời gian chiếu tia
( Phút)
Thời gian tiến hành thủ
thuật ( phút)
Bệnh nhân ( n = 19) 17,3 ± 4,8 59,7 ± 11,6
Bảng 1: Thời gian chiếu tia và thời gian tiến hành thủ thuật
Theo dõi l9 bệnh nhân từ 3 đến 96 tháng về chương trình của IcD phát hiện những biểu hiện
rối loạn nhịp thất nguy hiểm qua chương trình ghi holter trong máy IcD và các kết quả hoạt động
shock hoặc tạo nhịp chống nhịp nhanh để chuyển nhịp của máy IcD ( kết quả xem trong bảng 2).
các ca sốc điện đều kết thúc rối loạn nhịp thất bởi nhát sốc đầu tiên. có 2 ca tạo nhịp chống nhịp
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 56 - 2010 75
Hình 1: Rung thất khởi phát sau
ngoại tâm thu thất
Hình 2: ĐTĐ 12 chuyển đạo lúc nghỉ.
nhanh không hiệu quả và sau đó phải can thiệp sốc điện để kết thúc nhịp nhanh thất.Theo một số
nghiên cứu điều trị bằng IcD có khả năng giảm đáng kể tỷ lệ tử vong do rối loạn nhịp tim như
nghiên cứu MADITT làm giảm tỷ lệ tử vong do rối loan nhịp tim tới 75%, nghiên cứu MUSTT làm
giảm 76%, nghiên cứu AVID làm giảm 65%, nghiên cứu cASH làm giảm 59% [12].
Bệnh nhân (n=19)
Số lượng bệnh nhân được can
thiệp
Tổng số lần can thiệp / 1 bệnh
nhân
Shock của IcD 8 ( 42,1%) 1,6 ± 0,8 (1 – 3 )
Tạo nhịp chống nhịp
nhanh
4 (21%) ( 2 – 3 )
Minh họa bệnh án của bệnh nhân bị hội chứng Brugada
Một bệnh nhân nam giới 34 tuổi vào nhập viện tại bệnh viện Việt Tiệp Hải phòng tháng
10/4/2005 với lý do có những cơn ngất. Trong thời gian nằm điều trị tại bệnh viện tiếp tục xuất
hiện 3 lần ngất được theo dõi và phát hiện trên monitor có cơn xoắn đỉnh và rung thất ( hình 1).
Bệnh nhân đã được cấp cứu bằng sốc
điện qua thành ngực và sau đó điều trị duy
trì bằng xylocain. Trên điện tâm đồ 12 chuyển
đạo biểu hiện hội chứng Brugada điển hình
với ST chênh lên từ V1 đến V3 và có biểu hiện
kiểu dạng blốc nhánh phải (Hình 2 ).
Bệnh nhân được chuyển tiếp đến viện
Tim mạch Việt Nam để xác định chẩn đoán và
điều trị tiếp. Trong thời gian điều trị tại Viện
tim mạch, bệnh nhân lại xuất hiện một cơn
rung thất và được điêù trị bằng sốc điện qua
thành ngực. Kiểm tra Xquang tim phổi, siêu
âm tim và các xét nghiện cơ bản đều cho kết
quả bình thường. Xác minh về gia đình bệnh
nhân có một người anh ruột và một người
em ruột có hình ảnh của hội chứng Brugada
trên ĐTĐ nhưng không có triệu chứng lâm
sàng. Bệnh nhân đã được xác định chẩn đoán
là hội chứng Brugada có rối loạn nhịp thất,
tiếp tục được điều trị duy trì bằng atenolol
và xylocain và được chỉ định điều trị bằng
gắn máy chuyển nhịp chống rung tự động
(IcD). Ngày 20/4/2005 bệnh nhân được gắn
máy IcD của Medtronics thế hệ GEM kiểu
VR. Máy IcD được gắn tại vùng cơ ngực trái
, điện cực được đưa vào thất phải qua tĩnh
mạch dưới đòn trái, thử ngưỡng tạo nhịp <
1mV và biên độ điện đồ trong buồng tim 12
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG76
Hình 3a: Gây rung thất với test T-shock
Hình 3b: Shock điện của máy IcD với năng lượng
25J để xoá rung thất và phục hồi nhịp xoang
Hình 5: IcD can thiệp sốc điện kết thúc
cơn rung thất
Hình 4: Máy IcD loại GEM kiểu VR
được gắn ở vùng cơ ngực trái
Nếu không được điều trị những bệnh
nhân Brugada có triệu chứng sẽ có tiên lượng
xấu. 1/3 số bệnh nhân có cơn ngất hoặc được
hồi tỉnh sau chết đột ngột có cơn nhanh thất
đa ổ trong vòng 2 năm. Tiên lượng của những
người không có triệu chứng với hình ảnh
ĐTĐ điển hình cũng có tiên lượng xâú. Thậm
chí khi không có triệu chứng từ truớc thì 1/3
nghững người này có biểu hiện cơn nhịp
nhanh thất đa ổ đầu tiên hoặc rung thất trong
vòng 2 năm theo dõi [1].
Những số liệu này cực kỳ quan trọng để
đưa ra chiến lược điều trị cho những bệnh
nhân Brugada, bởi vì các thuốc chống loạn
nhịp tim (amiodarone và chẹn bêta) không có
khả năng bảo vệ chống chết đột ngột do tim.
Điều trị hiện có duy nhất là gắn máy IcD.
Thiết bị này đã được thừa nhận là có khả
năng điều trị rối loạn nhịp thất ở những bệnh
mm. Tiến hành thử test điện sinh lý tim cơ
bản gây được cơn rung thất và thử ngưỡng
chống rung 15J và 25J đều có khả năng phục
hồi được nhịp xoang (hình 3a, 3b và Hình 4).
Bệnh nhân được đặt ngưỡng sốc 25J. 8 ngày
sau khi cấy máy IcD tình trạng túi máy tạo
nhịp ổn định, bệnh nhân được kiểm tra lại
chương trình máy và xuất viện. Ở bệnh nhân
này chúng tôi chỉ đặt chương trình chống
rung thất với ngưỡng khởi đầu 25J. Bệnh
nhân có kèm nhịp chậm xoang, do đó hoạt
động của tạo nhịp chống nhịp chậm chiếm
gần 70 – 80%. Trong 6 năm theo dõi có 2 lần
bệnh nhân xuất hiện rung thất và đều được
can thiệp shock điện của IcD ( Hình 5). Sau 5
năm chiếc máy đầu tiên hết pin và bệnh nhân
được thay máy IcD của Biotronic loại VR lần
thứ hai.
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 56 - 2010 77
nhân Brugada. Tỷ lệ tử vong toàn bộ ở những
bệnh nhân bị hội chứng này là 0% trong vòng
theo dõi 10 năm. Tất cả những bệnh nhân có
triệu chứng nên nhận thiết bị điều trị này [1].
Về việc lập chương trình điều trị cho máy ICD
Trong một máy chống rung chuyển nhịp
cấy, hai phương pháp cơ bản được sử dụng để kết
thúc rối loạn nhịp: Tạo nhịp chống nhịp nhanh và
sốc điện trực tiếp. Thầy thuốc lựa chọn phương
pháp để sử dụng trước tiên cho điều trị trong mỗi
vùng phát hiện nhịp nhanh. Tạo nhịp chống nhịp
nhanh là một kỹ thuật điện sinh lý học chuẩn hữu
ích để kết thúc cơn nhịp tim nhanh đơn dạng. các
nhà điện sinh lý học có thể lập trình máy để đưa
ra một hoặc nhiều kiểu tạo nhịp chống nhịp nhanh
để làm ngừng các cơn nhịp nhanh. các đặc tính
của tạo nhịp burst có thể được lập trình và có thể
thay đổi, phụ thuộc vào vùng phát hiện. Tạo nhịp
chống nhịp nhanh không gây đau cho bệnh nhân
và /bởi vì capacitor không cần nạp điện, có thể
phát nhanh. Tuy nhiên tạo nhịp chống nhịp nhanh
không phải luôn có hiệu quả, và nó có thể làm gia
tốc nhịp nhanh thất hoặc nếu được áp dụng với
nhịp nhanh trên thất, tạo ra một loạn nhịp thất. Do
đó phát sốc điện luôn được lập trình tiếp theo khi
tạo nhịp chống nhịp nhanh không hiệu quả.
Tất cả các máy chuyển nhịp chống rung có
thể được lập chương trình để phát sốc thường
là với năng lượng thấp hoặc sốc không đồng
bộ với năng lượng cao hơn. Sốc với năng lượng
thấp có thể thời gian nạp điện ngắn hơn, nhưng
đôi khi chúng có thể làm gia tốc nhịp nhanh
thất. Trong những nghiên cứu gần đây cho thấy
nếu chương trình để sốc điện trong những nhát
sốc đầu tiên, nếu đặt mức năng lượng sốc dưới
10J thì cũng cho hiệu quả tương tự như đặt ở
mức sốc từ 10J đến 20 J , do đó một số tác giả
khuyên nên để nhát sốc đầu tiên dưới 10J. Qua
theo dõi của chúng tôi trên một số bệnh nhân
đặt mức sốc trong nhát sốc đầu tiên dưới 10J cho
kết quả tốt. Nếu nhát sốc đầu tiên không thành
công thì nhát sốc tiếp theo sẽ là năng lượng tối
đa 30J. chống rung được sử dụng qua đường
tĩnh mạch có thể phát năng lượng sốc 30J đạt
được thành công cho hầu hết các trường hợp.
Đối với bệnh nhân Brugada khi gắn IcD
thì chương trình điều trị can thiệp nên để chế
độ shock mà không nên để chế độ tạo nhịp
chống nhịp nhanh , vì hội chứng Brugada
thường xuất hiện rung thất ngay.
Đối với trường hợp bị bệnh tim thiếu
máu cục bộ hoặc các rối loạn nhịp thất có
chỉ định đặt IcD mà trong hồ sơ có biểu hiện
có cơn nhịp nhanh thất hoặc trong khi theo
dõi trong chương trình của máy IcD có phát
hiện có xuất hiện nhịp nhanh thất thì trong
lập chương trình điều trị chúng tôi chọn cả
chương trình shock điện và chương trình tạo
nhịp chống nhịp nhanh. Đối với những bệnh
nhân nếu được tiên lượng có nhiều nguy cơ
xuất hiện rung thất hơn thì chúng tôi cũng
thường chỉ lập chương trình shock điện.
Khả năng áp dụng phương pháp điều trị
này ở Việt Nam
Máy chuyển nhịp chống rung tự động
cấy là một phương pháp điều trị hiện đại có
khả năng phòng ngừa tốt đột tử do những rối
loạn nhịp thất nguy hiểm. Khả năng áp dụng
phương pháp điều trị này ở Việt Nam có hai
vấn đề cần quan tâm đó là đội ngũ cán bộ kỹ
thuật và khả năng chi trả của bệnh nhân. Về
đội ngũ cán bộ kỹ thuật thì hiện nay ở các
trung tâm Tim mạch lớn có thể thực hiện
được Khả năng chi trả của bệnh nhân, ở biểu
đồ 1 cho chúng ta thấy từ năm 1995 đên năm
2005 giá thành của máy IcD đã giảm đến
85% [12]. Hiện nay kinh tế trong nước ngày
càng phát triển và đời sống nhân dân ngày
càng được nâng cao, đồng thời với sự phát
triển của hệ thống bảo hiểm y tế do đó ngày
càng nhiều người dân có khả năng chi trả khi
cần được điều trị bằng IcD.
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG78
Biểu đồ 1: Giảm giá thành IcD.
KEÁT LUAÄN
- Máy chuyển nhịp chống rung tự động
có khả năng phòng ngừa tốt chống đột tử do
những rối loạn nhịp thất nguy hiểm.
- Phương pháp điều trị này hoàn toàn
có khả năng áp dụng ở Việt Nam, nhưng giai
đoạn đầu nên áp dụng ở những Trung tâm
tim mạch lớn.
Đây là một lĩnh vực điều trị còn rất mới mẻ ở
Việt Nam, do đó cần được tiếp tục nghiên cứu.
TAØI LIEÄU THAM KHAÛO
Josep Brugada, P. Brugada, R.Brugada: Bru-1.
gada syndrome- advances in cardiac electro-
physiology and arrhythmia management.
Symposium in Phuket- Thailand 11/2000.
Alan Kadish – Defi brillation in the Brugada 2.
syndrome. Journal of cardiovascular electro-
physiology.Vol 16, No 3, 2005.
Hiroshi watanabe et al: Unsuccessfull internal 3.
defi brillation in Brugada syndrome. Focus on
refractoriness and ventricular fi brillation cycle
length. Journal of cardiovascular electrophysiol-
ogy.Vol 16, No 3, 2005.
Mitsuhiro Nishizaki et al : Spontaneous T 4.
wave altenans in a patient with Brugada syn-
drome- Responses to intravenous administra-
tion of class I antiarrhythmic drug, glucose
tolerence, and atrial pacing. Journal of cardio-
vascular electrophysiology.Vol 16, No 2, 2005.
Silvia G et al: Genetic of cardiac arrhythmias. 5.
chapter 28. Braunwald’s heart disease .Else-
vier Saunder Inc. USA, 2005.
Thomas H Lee: Guidline- cardiac pacemaker 6.
and cardioverter-defi brillator. chapter 31.
Braunwald’s heart disease .Elsevier Saunder
Inc. USA, 2005.
Sandra B.D, Kenneth A.E, Andrew E.E., Sud-7.
den cardiac death: past, present àn future.
Futura Publishing company, Inc, New York,
USA,1997.
John.P.Dimarco:Implantable cardioverter-defi -8.
brillator. N Eng J Med 2003;349:1836-47.
Myerberg RJ, catellanos A. cardiac Arrest 9.
and Sudden cardiac Death. In: Braunwald
E, ed. Heart Disease: A Textbook of ; 30: 1500-
1505.cardiovascular Medicine. 5th Ed. New
York: WB Saunders. 1997: 742-779.
circulation. 2001;104:2158-2163.10.
Vreede-Swagemakers JJ et al. J Am coll car-11.
diol 1997
Moss AJ. N Engl J Med. 2002;346:877-8312.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
danh_gia_ket_qua_ban_dau_ve_dieu_tri_du_phong_dot_tu_bang_ma.pdf