Đánh giá kết quả chọn bên lấy thận ghép theo quan điểm giữ lại thận tốt hơn cho người hiến tặng theo xạ ký thận đồng vị phóng xạ

Nguyên tắc chọn thận ở người cho sống là để lại thận chức năng tốt hơn, hoàn hảo hơn cho người hiến thận, số lượng mạch máu hay bất thường mạch máu có ảnh hưởng nhưng không phải yêu tố quyết định. Hiện nay trên thế giới, người ta ưa chuộng lấy thận trái mà không quan tâm chức năng thận nào tốt hơn, vì tĩnh mạch thận phải quá ngắn gây khó khăn cho phẫu thuật viên trong cắt và ghép thận. Điều này thể hiện qua nhiều nghiên cứu như nghiên cứu của Leventhal JR(7), cắt thận 1200 TH, trong đó thận trái đến 1130 TH (94,17%), hay như Hsu JW(5) cắt thận trên 27942 TH, chủ yếu vẫn là thận trái 25387 TH (91%). Sau mổ lấy thận, người cho thận phải được theo dõi tình trạng sức khỏe liên lục, đảm bảo chức năng thận còn lại đủ để duy trì sức khỏe bình thường cho người hiến tặng. Theo nghiên cứu nhận thấy trị số huyết áp sau mổ thay đổi không có ý nghĩa thống kê (p >0,05). Trong khi đó, nghiên cứu của một số tác giả nước ngoài đều cho thấy trị số huyết áp thay đổi có ý nghĩa thống kê(1,4,8,14). Như vậy, dù NC chúng tôi chỉ thực hiện trên 30 TH, nhưng cũng phần nào cho thấy lựa chọn thận tốt hơn để lại cho người hiến hạn chế biến chứng tăng huyết áp sau lấy thận. Creatinine HT trung bình lúc xuất viện và sau 3 tháng theo dõi đều trong giới hạn bình thường. ĐLCT tính theo công thức ước đoán trong nghiên cứu này cũng như trong một số nghiên cứu trên thế giới đều đưa đến kết quả chung: chức năng thận sau lấy thận ở người cho giảm có ý nghĩa thống kê(4,9,11), nhưng lại đang có chiều hường tăng dần. 2/27 TH được làm microalbumin niệu có kết quả dương tính, cần phải được đánh giá lại bằng các phương pháp chính xác và tiếp tục theo dõi thường xuyên hơn. Chọn thận tốt hơn giữ lại cho người hiến thận không có nghĩa là thận lấy không đảm bảo được chức năng sau ghép. Kết quả theo dõi người nhận thận cho thấy thời gian chức năng thận trở về giới hạn bình thường nhanh, đa phần trong 2-3 ngày sau mổ. Có 3 TH thải ghép cấp nhưng chức năng thận lúc xuất viện cũng trở về giới hạn bình thường. Creatinine HT sau 3 tháng theo dõi không tăng lên lại mà dao động trong khoảng bình thường. Như vậy, với nguyên tắc lựa chọn thận tốt để lại cho người hiến thận thì chức năng thận sau ghép ở người nhận vẫn được đảm bảo.

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 26/01/2022 | Lượt xem: 277 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá kết quả chọn bên lấy thận ghép theo quan điểm giữ lại thận tốt hơn cho người hiến tặng theo xạ ký thận đồng vị phóng xạ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014 Chuyên Đề Thận Niệu 48 ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ CHỌN BÊN LẤY THẬN GHÉP THEO QUAN ĐIỂM GIỮ LẠI THẬN TỐT HƠN CHO NGƯỜI HIẾN TẶNG THEO XẠ KÝ THẬN ĐỒNG VỊ PHÓNG XẠ Võ Đình Bão*, Trần Ngọc Sinh** TÓM TẮT Mục tiêu: Ghép thận là phương pháp điều trị thay thế thận đang ngày càng phát triển. Tại Viêt Nam cho đến nay, hầu như nguồn hiến thận chủ yếu từ người cho sống. Trong báo cáo này, chúng tôi muốn đánh giá vai trò của xạ ký thận đồng vị phóng xạ trong đánh giá chức năng thận và chọn bên thận cắt để ghép theo quan điểm giữ lại thận tốt hơn cho người hiến, cũng như đánh giá chức năng thận sau cắt thận trên người cho thận và chức năng thận sau ghép thận trên người nhận thận. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả hàng loạt trường hợp không đối chứng. Người cho thận là người có cùng huyết thống với người nhận thận, hoặc chứng minh được động cơ cho là nhân đạo, không buôn bán thận. Tiêu chuẩn y học phải phù hợp với tiêu chuẩn cho – nhận thận của Bộ y tế (thông qua Hội Đồng Ghép Thận bệnh viện Chợ Rẫy). Thời gian nghiên cứu từ tháng 4/2012 đến tháng 4/2013. Tiêu chuẩn chọn bên thận lấy để ghép: chọn thận trái nếu 2 thận có chức năng (qua xạ ký thận đồng vị phóng xạ) bằng nhau; bên thận được chọn là thận bình thường nhưng có chức năng kém hơn so với thận còn lại; thận có bệnh lý lành tính kèm theo (sỏi nhỏ, nang). Kết quả: Đánh giá vị trí lấy thận 30 trường hợp (TH), thận trái 19/30 TH (63,3%), thận phải 11/30 TH (36,7%). Chức năng thận còn lại của người cho sau hiến thận: Creatinine – huyết thanh trung bình sau mổ 1,05 ± 0,16 mg/dL và sau 3 tháng theo dõi 1,04 ± 0,16 mg/dL. Chức năng thận ghép hoạt động tốt sau ghép: Creatinine – huyết thanh trung bình của người nhận thận lúc xuất viện 1,24 ± 0,23 mg/dL và sau 3 tháng theo dõi 1,3 ± 0,24 mg/dL, thời gian chức năng thận ghép trở về giá trị bình thường 6,55 ± 7,57 ngày. Kết luận: Chọn thận chủ yếu dựa vào đánh giá chức năng từng thận qua xạ ký thận đồng vị phóng xạ là chính, không phụ thuộc thận phải hay trái, không phụ thuộc bất thường mạch máu, từ đó để lại thận tốt hơn cho người hiến tặng. Đây là một việc làm không chỉ phục vụ cho y học mà còn mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Với tiêu chuẩn lựa chọn đó chức năng thận sau mổ ở cả người cho và người nhận vẫn hoạt động tốt. Từ khóa: Người cho sống, xạ ký thận đồng vị phóng xạ, bên lấy thận ABSTRACT EVALUATION OF THE RESULTS OBTAINED FROM NEPHRECTOMY’S SIDE SELECTION FOR THE PURPOSE OF REMAINING THE BEST FUNCTION KIDNEY FOR LIVING DONORS BY RENAL SCINTIGRAPHY Vo Dinh Bao, Tran Ngoc Sinh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - Supplement of No 4- 2014: 48 - 53 Objective: Renal transplantation is the process of replacing failure kidney by the healthy ones. In * Khoa Y ĐHYD TPHCM ** Bộ môn Tiết Niệu Học, Khoa Y ĐHYD Tác giả liên lạc: BS.Võ Đình Bão ĐT: 0982955557 Email: vodinhbaoyds@gmail.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Thận Niệu 49 Vietnam, the source of kidney is mainly from living donors. This report will evaluate the role of renal scintigraphy in function kidney’s estimation and nephrectomy’s side chosen to remain better function kidney for living donors, as well as evaluate the function kidney of living donors and recipients after operating. Methods: The methods used are case series repor. Researching time is from 2012 to 2013. The living donors who were related with recipients, or demonstrate the humanitarian motive and non paid kidney. Donors chosen by the Renal Transplantation Council of Cho Ray Hospital.The standards for choosin side of kidney to remove: choosing the left kidney in case of both kidneys are working equally (by renal scintigraphy), choosing weaker kidney if two kidneys have variance in function, choosing unhealthy kidney compare to another. Results: With in 30 cases researched, 19/30 cases choose left kidney (63.3%), 11/30 cases choose right kidney (36.7%). The remaining kidney functioned well with the average of serum creatinine after operation were 1.05 ± 0.16 mg/dL and after 3 month inspected 1.04 ± 0.16 mg/dL. The graft were functioned good with the average of serum creatinine were 1.24 ± 0.23 mg/dL and 1.3 ± 0.24 mg/dL. The function of the grafts recovers in 6.55 ± 7.57 days. Conclusion: Kidney selection is mainly based on estimation of each kidney through renal scintigraphy, not depended on kidney’s position or vessels kidney, in other to remain the healthiest for living donors. With the methods, the kidney function is still healthy for both living donors and recipients. Keyword: Living donor, Renal scintigraphy, Nephrectomy’s side ĐẶT VẤN ĐỀ Với số lượng bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối ngày càng tăng như hiện nay, cụ thể tại Mỹ, năm 2010 có 594.374 bệnh nhân(13). Và tại Việt Nam, năm 2009, có 72000 bệnh nhân. Dẫn đến hệ quả nhu cầu ghép thận ngày càng tăng lên nhanh chóng. Thế nhưng nguồn thận từ người cho chết não vẫn rất hạn chế và đưa đến giải pháp lấy thận từ người cho sống làm nguồn thay thế. Sau hiến thận, người cho sống có nguy cơ suy thận(6). Muốn điều này không xảy ra, đánh giá chức năng từng thận qua xạ ký thận đồng vị phóng xạ là cần thiết trước khi tiến hành ghép thận, từ đó hỗ trợ tích cực trong chọn lựa thận ghép từ người cho sống, là phương thức điều trị đang ngày càng phát triển tại Việt Nam. Trong nghiên cứu này, chúng tôi dựa vào chức năng từng thận ghi nhận qua xạ ký thận để chọn vị trí lấy thận ở người cho sống theo quan điểm giữ lại thận tốt hơn cho người hiến tặng và theo dõi chức năng thận người cho theo tiêu chí lựa chọn đó. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Đánh giá 30 trường hợp (TH) người cho thận từ tháng 4/2012 đến tháng 4/2013, tại Khoa tiết niệu, Bệnh viện Chợ Rẫy. Tiêu chuẩn lựa chọn Người cho thận có cùng huyết thống với người nhận, hoặc chứng minh động cơ cho là nhân đạo, không buôn bán thận và thông qua Hội Đồng Ghép Thận bệnh viện Chợ Rẫy. Chọn bên thận lấy để ghép, ưu tiên để lại thận tốt hơn cho người hiến thận: chọn thận trái nếu 2 thận có chức năng bình thường tương đương nhau; chọn thận chức năng bình thường nhưng kém hơn thận còn lại; chọn thận chức năng bình thường nhưng có bệnh lý lành tính kèm theo (sỏi nhỏ, nang). Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014 Chuyên Đề Thận Niệu 50 Phương pháp nghiên cứu Mô tả hàng loạt trường hợp không đối chứng. Nội dung nghiên cứu Đánh giá chức năng thận người cho và người nhận thận tại các thời điểm trước mổ, lúc xuất viện, 1 tháng và 3 tháng sau mổ, cụ thể là: Đo chiều cao, cân nặng người cho và nhận thận. Lấy nước tiểu 24 giờ đúng cách và tính độ thanh lọc (ĐTL) creatinine 24 giờ có hiệu chỉnh theo diện tích da (ml/phút/1,73m2 da) theo công thức: Xét nghiệm máu: lấy máu vào thời điểm đem nước tiểu 24 giờ đến phòng xét nghiệm. Lấy 3ml máu tĩnh mạch, dùng máu đông để định lượng creatinine huyết thanh (HT), thực hiện trên máy Mindray BS-800M, với thuốc thử Biolabo. Tính độ lọc cầu thận (ĐLCT) theo các công thức ước đoán Cockcroft-Gault, CKD–EPI (Chronic Kidney Disease Epidemiology Collaboration). MDRD (Modification of Diet in Renal Disease Study). Công thức Cockcroft-Gault(10): Hiệu chỉnh theo diện tích da. Công thức MDRD(10) ĐLCT ước đoán (mL/min/1.73m2) = 186×(Cr HT)-1.154 ×(tuổi)- 0.203 × 0.742 (nữ) × 1.210 (Mỹ gốc Phi). Công thức ước đoán CKD-EPI(13): Đối với nữ: Nếu creatinine HT ≤ 0,7 thì ĐLCT ước đoán =144 x (creatinine HT/0,7)-0,329 x (0,993)tuổi(x 1,159 nếu da đen). Nếu creatinine HT > 0,7 thì ĐLCT ước đoán = 144 x (creatinine HT/ 0,7) -1,209 x (0,993)tuổi (x 1,159 nếu da đen) Đối với nam: Nếu creatinine HT ≤ 0,9 thì ĐLCT ước đoán = 141 x (creatinine HT/ 0,9) -0,411 x (0,993)tuổi (x 1,159 nếu da đen) Nếu creatinine HT > 0,9 thì ĐLCT ước đoán = (creatinine HT/ 0,9) -1,209 x (0,993)tuổi (x 1,159 nếu da đen). Nguyên lí kĩ thuật xạ hình thận(12): Đo ĐLCT với dược chất phóng xạ 99mTc – DTPA bằng kĩ thuật Gates với máy đo phóng xạ Symbia Truepoint SPECT – CT tại đơn vị phóng xạ bệnh viện Chợ Rẫy. Cài đặt thông số ghi hình, pha tưới máu với ghi hình 2 giây/frame hình trong 1 phút đầu tiên. Pha hấp thu phóng xạ ở thận và thanh thải của thận với ghi hình 1 phút/frame hình trong 29 phút còn lại. Trước khi đo ĐLCT, tiến hành cân và đo chiều cao, uống nước khoảng 10 ml/kg. Đo số xung của ống tiêm trước khi tiêm 1 phút và sau khi ghi hình xong. Liều tiêm từ 3-5 mCi. Đầu dò được đặt ở vùng thận, ngay dưới lưng. Chọn hình ảnh có độ tập trung phóng xạ cao nhất vẽ một vùng quan tâm ROIs (đường viền bao quanh thận) và phông. Tính ĐLCT của từng thận theo các công thức. Đánh giá chức năng thận sau mổ ở người cho qua các chỉ số: creatinine huyết thanh, huyết áp và microalbumin niệu tại các thời điểm lúc xuất viện, 1 tháng và 3 tháng sau mổ. Đánh giá chức năng thận người nhận qua thời gian thận ghép về giới hạn bình thường, creatinine huyết thanh sau ghép và sau 3 tháng theo dõi. KẾT QUẢ Qua nghiên cứu trên 30 TH cho - nhận thận tại bệnh viện Chợ Rẫy từ tháng 4/2012 đến tháng 4/2013, kết quả cụ thể như sau: ĐTL creatinine 24 giờ = (140 –tuổi)x cân nặng (kg) 72 x creatinine HT (mg/dL) ĐTL creatinine = (UxV)/P x 1,73 Diện tích da Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Thận Niệu 51 Tuổi người cho trung bình là 48 ± 8,36 tuổi (nhỏ nhất 31 tuổi, lớn nhất 66 tuổi). Trong số những người cho thận 10/30 TH (33,33%) là nam và 20/30 TH (66,67%) là nữ. Quan hệ cho – nhận thận: chủ yếu là quan hệ ruột thịt, gồm 15/30 TH (50%) là cha mẹ ruột cho con, 8/30 TH (26,67%) anh chị em ruột cho nhau, 3/30 TH (10%) anh chi em họ cho nhau, 2/30 TH (6,67%) cô di chú bác cho cháu, 2/30 TH (6,67%) vợ cho chồng. Độ lọc cầu thận qua xạ kí thận đồng vị phóng xạ ĐLCT trung bình của thận trái và thận phải lần lượt là 46,74 ± 5,12 và 46,16 ± 3,6 ml/phút. Qua so sánh chức năng 2 thận qua xạ kí thận đồng vị phóng xạ, chức năng 2 thận tương đương chiếm tỉ lệ cao nhất 16/30 TH (53,3%), 6/30 TH (20%) chức năng thận phải tốt hơn thận trái, và ngược lại có 8/30 TH chức năng thận trái tốt hơn thận phải. Vị trí lấy thận và lý do chọn Dựa theo tiêu chuẩn chọn thận lấy ghép như trên, có 19/30 TH (63,33%) chọn thận trái và 11/30 TH (36,67%) chọn thận phải với các lý do như thận có chức năng thấp hơn, thận có sỏi, thận có nang. Bảng 1. Lý do chọn bên lấy thận Lý do chọn Thận Phải Thận Trái Tỷ lệ (%) ĐLCT thấp hơn 8 6 46,67% ĐLCT tương đương 1* 10 36,67% Thận có sỏi 2 0 6,67% Thận có nang 0 3 10% Chức năng thận người cho sau mổ Chức năng thận lúc xuất viện: creatinine HT trung bình 1,07 ± 0,18 mg/dL. ĐLCT theo công thức ước đoán MDRD và CKD – EPI lần lượt là 67 ± 9,74 và 70,6 ± 11 (ml/phút/1,73m2 da). Tất cả 30 TH người cho thận sau mổ đều đi tái khám, không có trường hợp nào tăng huyết áp, không có trường hợp nào ĐLCT trung bình theo các công thức ước đoán MDRD, CKD – EPI, Cockcroft-Gault thấp hơn 30 ml/phút và ĐLCT đang có chiều hướng tăng lên, có 2 TH có microalbumin niệu nhưng protein niệu 24 giờ âm tính, cần theo dõi thêm. Bảng 2. Chức năng thận người cho sau 3 tháng theo dõi Huyết áp (mmHg) Creatinine huyết thanh (mg/dL) Độ lọc cầu thận (ml/phút/1,73m2 da) ĐLT creatinine 24 giờ Microalbumin niệu (mg/L) Tâm thu Tâm trương MDRD CKD-EPI N 30 30 30 30 30 15 27 Trung bình 116 ± 9,68 71,3 ± 5,7 1,04 ± 0,16 68,2 ± 10,2 71,7 ± 12,2 55,9 ± 13,1 23,9 ± 53,1 Chức năng thận người nhận sau mổ Sau mổ ghép thận, chức năng thận người nhận trở về giới hạn bình thường trung bình 6,55 ± 7,57 ngày (nhanh nhất 1 ngày và chậm nhất 34 ngày do thải ghép cấp thể dịch), đa số vào ngày 2 và 3 sau mổ. Creatinine HT theo dõi trong 3 tháng sau ghép thấp hơn hẳn so với trước ghép, với giá trị trung bình lần lượt là 1,32 ± 0,25, 1,28 ± 0,27 và 1,3 ± 0,24 mg/dL. Như vậy, chức năng thận người nhận sau ghép hoạt động tốt và duy trì ổn định trong 3 tháng theo dõi. BÀN LUẬN Xạ hình xạ ký thận đồng vị phóng xạ cung cấp những thông tin hữu ích về cấu trúc và chức năng thận(2,3). Với kĩ thuật này, chức năng từng thận được đánh giá và không gây bất cứ một sang chấn nào trên bộ niệu, từ đó hỗ trợ tích cực trong chọn lựa thận ghép từ người cho sống. Trong quá trình đánh giá chức năng thận người cho trước ghép, có 5/30 TH (16,67%) chức năng Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014 Chuyên Đề Thận Niệu 52 thận theo công thức ước đoán MDRD, CKD-EPI thấp hơn 80 ml/phút/1,73m2da nhưng qua xạ ký thận đồng vị phóng xạ đều cho kết quả chức năng thận tốt. Trong 5 TH đó có 4 TH người cho trên 50 tuổi, 1 TH béo phì, chúng tôi nhận thấy ĐLCT theo các công thức trong các TH này ước đoán chức năng thận thấp hơn giá trị thật của nó, do các công thức ước đoán phụ thuộc nhiều vào tuổi, giới tính, trọng lượng cơ thể. Trong 30 TH nghiên cứu có 3 TH được làm xạ ký thận lần 3, do 2 lần đầu có kết quả không chính xác vì đây là một xét nghiệm phụ thuộc một phần vào kĩ thuật đo (cách vẽ ROIs, phần phông), một phần phụ thuộc vào chuẩn bị của người cho trước khi đo xạ ký thận (uống nước không đủ). Vì vậy, trong nghiên cứu này, các đối tượng cho thận được làm xạ ký thận đồng vị phóng xạ 2 lần trước khi quyết định thận nào tốt hơn, để phát hiện những trường hợp nghi ngờ chức năng thận qua xạ ký thận không chính xác, và chấp nhận độ chênh lệch chức năng giữa 2 thận chỉ có ý nghĩa khi giá trị đó lớn hơn 3 ml/phút. Chọn bên lấy thận tùy thuộc vào chức năng thận. Nếu 2 thận có chức năng bình thường tương đương nhau, sẽ chọn bên trái vì thận trái mổ dễ hơn do tĩnh mạch thận trái dài hơn thận phải. Thận chọn lấy có chức năng bình thường nhưng kém hơn thận đối diện. Thận có bệnh lý lành tính kèm theo được chọn cắt để ghép (sỏi nhỏ, nang đơn độc). Nguyên tắc chọn thận ở người cho sống là để lại thận chức năng tốt hơn, hoàn hảo hơn cho người hiến thận, số lượng mạch máu hay bất thường mạch máu có ảnh hưởng nhưng không phải yêu tố quyết định. Hiện nay trên thế giới, người ta ưa chuộng lấy thận trái mà không quan tâm chức năng thận nào tốt hơn, vì tĩnh mạch thận phải quá ngắn gây khó khăn cho phẫu thuật viên trong cắt và ghép thận. Điều này thể hiện qua nhiều nghiên cứu như nghiên cứu của Leventhal JR(7), cắt thận 1200 TH, trong đó thận trái đến 1130 TH (94,17%), hay như Hsu JW(5) cắt thận trên 27942 TH, chủ yếu vẫn là thận trái 25387 TH (91%). Sau mổ lấy thận, người cho thận phải được theo dõi tình trạng sức khỏe liên lục, đảm bảo chức năng thận còn lại đủ để duy trì sức khỏe bình thường cho người hiến tặng. Theo nghiên cứu nhận thấy trị số huyết áp sau mổ thay đổi không có ý nghĩa thống kê (p >0,05). Trong khi đó, nghiên cứu của một số tác giả nước ngoài đều cho thấy trị số huyết áp thay đổi có ý nghĩa thống kê(1,4,8,14). Như vậy, dù NC chúng tôi chỉ thực hiện trên 30 TH, nhưng cũng phần nào cho thấy lựa chọn thận tốt hơn để lại cho người hiến hạn chế biến chứng tăng huyết áp sau lấy thận. Creatinine HT trung bình lúc xuất viện và sau 3 tháng theo dõi đều trong giới hạn bình thường. ĐLCT tính theo công thức ước đoán trong nghiên cứu này cũng như trong một số nghiên cứu trên thế giới đều đưa đến kết quả chung: chức năng thận sau lấy thận ở người cho giảm có ý nghĩa thống kê(4,9,11), nhưng lại đang có chiều hường tăng dần. 2/27 TH được làm microalbumin niệu có kết quả dương tính, cần phải được đánh giá lại bằng các phương pháp chính xác và tiếp tục theo dõi thường xuyên hơn. Chọn thận tốt hơn giữ lại cho người hiến thận không có nghĩa là thận lấy không đảm bảo được chức năng sau ghép. Kết quả theo dõi người nhận thận cho thấy thời gian chức năng thận trở về giới hạn bình thường nhanh, đa phần trong 2-3 ngày sau mổ. Có 3 TH thải ghép cấp nhưng chức năng thận lúc xuất viện cũng trở về giới hạn bình thường. Creatinine HT sau 3 tháng theo dõi không tăng lên lại mà dao động trong khoảng bình thường. Như vậy, với nguyên tắc lựa chọn thận tốt để lại cho người hiến thận thì chức năng thận sau ghép ở người nhận vẫn được đảm bảo. KẾT LUẬN Tiêu chuẩn thận chọn lấy để ghép chỉ dựa trên tiêu chuẩn về chức năng thận là chính. Lợi ích lớn nhất của xạ ký thận đồng vị phóng xạ là đánh giá được chức năng từng thận mà không xâm lấn, nhưng phụ thuộc một phần vào kĩ thuật. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 4 * 2014 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Thận Niệu 53 Với tiêu chí lựa chọn thận ghép theo quan điểm giữ lại thận tốt hơn cho người hiến tặng thì chức năng thận sau mổ và sau ghép ở cả người cho và người nhận vẫn hoạt động tốt. Như vậy, nên để lại thận tốt hơn cho người hiến thận. Tuy nhiên cần mở rộng thêm quy mô và thời gian nghiên cứu. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Berber I, Tellioglu G, Kılıcoglu G, et al (2008), “Medical Risk Analysis of Renal Transplant Donors” Transplant Proc; 40(1):117–119. 2. Bhayani SB, MD, Siegel CL, MD (2007), “Urinary Tract Imaging: Basic Principles”, Campbell-Walsh Urology, 9th Edition, Section I, Chapter 4. 3. Brown ED, Chen MY, Wolfman NT, et al (2000), “Complications of renal transplantation: evaluation with US and radionuclide imaging”, Radiographics, RSNA; 20(3):607– 622. 4. Gossmann J, Wilhelm A, Kachel HG, et al (2005), “Long-Term Consequences of Live Kidney Donation Follow-Up in 93% of Living Kidney Donors in a Single Transplant Center”, Am J Transplant; 5(10):2417-2424. 5. Hsu JW, Reese PP, Naji A, et al (2011), “Increased early graft failure in right-sided living donor nephrectomy”, Transplant; 91(1):108 – 114. 6. Kiberd BA (2013), “Estimating the long term impact of kidney donation on life expectancy and end stage renal disease”, Transplant Res; 2(1):2. 7. Leventhal JR, Paunescu S, Baker TB, et al (2010), “A decade of minimally invasive donation: experience with more than 1200 laparoscopic donor nephrectomies at a single institution”, Clin Transplant; 24(2):169-174. 8. Mjoen G, Midtvedt K, Holme I, et al (2010), “One- and five- year follow-ups on blood pressure and renal function in kidney donors”, Transpl Int; 24(1):73-77. 9. Rowinski W, Chmura A, Włodarczyk Z, et al (2009), “Donor Evaluation and Allocation”, Transplant Pro, pp. 79 – 81. 10. Shoskes DA, McMahon AW (2007), “Renal physiology and pathophysiology”, Campbell-Walsh Urology, 9th Edition, Section VIII, Chapter 35. 11. Tent H, Rook M, Stevens LA, et al (2010), “Renal Function Equations before and after Living Kidney Donation: A Within-Individual Comparison of Performance at Different Levels of Renal Function”, Clin J Am Soc Nephrol; 5(11): 1960 – 1968. 12. Trần Thị Bích Hương (2003), “Đánh giá phương pháp thăm dò độ lọc cầu thận bằng kĩ thuật sinh hóa và đồng vị phóng xạ”, Luận án tiến sĩ y học, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh. 13. USRDS (2012), “Atlas of End-Stage Renal Disease in the United States”, Vol. 2, pp. 154-164. 14. Yazawa M, Kido R, Shibagaki Y, et al (2011), “Kidney function, albuminuria and cardiovascular risk factors in post- operative living kidney donors: a single-center, cross-sectional study”, Clin Exp Nephrol, 15(4):514-521. Ngày nhận bài báo: 18/5/2014 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 25/5/2014 Ngày bài báo được đăng: 10/7/2014

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdanh_gia_ket_qua_chon_ben_lay_than_ghep_theo_quan_diem_giu_l.pdf