Bướu lành tuyến tiền liệt được cho là một
trong những bệnh thường gặp nhất ở những
bệnh nhân nam lớn tuổi và bí tiểu cấp được xem
là một diễn tiến tự nhiên trong quá trình bệnh lí.
Bí tiểu cấp do bướu lành tuyến tiền liệt là một
mốc giai đoạn thường được sử dụng để cân
nhắc giữa việc điều trị nội khoa hay quyết định
phẫu thuật để giải quyết triệt để bế tắc đường
tiểu dưới. Tuy nhiên, không phải tất cả bệnh
nhân bí tiểu đều có bế tắc ở mức độ cần phải can
thiệp ngoại khoa ngay. Mặt khác, trên những
bệnh nhân lớn tuổi thì phẫu thuật trên tuyến
tiền liệt được xem là một phẫu thuật lớn, nhiều
nguy cơ, do đó điều trị nội khoa vẫn luôn có
một chỗ đứng nhất định và là một lựa chọn có
vai trò không nhỏ trên chiến lược điều trị ở
những bệnh nhân này.
Qua nghiên cứu này, chúng tôi nhận thấy tỉ
lệ tiểu lại được sau rút thông niệu đạo trên
những bệnh nhân bí tiểu cấp do bướu lành
tuyến tiền liệt được điều trị với alfuzosin 10mg
mỗi ngày một viên là 44,9% (31/69 bệnh nhân).
Nghiên cứu này cũng cho thấy tuổi cao là
một yếu tố tiên lượng thất bại sau TWOC, trên
70 tuổi là một yếu tố dự đoán bí tiểu lại sau rút
thông niệu đạo. Thể tích tuyến tiền liệt ít có giá
trị tiên lượng thành công so với độ nhô vào lòng
bàng quang của tuyến, IPP lớn hơn 10mm có giá
trị tiên đoán thất bại cao và IPP có sự liên hệ với
lưu lượng dòng tiểu tối đa. Do đó, có thể rút ra
kết luận rằng bệnh nhân bí tiểu cấp với IPP lớn
hơn 10 mm không nên điều trị nội khoa về lâu
dài mà nên có chỉ định phẫu thuật khi tình trạng
bệnh ổn định. Thể tích nước tiểu tồn lưu không
có giá trị nhiều trong tiên đoán kết quả điều trị.
Tuy nhiên, với trị số PVR < 50 ml là một lựa
chọn điều trị nội khoa an toàn. Qmax thấp là
yếu tố dự đoán thất bại khi điều trị nội khoa,
Qmax thấp còn là yếu tố dự đoán bí tiểu và bí
tiểu lại. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy
Qmax thấp hơn 8ml/s có ý nghĩa tiên đoán bí
tiểu lại trên những bệnh nhân đã bí tiểu một lần.
Và do đó, trên những bệnh nhân tiểu lại được
sau rút thông niệu đạo, nếu lưu lượng dòng tiểu
tối đa khi đo được ở trong giới hạn có bế tắc thì
nên cân nhắc việc điều trị phẫu thuật hơn là tiếp
tục điều trị nội khoa, alfuzosin không phải là
một phương thức để trì hoãn lâu dài hay thay
thế hoàn toàn các phương thức phẫu thuật.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 27/01/2022 | Lượt xem: 269 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá kết quả điều trị nội khoa bí tiểu cấp do bướu lành tuyến tiền liệt, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011
Chuyên Đề Thận Niệu 136
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ NỘI KHOA BÍ TIỂU CẤP
DO BƯỚU LÀNH TUYẾN TIỀN LIỆT
Lương Minh Tùng*, Nguyễn Tuấn Vinh*, Đào Quang Oánh*, Lê Sỹ Hùng*, Ngô Đại Hải*,
Nguyễn Tế Kha*, Phan Trường Bảo*, Vũ Đức Hợp*, Trần Thượng Phong*, Ngô Thanh Mai*,
Võ Phúc Ngân*, Châu Minh Duy*,Lê Văn Hiếu Nhân*, Đỗ Anh Toàn*, Trà Anh Duy*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá kết quả điều trị nội khoa bí tiểu cấp do bướu lành tuyến tiền liệt
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Đây là nghiên cứu tiến cứu mô tả hàng loạt ca có can thiệp lâm
sàng. Chúng tôi sử dụng alfuzosin ở những bệnh nhân nam khi đến phòng khám của bệnh viện Bình Dân với
triệu chứng bí tiểu cấp lần đầu tiên do bướu lành tuyến tiền liệt và rút thông niệu đạo sau 3 ngày, đánh giá hiệu
quả điều trị sau 1 tháng và 3 tháng.
Kết quả: Tỉ lệ tiểu lại được sau rút thông niệu đạo là 44,9% (31/69 bệnh nhân). Tỉ lệ bí tiểu lại sau khi điều
trị thành công thử nghiệm rút thông niệu (TWOC+) là 22,5% (7/31 bệnh nhân) và tỉ lệ tiểu lại được sau bí tiểu
lần hai chỉ là 28,5% (2/7 bệnh nhân). Kết quả sau 3 tháng, Điểm số IPSS trung bình cải thiện 27,6%. Điểm số
QoL trung bình cải thiện 33%. PVR trung bình giảm 14,7% so với ban đầu. Trung bình Qmax cải thiện tăng
16% so với ban đầu.
Kết luận: Bí tiểu cấp lần đầu tiên có liên quan đến bướu lành tuyến tiền liệt chưa phải là một chỉ định cần
can thiệp phẫu thuật ngay. Điều trị nội khoa với alfuzosin làm cải thiện tình trạng đi tiểu, cải thiện triệu chứng
nhanh chóng và thay đổi điểm số chất lượng cuộc sống, làm tăng lưu lượng dòng tiểu tối đa, giảm thể tích nước
tiểu tồn lưu.
Từ khóa: bí tiểu cấp, bướu lành tuyến tiền liệt.
ABSTRACT
EVALUATE THE RESULTS OF MEDICAL THERAPY FOR ACUTE URINARY RETENTION
BY BENIGN PROSTATIC HYPERPLASIA
Luong Minh Tung, Nguyen Tuan Vinh, Dao Quang Oanh, Le Sy Hung, Ngo Dai Hai, Nguyen Te
Kha, Phan Truong Bao, Vu Duc Hop, Tran Thuong Phong, Ngo Thanh Mai, Vo Phuc Ngan,
Chau Minh Duy, Le Van Hieu Nhan, Do Anh Toan, Tra Anh Duy
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 3 - 2011: 136 - 141
Background and purpose: in order to evaluate the results of medical therapy for acute urinary retention
(AUR) by benign prostatic hyperplasia (BPH).
Patients and methods: This is the cases series prospective descriptive study. We used alfuzosin in male
patients when they hospitalized to Binh Dan hospital with the 1st AUR by BPH, and Trial without catheter
(TWOC) after 3 days.
Results: TWOC+ was 44.9% (31/69 patients). 2nd AUR after TWOC+ was 22.5% (7/31 patients) and
TWOC+ after 2nd AUR was 28.5% (2/7 patients). After 3 months, improvements of IPSS and QoL were 27.6%
* Khoa Niệu, bệnh viện Bình Dân
Tác giả liên lạc: Bs. Lương Minh Tùng ĐT: 0902802068 Email: lmtung11@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận Niệu 137
and 33%. The reduction of PVR was 14.7%. Qmax increased 16%.
Conclusion: the 1st AUR related to BPH is not an indication for surgical intervention immediately. The
medical therapy with alfuzosin improves the condition of urination, quick improvement of symptoms and changes
QoL, increased the Qmax, reduced PVR.
Key words: acute urinary retention (AUR), benign prostatic hyperplasia (BPH).
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bướu lành tuyến tiền liệt là một bệnh lý khá
phổ biến ở nam giới. Bướu bắt đầu xuất hiện ở
tuổi 40 và tăng nhanh theo tuổi để đạt tỉ lệ 90%
ở những người trên 80 tuổi. Bệnh có xu hướng
tăng lên cùng với tuổi thọ và trở thành bướu
lành thường gặp nhất ở nam giới.
Các phương pháp điều trị bướu lành tuyến
tiền liệt thay đổi tùy theo mức độ bế tắc dòng ra
và mức độ ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống
của bệnh nhân, bao gồm: chờ đợi và theo dõi,
thuốc ức chế men 5α reductase, thuốc khóa thụ
thể 5 alpha adrenergic và phẫu thuật.
Bí tiểu cấp có thể do nhiều nguyên nhân
khác nhau, trong đó bí tiểu cấp nguyên nhân do
bướu lành tuyến tiền liệt đã được chứng minh là
đáp ứng tốt với điều trị nội khoa. Có một tỉ lệ
đáng kể bệnh nhân tiểu lại được sau điều trị nội
khoa. Một số trong những bệnh nhân này có lưu
lượng dòng tiểu vẫn còn trong giới hạn nghi
ngờ hoặc không có tắc nghẽn, có thể đáp ứng
với điều trị nội khoa về lâu dài, do đó phẫu
thuật trên những trường hợp này có thể xem
như là quá chỉ định.
Từ sự bức thiết trên chúng tôi tiến hành
nghiên cứu đánh giá hiệu quả điều trị nội khoa
bí tiểu cấp do bướu lành tuyến tiền liệt với các
mục nghiên cứu như sau:
- Xác định tỉ lệ tiểu lại được sau rút thông
niệu đạo qua đợt điều trị.
- Xác định các yếu tố tiên đoán bí tiểu lại sau
rút thông niệu đạo.
- Đánh giá hiệu quả điều trị của alfuzosin
lên sự thay đổi triệu chứng lâm sàng và cận lâm
sàng của những bệnh nhân tiểu lại được sau rút
thông niệu đạo qua thời gian điều trị.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Tiền cứu mô tả hàng loạt ca có can thiệp lâm
sàng.
Đối tượng nghiên cứu
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Bệnh nhân nam trên 40 tuổi bị bí tiểu cấp lần
đầu tiên do bướu lành tuyến tiền liệt.
Tiêu chuẩn loại trừ
Bí tiểu do sỏi kẹt niệu đạo trên bệnh nhân
bướu lành tuyến tiền liệt.
Đặt thông niệu đạo ra lượng nước tiểu >
800ml
Nghi ngờ hoặc đã được chẩn đoán và điều
trị hẹp niệu đạo, hoặc không thể đặt thông niệu
đạo được.
Đã từng xạ trị vùng chậu trước đây hoặc đã
từng phẫu thuật ở đường tiểu dưới.
Nghi ngờ hoặc đã được chẩn đoán ung thư
tuyến tiền liệt.
Tiền sử hạ huyết áp tư thế hoặc cơn thoáng
thiếu máu não.
Đang sử dụng các loại thuốc có thể ảnh
hưởng đến dòng tiểu.
Có chỉ định tuyệt đối của can thiệp ngoại
khoa do bế tắc:
Bí tiểu tái lại nhiều lần
Sỏi bàng quang
Nhiễm khuẩn niệu nhiều lần
Tiểu máu do bướu lành tuyến tiền liệt không
đáp ứng với điều trị
Suy thận hoặc có bằng chứng tổn thương
đường tiết niệu trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011
Chuyên Đề Thận Niệu 138
Cỡ mẫu
Vì đây là nghiên cứu mô tả hàng loạt ca
không có nhóm chứng nên mẫu số càng lớn
càng có giá trị.
Phương pháp nghiên cứu
Bệnh nhân nam trên 40 tuổi khi đến phòng
khám của Bệnh viện Bình Dân với triệu chứng bí
tiểu cấp lần đầu tiên do bướu lành tuyến tiền
liệt, không mang những tiêu chuẩn loại trừ ở
trên sẽ được giải thích về quy trình nghiên cứu,
nếu bệnh nhân đồng ý tham gia nghiên cứu sẽ
đưa vào mẫu nghiên cứu.
Sau khi chẩn đoán bí tiểu và đặt thông niệu
đạo giải áp cho bệnh nhân, chúng tôi cho toa
thuốc về với một loại thuốc alpha blocker, trong
nghiên cứu này chúng tôi sử dụng alfuzosin, có
kèm theo kháng sinh điều trị bằng đường uống
và hẹn bệnh nhân tái khám sau 3 ngày rút thông
niệu đạo.
Tiêu chuẩn chẩn đoán điều trị TWOC
thành công
Bệnh nhân sau khi rút thông niệu đạo tiểu
lại được thành dòng và không cần phải đặt
thông niệu đạo lại trong vòng 24h được xem
như điều trị thành công.
Nếu bí tiểu lại, bệnh nhân sẽ được đặt lại
thông niệu đạo để giải áp và được làm các xét
nghiệm như PSA máu, siêu âm bụng đánh giá
kích thước tuyến tiền liệt và độ nhô vào lòng
bàng quang của tuyến tiền liệt và các xét nghiệm
tiền phẫu khác để chuẩn bị phẫu thuật sau đó.
Nếu bệnh nhân tiểu lại được, thực hiện các
xét nghiệm:
PSA
Siêu âm bụng
Niệu dòng đồ
TPTNT
Bệnh nhân sẽ tiếp tục điều trị với alfuzosin
10mg, được hẹn tái khám và lấy số liệu ở thời
điểm 1 tháng và 3 tháng sau bí tiểu.
Trong quá trình điều trị nếu bí tiểu lại,
bệnh nhân sẽ được đặt thông niệu đạo lại và
thực hiện lại qui trình như trên, nếu bí tiểu
tiếp tục sẽ được chuẩn bị để phẫu thuật, nếu
bệnh nhân tiểu lại được sẽ tiếp tục quá trình
điều trị và theo dõi.
KẾT QUẢ
Trong thời gian từ đầu tháng 10/2009 đến
cuối tháng 5/2010 chúng tôi đã lựa chọn được 76
bệnh nhân tham gia nghiên cứu, tuy nhiên với
thời gian theo dõi đến tháng 7/2010 chúng tôi
chỉ tái khám, theo dõi và lựa chọn được 69 bệnh
nhân vào kết quả nghiên cứu này (90%). Có 38
bệnh nhân không đi tiểu được ngay sau rút
thông niệu đạo (51,1%) được thực hiện TURP và
31 bệnh nhân tiểu được sau rút thông niệu đạo
(44,9%) và trong nhóm điều trị thành công có 7
bệnh nhân bí tiểu lại lần 2, được đặt thông niệu
đạo tiếp tục, trong số 7 bệnh nhân này chỉ có 2
bệnh nhân đi tiểu lại được sau rút thông niệu
đạo (28,5%). Các bệnh nhân bị loại khỏi lô
nghiên cứu gồm 2 bệnh nhân có kết quả giải
phẫu bệnh carcinoma tuyến tiền liệt và 5 bệnh
nhân không tái khám.
Biểu đồ 1: Sự phân bố các trường hợp theo kết quả
điều trị
Tuổi bệnh nhân
Tuổi trung bình là 70,04 ± 7,97, nhỏ nhất là
53 tuổi và lớn nhất là 85 tuổi. Trong nhóm bệnh
nhân điều trị TWOC+, tuổi trung bình là 66 ±
6,9, đa số bệnh nhân ở độ tuổi ≤ 70 tuổi (80,7%).
Trong nhóm nhân điều trị TWOC-, tuổi trung
bình là 73,3 ± 7,3, đa số bệnh nhân ở độ tuổi ≥ 70
tuổi (73,6%). Sự khác biệt về trung bình tuổi
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận Niệu 139
giữa 2 nhóm điều trị có ý nghĩa thống kê
(p=0<0,05).
Thời gian bệnh
Trong 69 trường hợp, thời gian khó tiểu
trung bình là 24,57 ± 14,5 tháng. Đối với nhóm
TWOC+, thời gian khó tiểu trung bình là 18,58 ±
6,4 tháng, gần nhất là 6 tháng và lâu nhất là 36
tháng, đa số các trường hợp ≤ 24 tháng (96,8%).
Đối với nhóm TWOC-, thời gian khó tiểu trung
bình là 29,45 ± 17,4 tháng, gần nhất là 12 tháng
và lâu nhất là 72 tháng, đa số các trường hợp >12
tháng (76,3%). Sự khác biệt về thời gian tiểu khó
của hai nhóm có ý nghĩa về mặt thống kê
(p=0,02<0,05).
Biểu đồ 2: Sự phân bố các trường hợp điều trị theo
phân độ IPSS
Thang điểm chất lượng cuộc sống (QoL)
Trong mẫu nghiên cứu của chúng tôi, điểm
chất lượng cuộc sống trung bình là 4,32 ± 0,83
điểm. Đối với nhóm điều trị TWOC+, điểm
trung bình là 4,06 ± 0,68 điểm, nhỏ nhất là 3
điểm và lớn nhất là 5 điểm. Đối với nhóm điều
trị TWOC-, điểm trung bình là 4,53 ± 0,89 điểm,
nhỏ nhất là 3 và lớn nhất là 6 điểm. Trung bình
điểm chất lượng cuộc sống của hai nhóm có sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê (p=0,02<0,05).
Trị số PSA
Trong 69 trường hợp nghiên cứu giá trị PSA
thấp nhất là 0,37 ng/mL và cao nhất là 29,9
ng/mL, trung bình là 6,91 ± 6,07 ng/mL. Đối với
nhóm TWOC+, PSA trung bình là 5,53 ± 3,08
ng/mL. Đối với nhóm TWOC-, PSA trung bình
là 8,02 ± 7,56 ng/mL. PSA trung bình của nhóm
TWOC+ nhỏ hơn nhóm TWOC-, tuy nhiên
không có ý nghĩa về mặt thống kê (p=0,09>0,05).
Kiểm tra sự tương quan giữa kích thước
tuyến tiền liệt và PSA tại thời điểm nhập viện
không thấy có mối liên hệ (p = 0,22 > 0,05).
Độ nhô vào lòng bàng quang (IPP)
Trong 69 trường hợp, trung bình độ nhô
tuyến tiền liệt vào lòng bàng quang tại thời
điểm nhập viện trên siêu âm là 9,9 ± 5,4 mm.
Trong nhóm TWOC+, trung bình độ nhô tuyến
tiền liệt vào lòng bàng quang là 7,9 ± 3,4 mm,
nhỏ nhất là 2 mm và lớn nhất là 16 mm, đa số
các trường hợp nằm trong độ 1 và độ 2 (74,2%).
Trong nhóm TWOC-, trung bình độ nhô tuyến
tiền liệt vào lòng bàng quang là 11,6 ± 6.1 mm,
nhỏ nhất là 0 mm và lớn nhất là 25 mm, đa số
các trường hợp nằm trong độ 3 (63,1%). IPP
trong nhóm TWOC+ thấp hơn có ý nghĩa thống
kê (p= 0,005<0,05).
Bảng 1: Phân bố tuổi theo độ nhô tuyến tiền liệt vào
bàng quang
Độ I Độ II Độ III IPP
n = 7 n = 27 n = 35
tuổi trung bình
(năm) 73,6 ± 16,6 66,8 ± 14,9 71,8 ± 15,2
Khi kiểm tra mối tương quan giữa tuổi và
IPP, với phép kiểm chi bình phương, hệ số
Pearson = 0,24 (r2 =0,05) p = 0.04<0,05 chứng tỏ
có mối liên hệ giữa tuổi với độ nhô vào lòng
bàng quang, tuy nhiên sự tương quan ở mức
độ rất thấp.
Bảng 2: Phân bố điểm số IPSS theo độ nhô
Độ I Độ II Độ III IPP
n = 7 n = 27 n = 35
IPSS trung bình 17,8 ± 10 16,4 ± 9,8 22,5 ± 10,4
Khi kiểm tra mối tương quan giữa IPP và
IPSS, với phép kiểm chi bình phương, hệ số
Pearson = 0,45 (r2 =0,2) chứng tỏ có mối liên hệ ở
mức độ trung bình giữa điểm số IPSS với độ
nhô vào lòng bàng quang.
Bảng 3: Phân bố thể tích tuyến tiền liệt theo độ nhô.
Độ I Độ II Độ III IPP
n = 7 n = 27 n = 35
kích thước TTL (ml) 56,2 ± 30,8 48,2 ± 16,2 61,9 ± 25,8
Về tương quan giữa VTTL và IPP, với phép
kiểm chi bình phương, hệ số Pearson = 0,26 (r2
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011
Chuyên Đề Thận Niệu 140
=0,06), p = 0,03<0,05 chứng tỏ có mối liên hệ giữa
thể tích tuyến tiền liệt với độ nhô vào lòng bàng
quang, tuy nhiên sự tương quan cũng ở mức độ
rất thấp.
Đối với tương quan giữa VTTL và PVR, hệ
số Pearson = 0,22, p =0,23>0,05 chứng tỏ không
có mối liên hệ giữa kích thước tuyến tiền liệt với
thể tích nước tiểu tồn lưu.
Bảng 4: Phân bố thể tích nước tiểu tồn lưu theo độ
nhô
Độ I Độ II Độ III IPP
n = 2 n = 21 n = 8
Trung bình PVR (ml) 2,5 ± 3,5 40,2 ± 20,1 64 ± 16,1
Thể tích nước tiểu tồn lưu (PVR)
Về mối tương quan giữa PVR và Qmax, với
phép kiểm chi bình phương hệ số Pearson = -
0,5(r2=0,25), p = 0,004<0,05 chứng tỏ có mối
tương quan nghịch ở mức độ trung bình giữa
thể tích nước tiểu tồn lưu với lưu lượng dòng
tiểu tối đa.
Bảng 5: Phân bố lưu lượng dòng tiểu tối đa theo độ
nhô.
Độ I Độ II Độ III IPP
n = 2 n = 21 n = 8
Trung bình qmax (ml/s) 13,9 ± 3,2 8,7 ± 5,3 7,5 ± 3,6
BÀN LUẬN
Bướu lành tuyến tiền liệt được cho là một
trong những bệnh thường gặp nhất ở những
bệnh nhân nam lớn tuổi và bí tiểu cấp được xem
là một diễn tiến tự nhiên trong quá trình bệnh lí.
Bí tiểu cấp do bướu lành tuyến tiền liệt là một
mốc giai đoạn thường được sử dụng để cân
nhắc giữa việc điều trị nội khoa hay quyết định
phẫu thuật để giải quyết triệt để bế tắc đường
tiểu dưới. Tuy nhiên, không phải tất cả bệnh
nhân bí tiểu đều có bế tắc ở mức độ cần phải can
thiệp ngoại khoa ngay. Mặt khác, trên những
bệnh nhân lớn tuổi thì phẫu thuật trên tuyến
tiền liệt được xem là một phẫu thuật lớn, nhiều
nguy cơ, do đó điều trị nội khoa vẫn luôn có
một chỗ đứng nhất định và là một lựa chọn có
vai trò không nhỏ trên chiến lược điều trị ở
những bệnh nhân này.
Qua nghiên cứu này, chúng tôi nhận thấy tỉ
lệ tiểu lại được sau rút thông niệu đạo trên
những bệnh nhân bí tiểu cấp do bướu lành
tuyến tiền liệt được điều trị với alfuzosin 10mg
mỗi ngày một viên là 44,9% (31/69 bệnh nhân).
Nghiên cứu này cũng cho thấy tuổi cao là
một yếu tố tiên lượng thất bại sau TWOC, trên
70 tuổi là một yếu tố dự đoán bí tiểu lại sau rút
thông niệu đạo. Thể tích tuyến tiền liệt ít có giá
trị tiên lượng thành công so với độ nhô vào lòng
bàng quang của tuyến, IPP lớn hơn 10mm có giá
trị tiên đoán thất bại cao và IPP có sự liên hệ với
lưu lượng dòng tiểu tối đa. Do đó, có thể rút ra
kết luận rằng bệnh nhân bí tiểu cấp với IPP lớn
hơn 10 mm không nên điều trị nội khoa về lâu
dài mà nên có chỉ định phẫu thuật khi tình trạng
bệnh ổn định. Thể tích nước tiểu tồn lưu không
có giá trị nhiều trong tiên đoán kết quả điều trị.
Tuy nhiên, với trị số PVR < 50 ml là một lựa
chọn điều trị nội khoa an toàn. Qmax thấp là
yếu tố dự đoán thất bại khi điều trị nội khoa,
Qmax thấp còn là yếu tố dự đoán bí tiểu và bí
tiểu lại. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy
Qmax thấp hơn 8ml/s có ý nghĩa tiên đoán bí
tiểu lại trên những bệnh nhân đã bí tiểu một lần.
Và do đó, trên những bệnh nhân tiểu lại được
sau rút thông niệu đạo, nếu lưu lượng dòng tiểu
tối đa khi đo được ở trong giới hạn có bế tắc thì
nên cân nhắc việc điều trị phẫu thuật hơn là tiếp
tục điều trị nội khoa, alfuzosin không phải là
một phương thức để trì hoãn lâu dài hay thay
thế hoàn toàn các phương thức phẫu thuật.
Nghiên cứu này cho thấy tỉ lệ bí tiểu lại sau
khi điều trị TWOC+ là 22,5% (7/31 bệnh nhân) và
tỉ lệ tiểu lại được sau bí tiểu lần hai chỉ là 28,5%
(2/7 bệnh nhân).
Qua 3 tháng điều trị và theo dõi chúng tôi
nhận thấy hiệu quả của alfuzosin 10mg tác động
lên các triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng
của bệnh bướu lành tuyến tiền liệt như sau:
Điểm số IPSS trung bình cải thiện 27,6%.
Điểm số QoL trung bình cải thiện 33%.
Kích thước tuyến tiền liệt và độ nhô vào
lòng bàng quang của tuyến thay đổi không có ý
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận Niệu 141
nghĩa thống kê theo thời gian điều trị. PVR
trung bình giảm 14,7% so với ban đầu. Trung
bình Qmax cải thiện tăng 16% so với ban đầu.
Các tiến bộ trong phẫu thuật cũng như lĩnh
vực nội khoa làm cho việc điều trị ngày càng có
nhiều lựa chọn hơn, phẫu thuật là một phương
thức điều trị triệt để. Tuy nhiên, không phải tất
cả bệnh nhân bí tiểu đều cần phải phẫu thuật
ngay, điều trị nội khoa trước để sau đó tiến
hành TURP trên một bệnh nhân không mang
thông niệu đạo được cho là có lợi nhất và trong
quá trình điều trị nội khoa chúng ta có thể sàng
lọc ra một số bệnh nhân chưa thực sự cần đến
phẫu thuật mà chỉ cần điều trị nội khoa là đủ.
KẾT LUẬN
Tóm lại, bí tiểu cấp lần đầu tiên có liên quan
đến bướu lành tuyến tiền liệt chưa phải là một
chỉ định cần can thiệp phẫu thuật ngay, kết quả
nghiên cứu trong 3 tháng cho thấy có đến 37,6%
(26/69 bệnh nhân) tránh khỏi một cuộc phẫu
thuật chưa cần thiết nếu chúng ta chỉ định
TURP khi có bí tiểu cấp do bướu tuyến tiền liệt.
Điều trị nội khoa với alfuzosin sau đó còn làm
cải thiện tình trạng đi tiểu, cải thiện triệu chứng
nhanh chóng và thay đổi điểm số chất lượng
cuộc sống, làm tăng lưu lượng dòng tiểu tối đa,
giảm thể tích nước tiểu tồn lưu.
Tuy nhiên, do thời gian nghiên cứu của
chúng tôi tương đối ngắn nên chưa đánh giá
được hiệu quả điều trị về lâu dài. Nhiều nghiên
cứu cho rằng không có lợi khi điều trị lâu dài
với alfuzosin. Do đó, trên những bệnh nhân đã
bí tiểu một lần thì nên được theo dõi sát để cân
nhắc lợi ích giữa điều trị nội khoa tiếp tục và các
phương thức điều trị phẫu thuật.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Abrams P., Griffiths D.J (1979). The assessment of prostatic
obstruction from urodynamic measurements and from residual
urine, BJU, vol 51, pp. 129-134.
2. AUA guideline on management of benignprostatic hyperplasia
(2003). Chapter 1: Diagnosis and treatment recommendations. J
Urol, vol 170, pp. 530-547.
3. Averbeck MA, Almeida, Gilberto L, Mastalir. (2008). Evaluation
of Bladder Wall Thickness, Post-Void Residual Volume, Prostate
Volume and International Prostate Symptom Score (IPSS) of
Patients Undergoing Transrectal Ultrasound. UroToday Int J.
vol 1(0).
4. Başar MM, Atan A, Ozergin O, Yildiz M. (2001). The efficacy of
alfuzosin treatment in patients with prostatism, Int Urol
Nephrol. Vol 33(3), pp. 493-497.
5. Caine M, Pfau A, Perlberg S (1976). The use of alpha-adrenergic
blockers in benign prostatic obstruction. Br J Urol, vol 48, pp.
255–263.
6. Cambio AJ, Evans CP (2007). Outcomes and quality of life issues
in the pharmacological management of benign prostatic
hyperplasia (BPH). Ther Clin Risk Manag., vol 3(1), pp. 181-196.
7. De la Rosette J. et al (2002). Guideline on benign prostatic
hyperplasia, European Association of Urology.
8. De Nunzio C, Franco G, Leonardo C, Trucchi A, Tubaro A,
Laurenti C. (2005). Effect of once-daily alfuzosin on urinary
symptoms and flow rate in benign prostatic hyperplasia: a 24-
hour home-uroflowmetry evaluation. Clin Drug Investig. Vol
25(6), pp. 359-365.
9. Djavan B, Chapple C, Milani S, Marberger M. (2004). State of the
art on the efficacy and tolerability of alpha-1-adrenoceptor
antagonists in patients with lower urinary tract symptoms
suggestive of benign prostatic hyperplasia. Urology, vol 64, pp.
1081-1088.
10. Emberton M, Elhilali M, Matzkin H, Harving N, van Moorselaar
J, Hartung R, Alcaraz A, Vallancien G; Alf-One Study Group.
(2005). Symptom deterioration during treatment and history of
AUR are the strongest predictors for AUR and BPH-related
surgery in men with LUTS treated with alfuzosin 10 mg once
daily. Urology. Vol 66(2), pp. 316-322.
11. Emberton, M. and Fitzpatrick, J. M. (2008). The Reten-World
survey of the management of acute urinary retention:
preliminary results. BJU International, vol 101, pp. 27–32.
12. Kirby R., Lepor H. (2007). Evaluation and nonsurgical
management of benign prostatic hyperplasia, Campbell Walsh's
Urology, Saunders Company, Philadelphia, 9th edition, pp. 2766
- 2802.
13. Ngô Gia Hy (1983). Sinh lý bọng đái, Niệu học, Nxb Y học, tập 3,
tr. 83-107.
14. Nguyễn Đạo Thuấn (2008). Vai trò phép đo áp lực niệu dòng
trong tiên đoán kết quả cắt đốt nội soi bướu lành tuyến tiền liệt,
Luận văn thạc sĩ, Đại học Y Dược TP.HCM.
15. Phạm Hữu Đoàn (2008). Mối liên quan giữa độ nhô vào lòng
bàng quang của bướu lành tuyến tiền liệt và sự bế tắc dòng tiểu,
Luận văn tốt nghiệp bác sĩ nội trú, Đại học Y Dược TP.HCM.
16. Roehrborn CG (2005). Acute Urinary Retention: Risks and
Management. Rev Urol. Vol 7(Suppl 4): S31–S41.
17. Roehrborn CG. (2006). Three months' treatment with the
alpha1-blocker alfuzosin does not affect total or transition zone
volume of the prostate. Prostate Cancer Prostatic Dis. Vol 9(2),
pp. 121-125.
18. Trần Ngọc Sinh (2001). Chỉ định cắt đốt nội soi trong bế tắc
đường tiết niệu dưới do bướu lành tuyến tiền liệt, Luận án tiến
sĩ, Đại học Y Dược TP.HCM.
19. Trần Văn Sáng (1998). Bướu lành tuyến tiền liệt, Bài giảng Bệnh
học niệu khoa, Nxb Mũi Cà Mau, tái bản lần 2, tr. 235-243.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_gia_ket_qua_dieu_tri_noi_khoa_bi_tieu_cap_do_buou_lanh.pdf