Tai biến và biến chứng
- Tai biến và biến chứng mà chúng tôi hay
gặp là sốt cao sau mổ 5BN chúng tôi đã cho dung
kháng sinh mạnh, phối hợp kháng sinh điều trị
nội khoa đều ổn định ra viện ngày thứ 5 sau tán
sỏi nguyên nhân có thể bệnh nhân để sỏi lâu
ngày bít tắc hoàn toàn niệu quản gây nước tiểu
đục, quá trình tán sỏi làm phát tán mầm vi
khuẩn, tuy nhiên kết quả cấy máu lại âm tính.
Sốt sau tán sỏi làm kéo dài thời gian sau mổ.
- Chúng tôi không gặp trường hợp nào
thủng niệu quản nào, việc thao tác ống soi nhẹ
nhàng, chỉ tán sỏi khi để đầu tán sát viên sỏi và
bơm nước rõ làm giảm tổn thương niệu quản sẽ
tránh tai biến này.
- Tai biến chảy máu do sây xước, cắt đốt
polyp hay do niệu quản viêm dày cũng được ghi
nhận song không gặp trường hợp chảy máu
nặng nào, ống thông bang quang chỉ màu hồng
vào ngày đầu và trong vào ngày thứ 2 sau tán
sỏi. Có được kết quả tốt phải kể đến việc lựa
chọn bệnh nhân là yếu tố quan trọng: Bệnh nhân
có chức năng thận còn sỏi nhỏ và đa số là sỏi
đoạn 1/3 dưới, với những bệnh nhân sỏi kích
thước >2cm chúng tôi mổ mở lấy sỏi, sỏi đoạn
1/3 trên kích thước lớn chúng tôi mổ nội soi sau
phúc mạc để lấy sỏi.
Kết quả khám lại sau 01 tháng kết quả rất tốt:
96,9% (31BN) sạch sỏi chỉ có 1BN có một phần
sỏi chạy lên thận được chỉ định tán sỏi ngoài cơ
thể thành công.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 09/02/2022 | Lượt xem: 74 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá kết quả điều trị sỏi niệu quản theo phương pháp tán sỏi bằng Holmium Laser tại bệnh viện Đa khoa tỉnh Bắc Giang, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015
270
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ SỎI NIỆU QUẢN THEO PHƯƠNG PHÁP
TÁN SỎI BẰNG HOLMIUM LASER TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA
TỈNH BẮC GIANG
Đoàn Tiến Dương*, Vũ Nguyễn Khải Ca**, Nguyễn Văn Đồng*, Trần Nhật Hùng*, Chu Mạnh Long*,
Lưu Thành Sơn*, Nguyễn Văn Nguyên*, Nguyễn Văn Nam*, Trần Minh Phương*, Kiều Thanh Giang*,
Dương Trung Hiếu*, Nguyễn Văn Hùng*, Đoàn Sơn Tùng*, Nguyễn Văn Hiếu*,
Dương Quang Tiến*, Chu Văn Lâm**, Nguyễn Ngọc Thái***
TÓM TẮT
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá kết quả điều trị sỏi niệu quản theo phương pháp tán sỏi bằng laser
Holmium qua nội soi niệu quản tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Bắc Giang.
Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp nghiên cứu tiền cứu mô tả trên các bệnh án của những bệnh nhân
sỏi niệu quản được điều trị theo phương pháp tán sỏi bằng laser Holmium qua nội soi niệu quản từ tháng 4 năm
2015 đến tháng 5 năm 2015.
Kết quả nghiên cứu: Tổng số 32 bệnh nhân được tán sỏi bằng laser Holmium trong đó có 12 bệnh nhân
nam (37,5%) và 20 bệnh nhân nữ (462,5%). Sỏi niệu quản có thể ở bên phải, bên trái hoặc cả hai bên với tỉ lệ
tương ứng là 53,1% (17/32), 40,6% (13/32), và 6,25% (2/32). Thời gian nằm viện trung bình là 2,9 ±1,5 ngày,
kết quả tốt đạt 81,3%, trung bình đạt 15,6%. Tỷ lệ sạch sỏi sau 01 tháng đạt 96,9%. Không có biến chứng nặng.
Kết luận: Phương pháp tán sỏi niệu quản bằng laser Holmium qua nội soi niệu quản là phương pháp có hiệu
quả và an toàn. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy đây là phương pháp ít sang chấn và nên được lựa
chọn để điều trị sỏi niệu quản.
Từ khóa: sỏi niệu quản, tán sỏi, nội soi niệu quản
ABSTRACT
ASSESSMENT RESULTS OF TREATMENT METHOD URETERAL STONE LITHOTRIPSY
BY HOLMIUM LASER IN BAC GIANG PROVINCE HOSPITAL
Doan Tien Duong, Vu Nguyen Khai Ca, Doan Tien Duong, Nguyen Van Dong,Tran Nhat Hung,
Chu Manh Long, Luu Thanh Son, Nguyen Van Nguyen, Nguyen Van Nam, Tran Minh Phuong,
Kieu Thanh Giang, Duong Trung Hieu, Nguyen Van Hung, Doan Son Tung, Nguyen Van Hieu,
Duong Quang Tien, Chu Van Lam, Nguyen Ngoc Thai
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - No 4 - 2015: 270 - 276
Objectives: To evaluate the outcomes of ureteroscopic Holmium-laser lithotripsy for ureteric calculi in Bac
Giang General Hospital.
Methods: We reviewed the records of patients with radiopaque ureteral calculi treated by ureteroscopic
Holmium-laser lithotripsy from April 2015 to May 2015. The success rates, complications and the length of
hospital stay were evaluated.
Results: A total of 32 patients were treated for ureteral calculi including 12 male patients (37.5%) and 20
female patients (62.5%). The stone sides were the right, left and bilateral side, accounting for 53.1% (17/32),
* Bệnh viện đa khoa Bắc Giang ** Bệnh viện Việt Đức, Hà Nội *** Đại Học Y Dược Tp.HCM
Tác giả liên lạc: PGS.TS. Vũ Nguyễn Khải Ca ĐT: 0913201845 Email: cakhanh2006@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015 Nghiên cứu Y học
271
40.6% (13/32) and 6.25% (2/32), respectively. The mean of hospital staying period was 2.9 ± 1.5 days. The good
and moderate results were 81.3% and 15.6%, respectively. The stone clearance rate after 1 month is 96,9%.
No critical complications were seen in our study.
Conclusions: Ureteroscopic Holmium-laser lithotripsy is safe and effective and associated with low
complications. The results of our study showed that this is an invasive and reasonable treatment option for
ureteral calculi.
Key words: ureteric calculi, lithotripsy, ureteroscopic
ĐẶT VẤN ĐỀ
Điều trị sỏi niệu quản bằng các phương pháp
ít sang chấn đã được sử dụng trên thế giới cũng
như ở Việt Nam. Đó là tán sỏi ngoài cơ thể, tán
sỏi nội soi ngược dòng bằng xung hơi, thủy điện
lực, siêu âm, laser, mổ nội soi sau phúc mạc lấy
sỏi Trong các loại tán sỏi nội soi ngược dòng
thì tán sỏi nội soi ngược dòng bằng năng lượng
laser đang ngày càng chiếm ưu thế và phổ biến
tới các bệnh viện tỉnh. Bệnh viện đa khoa tỉnh
Bắc Giang đã tán sỏi nội soi ngược dòng bằng
laser từ năm 2013 nhưng đến nay chưa có đề tài
nào tổng kết, đánh giá tính hiệu quả, an toàn của
phương pháp điều trị này.
Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài
Đánh giá kết quả điều trị sỏi niệu quản theo phương
pháp tán sỏi bằng Holmium Laser tại bệnh viện đa
khoa tỉnh Bắc Giang” nhằm mục tiêu sau:
Xác định hiệu quả và tính an toàn của
phương pháp tán sỏi bằng laser Holmium trong
điều trị sỏi niệu quản.
TƯ LIỆU - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Tư liệu
32 bệnh nhân chẩn đoán sỏi niệu quản được
điều trị bằng phương pháp tán sỏi Hand made
(Mỹ-Trung) hợp tác tại khoa Ngoại tổng hợp- BV
Đa khoa tỉnh Bắc Giang từ tháng 4/2015 đến
tháng 5/2015.
Phương pháp nghiên cứu
Tiến cứu mô tả.
Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân
- Bệnh nhân có sỏi niệu quản đoạn 1/3 dưới
và 1/3 giữa.
- Kích thước sỏi 5mm – 15mm.
- Không có nhiễm khuẩn tiết niệu.
- Không có dị dạng đường tiết niệu và hẹp
niệu đạo.
Phương tiện
- Hệ thống hình ảnh: nguồn sáng, camera
của hãng Karl_Stozt.
- Ống nội soi niệu quản bán cứng, có 2 kênh
cỡ 9,5 Fr.
- Hệ thống tưới rửa: guide các loại, pince lấy
sỏi, rọ Dormia.
Phương pháp tán sỏi
- Bệnh nhân được gây tê tủy sống
- Bệnh nhân nằm tư thế sản khoa.
- Tiến hành tán sỏi như những trường hợp
tán sỏi thông thường.
Đánh giá kết quả
- Chúng tôi chia ra 3 loại:
+ Tốt: tán hết sỏi, không có tai biến và biến
chứng.
+ Trung bình: Tán vụn viên sỏi nhưng chưa
lấy hết sỏi kèm theo thương tổn nhẹ niêm mạc
niệu quản, chảy máu ít.
+ Xấu: sỏi chạy lên thận, có tai biến và biến
chứng như chảy máu nhiều, thủng niệu quản.
- Ngoài ra: tính thời gian tán sỏi, thời gian
nằm viện,các biến chứng và tai biến sau tán sỏi.
KẾT QUẢ
Tuổi- Giới
- Giới: 32 bệnh nhân: Nam 12 bệnh nhân
(37,5%).
Nữ: 20 bệnh nhân (62,5%).
-Tuổi bệnh nhân: Cao nhất: 73 tuổi.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015
272
Nhỏ nhất: 23 tuổi.
Tuổi trung bình: 46,35 ± 13,25.
Chẩn đoán
- Vị trí sỏi: Niệu quản P: 17 bệnh nhân
(53,1%).
Niệu quản T: 13 bệnh nhân (40,6%).
Niệu quản 2 bên: 02 bệnh nhân (6,3%).
Bảng 1: Vị trí sỏi niệu quản:
Vị trí Đoạn chậu Đoạn thắt lưng
NQ P 16 1
NQ T 13 0
NQ 2 bên P 1 0
T 0 1
Trong 32 bệnh nhân chỉ có 2 bệnh nhân là sỏi
đoạn thắt lưng.
Tiền sử bệnh tật
Trong 32 bệnh nhân:
- 5 bệnh nhân đã mổ sỏi thận cùng bên.
- 10 bệnh nhân đã tán sỏi NCT.
- 25 bệnh nhân có tiền sử điều trị lá nam.
Chẩn đoán hình ảnh
Việc đánh giá nhận định được ghi nhận lại
trong quá trình soi niệu quản khi tiếp cận sỏi.
Bảng 2: Mức độ ứ nước thận qua siêu âm.
Mức độ Số bệnh nhân Tỷ lệ %
Không ứ nước 04 12,5
Ứ nước độ I 05 15,6
Ứ nước độ II 15 46,9
Ứ nước độ III 8 25
Bảng 3: Chức năng thận trên niệu đồ tĩnh mạch.
Thận bài tiết Số bệnh nhân Tỷ lệ %
Tốt (15-30 phút) 23 71,9
Trung bình (sau 30 -60 phút) 8 25
Kém (>60 phút) 1 3,1
Bảng 4: Kích thước, số lượng viên sỏi dựa trên phim
X-quang.
Kích thước
Số lượng
< 5 mm 5 – 10 mm 10 – 15 mm
1 viên 3 15 8
> 2 viên 4 2
Bảng 5: Hình thái niệu quản
Hình thái niệu quản Số bệnh nhân Tỷ lệ %
Bình thường 13 40,6
Hình thái niệu quản Số bệnh nhân Tỷ lệ %
Viêm, phù nề 8 25
Có polyp 8 25
Ngoằn ngèo 3 9,4
Bảng 6: Hình dạng sỏi
Hình dạng sỏi BN Tỷ lệ %
Xù xì, di động 15 46,9
Xù xì và găm chặt vào NQ 13 40,6
Nhẵn tròn di động 4 12,5
Kết quả tán sỏi
Bảng 7: vị trí sỏi
Vị trí Tốt Trung bình Xấu
Niệu quản P 14 2 1
Niệu quản T 10 3 0
Niệu quản hai bên 2 0 0
Bảng 8: Đặt ống thông niệu quản
Loại đặt Số bệnh nhân Tỷ lệ %
Đặt thông JJ 6 22,9
Đặt ống thông nhựa 26 78,1
Thời gian tán sỏi
Thời gian tán sỏi được tính từ khi đặt máy
soi niệu quản đến khi rút máy soi niệu quản
kết thúc việc tán sỏi.
Bảng 9: Thời gian tán sỏi
Thời gian Bệnh nhân Tỷ lệ %
< 20 phút 16 50
20 – 30 phút 13 40,6
30 phút 3 9,4
Bảng 10: Tai biến và biến chứng
Loại Bệnh nhân Tỷ lệ %
Sỏi chạy lên thận 1 3,1
Thủng niệu quản 0 0
Chảy máu 0 0
Sốt cao sau tán 5 15,6
Thời gian nằm viện trung bình là 2,9 ±1,5
ngày, dài nhất 5 ngày, ngắn nhất 2 ngày.
Khám lại sau 01 tháng có 31 bệnh nhân sạch
sỏi (96,9%) 1 bệnh nhân có mảnh sỏi nhỏ chạy
lên thận được chỉ định tán sỏi ngoài cơ thể thành
công.
BÀN LUẬN
Đặc điểm bệnh nhân
- 32 bệnh nhân được tán sỏi có độ tuổi trung
bình 46,35 ±13,25. Người cao tuổi nhất là 73 tuổi,
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015 Nghiên cứu Y học
273
ít nhất là 23 tuổi cho thấy độ tuổi này nằm trong
độ tuổi còn đang lao động, điều kiện để sỏi thận
di chuyển xuống niệu quản. Vì việc phát hiện sỏi
niệu quản thường sau một cơn đau quặn thận,
bệnh nhân đến viện được phát hiện có sỏi niệu
quản. Nhận định này cũng giống như các tác giả
như: Nguyễn Minh Quang (2003), Dương Văn
Trung (2000)(3,9).
- Trong nghiên cứu có 5 bệnh nhân có tiền sử
mổ sỏi thận trước đó, 10 bệnh nhân đã có tán sỏi
ngoài cơ thể. Do vậy tán sỏi niệu quản có thể là
nguyên nhân thứ phát sau các lần can thiệp này
(Nguyễn Kỳ - 1994)(8). Sỏi niệu quản gặp ở những
bệnh nhân được tán sỏi ngoài cơ thể là những sỏi
nhỏ có thể đức khuôn ở một đoạn niệu quản, có
thể nằm rải rác nếu lòng niệu quản hẹp, phù nề
sẽ là khó khăn khi tiếp cận sỏi và tán sỏi khi
dùng máy tán sỏi bằng xung hơi (Nguyễn Minh
Quang – 2003)(7). Tuy nhiên lại thuận lợi nếu
dùng tán sỏi laser.
- Ghi nhận trong nghiên cứu có 25 bệnh
nhân đã điều trị lá nam nhưng không kết quả
được điều trị tán sỏi laser có thể việc sỏi niệu
quản kết hợp với polyp niệu quản hoặc niệu
quản viêm dày phù nề đã làm giảm hiệu quả của
điều trị nội khoa bằng lá nam.
Đặc điểm cận lâm sàng
- Chẩn đoán sỏi niệu quản chủ yếu dựa vào
chẩn đoán hình ảnh như siêu âm, X-quang, UIV
(Bùi Văn Lệnh-2004), Trần Quán Anh (2007)(2,11)
được đặt ra trước bệnh tình bệnh nhân có cơn
đau quặn thận, đái máu, đái buốt và những bệnh
nhân đã có tiền sử điều trị sỏi thận, sỏi niệu
quản. Tuy nhiên, sỏi niệu quản gặp ở những phụ
nữ có thai việc chẩn đoán lại chủ yếu dựa vào
siêu âm(3).
- Đối với bệnh nhân đến với bệnh cảnh suy
thận, ure máu cao, vô niệu, ngoài việc chụp hệ
tiết niệu không chuẩn bị, siêu âm có thể định
hướng cho chụp cắt lớp có dựng hình không
bơm thuốc cản quang cho thấy về hình ảnh sỏi
niệu quản, vị trí, kích thước và mức độ ảnh
hưởng của nó lên thận.
- Ngay cả những trường hợp chức năng
thận bình thường nhưng trên chẩn đoán hình
ảnh nhiều khi không quan sát và phát hiện
được do sỏi nhỏ, sỏi nằm sát cột sống, ở khung
chậu và sỏi không cản quang thì chỉ định chụp
CT là cần thiết.
- Ghi nhận trong nghiên cứu (32 bệnh nhân).
+ Có 23 bệnh nhân (71,9%) chức năng thận
tốt.
+ 8 bệnh nhân (25%) thận bài tiết chậm.
+ 1 bệnh nhân (3,1%) thận bài tiết kém.
- Trên kết quả siêu âm đánh giá mức độ ứ
nước của thận: có 15 bệnh nhân (46,9%) thận ứ
nước độ 2, và 25 bệnh nhân (78,1 %) thận ứ nước
độ 3.
- Đại đa số bệnh nhân đến trong giai đoạn
thận ứ nước độ 3. Điều này chứng tỏ việc tiếp
cận điều trị sớm sỏi niệu quản còn chưa tốt phù
hợp với tỷ lệ đã điều trị nội khoa bằng lá nam
không kết quả lên tới 75%.
- Đối với những bệnh nhân đã có tiền sử
điều trị sỏi thận niệu quản trước đó, việc quyết
định tán sỏi niệu quản ngược dòng là ưu tiên số
1 nhằm hy vọng cứu vãn, phục hồi chức năng
thận, khi mà đã giải quyết được sự lưu thông và
nhiễm trùng tiềm tàng(7). Trong nghiên cứu có 17
BN có sỏi niệu quản P (53,1%) có 13 BN có sỏi
niệu quản T (40,6%) có 2 BN (6,25%) có sỏi niệu
quản 2 bên. Việc tính kích thước của sỏi cũng
giống các tác giả khác như Nguyễn Minh Quang
(2003), Trần Lê Linh Phương (2008)(9) là dựa vào
việc đo chiều dài lớn nhất của viên sỏi. Ghi nhận
có 7 BN só sỏi < 5mm, 17 BN có sỏi từ 5-10mm,
và 8 BN có sỏi > 10-15mm. Việc triển khai mới kỹ
thuật này do vậy trong nghiên cứu không tiến
hành ở những sỏi lớn > 15mm.Viên sỏi kích
thước lớn đòi hỏi kéo dài thời gian tán do đó mà
khả năng tai biến sẽ nhiều hơn và tỷ lệ thất bại
có thể sẽ cao hơn.
Những nhận xét về quá trình tán sỏi
Hình thái của niệu quản có sỏi
Ghi nhận thấy có 13 BN (40,6%) niêm mạc
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015
274
niệu quản bình thường. Trường hợp gặp ở
những BN đến sớm, trẻ và có cơn đau quặn thận
điển hình được chẩn đoán sớm, sỏi thường nhỏ
theo hướng điều trị trước đây là có thể điều trị
nội khoa. Có 3 BN trong quá trình nội soi thấy
niệu quản dài gấp khúc sẽ là khó khăn khi soi
niệu quản mà không có dây dẫn đi trước và đặt
ống soi quá thô bạo dễ gây lạc đường và thủng
niệu quản. Cũng như khi tiếp cận được sỏi mà
không để lại dây dẫn, việc rút máy ra sẽ là rất
khó khăn mới tìm được sỏi nhất là dùng máy tán
sỏi bằng xung hơi. Việc dùng máy tán sỏi bằng
laser thì không cần rút máy hoặc rút dây dẫn vì
với máy nội soi 2 kênh thì ngoài dây dẫn có thể
luồn kênh bên dây laser để tán sỏi quá đó có thể
luồn dây dẫn và thông Dormia lên trên sỏi để
giữ sỏi và làm đường chỉ dẫn khi phải đặt lại
máy soi(7,10).
Có 8 BN sỏi niệu quản kết hợp với hiện
tượng viêm phù nề niệu quản nơi viên sỏi
nằm biểu hiện niệu quản viêm nề, phù ở lỗ
niệu quản và thành bàng quang hay gặp ở sỏi
niệu quản đoạn thành bàng quang và sát lỗ
niệu quản. Việc tìm lỗ niệu quản và đặt dây
dẫn nếu là phẫu thuật viên mới làm là khó
khăn. Khi tìm và nong lỗ niệu quản có hai
hình thái viêm phù nề trong lòng niệu quản
đoạn sỏi nằm. Đó là niệu quản có sỏi tạo thành
các polype hình cầu, đôi khi có những polype
rủ xuống như xúc tu che khuất 1 phần sỏi hoặc
toàn bộ sỏi. Mặt khác có trường hợp dạng
polype ở đoạn thành niệu quản ôm bao bọc
lấy sỏi và dính vào niệu quản. Trường hợp
polype dạng xúc tu hình cầu là thuận lợi ngay
cho cả trong trường hợp tán sỏi bằng máy
xung hơi, nhưng sẽ là thuận lợi cho việc tán
sỏi bằng laser do năng lượng laser có khả
năng cắt 1 cách nhanh chóng các polype này
để hiện rõ hòn sỏi niệu quản giúp việc tán sỏi
dễ dàng(3,7,10).
Trường hợp sỏi niệu quản được bao bọc bởi
niêm mạc niệu quản thì việc tán sỏi bằng xung
hơi rất khó khăn, tán lâu dễ chảy máu, dễ lạc
đường, thủng niệu quản, sỏi chạy lên thận,
ngược lại tán sỏi bằng laser thuận lợi hơn nhiều
do năng lượng mạnh, chính xác và không gây
chảy máu(7).
Hình thái của sỏi niệu quản
Có 15 BN (46,9%) sỏi niệu quản xù xì và di
động đây là loại sỏi mà các phẫu thuật viên thấy
dễ chịu khi tán sỏi gắp sỏi bằng pince hay bằng
rọ Dormia.
Có 8 BN (25%) có sỏi niệu quản xù xì và có
polype kèm theo. Đây là những trường hợp
bệnh nhân đến muộn, kèm có nhiễm trùng
đường tiết niệu nhiễm trùng.
Có 8 BN sỏi niệu quản nhẵn tròn, di động
việc tiếp cận với sỏi dễ nhưng do tính dễ di
động nên trong quá trình bơm nước và di
chuyển máy soi niệu quản và đầu tán có thể
vô tình làm sỏi chạy lên thận. Với việc dùng
dây dẫn được đưa lên phía trên sỏi hoặc dùng
rọ Dormia giữ sỏi ở phía trên hoặc dùng pince
gắp sỏi xuống cố định vào thành niệu quản là
các phương pháp hạn chế sự di chuyển của sỏi
và tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tán sỏi
niệu quản(4).
Tán sỏi tròn hoặc nhẵn là sự đánh giá tính
thành thạo và chuyên nghiệp gia của các phẫu
thuật viên vì sỏi tròn nhẵn dễ di dộng lại cứng
nên nếu tán sỏi bằng xung hơi sẽ rất khó nếu
viên sỏi không được gìm lại trong thành niệu
quản hay trong rọ Dormia. Ngược lại việc tán
sỏi bằng laser do sự hấp thụ năng lượng của
sóng laser làm sỏi vỡ ra một cách nhanh
chóng, sỏi vỡ vụn nhỏ, ít tạo các mảnh sỏi lớn
như tán sỏi bằng xung hơi. Tán sỏi bằng laser
thì sỏi nào cũng vỡ do mức năng lượng lớn tạo
ra trên bề mặt viên sỏi và khả năng đâm
xuyên của sóng laser(5,12).
Trong nghiên cứu có 26 BN có 1 viên sỏi, chỉ
có 6 BN có sỏi niệu quản từ 2 viên trở lên. Kích
thước của sỏi cũng là yếu tố liên quan đến kết
quả tán sỏi. Nghiên cứu có 17 BN có sỏi niệu
quản kích thước từ 5 – 10mm rất thuận lợi cho
tán sỏi laser. Có 8 BN có sỏi 10-15mm đặt ra việc
tán sỏi phải lâu hơn, kỹ hơn, việc tán cũng cần
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015 Nghiên cứu Y học
275
cân nhắc: tán từ bề mặt, tán thành nhiều điểm để
làm vỡ vụn sỏi kết hợp với việc lấy sỏi, gặp sởi
xuống bàng quang. Công việc này đòi hỏi thận
trọng, kiên trì.
Ghi nhận trong nghiên cứu có 6 bệnh nhân
có sỏi niệu quản từ 2 viên trở lên - nhưng đặt ra
sự khó khăn là truờng hợp sỏi rải rác trong đoạn
niệu quản sỏi đúc khuôn sau tán ra ngoài cơ thể.
Việc tán sỏi bằng laser kết hợp với việc thu
dọn những sỏi vụn là cần thiết để giải phóng
sỏi thông thương của niệu quản. Những trường
hợp này cần kết hợp với sự đặt thông JJ sau tán
vì niệu quản bao giờ cũng phù nề tổn thuơng
do các mảnh sỏi gây nên, do các thao tác nhiều
lần trong lòng niệu quản. Trong những bệnh
nhân này thuờng gặp những bệnh nhân đã tán
sỏi ngoài cơ thể ở các tuyến cơ sở. Nghiên cứu
có 2 bệnh nhân có sỏi niệu quản 2 bên, việc tán
sỏi đuợc ưu tiên ở những bên tán sỏi thuận lợi
truớc. Trong những bệnh nhân này có những
bệnh nhân đã có tiền sử mổ cũ hoặc xảy ra một
cách đột ngột sau cơn đau quặn thận xuất hiện
thiểu niệu hoặc vô niệu. Việc giải quyết mang
tình cấp cứu, ngay cả truờng hợp chưa suy thận
cũng cần giải quyết sớm truớc khi tình trạng
suy thận xảy ra.
Kết quả tán sỏi
Dựa vào 3 mức độ đánh giá.
Tỉ lệ tốt: 26 bệnh nhân (81,3%) kết quả so
sánh với các tán sỏi khác : Nguyễn Minh Quang
98% (2005), Đỗ Lệnh Hùng 96%(2010) là phù hợp
sỏi niệu quản chủ yếu là ở đoạn niệu quản 1/3
dưới.
Tỉ lệ kết quả trung bình 5 bệnh nhân (15,6%)
đây là những bệnh nhân được tán sỏi nhưng
chưa lấy hết sỏi, có tổn thuơng nhẹ niêm mạc
niệu quản: bong trầy xước niêm mạc niệu quản
chảy máu nhẹ.
Tỉ lệ xấu 1 bệnh nhân (3,1%). Đó là bệnh
nhân sỏi nằm đoạn niệu quản đoạn 1/3 trên
trong quá trong tán phần lớn sỏi chạy lên thận,
được đặt thông JJ, chuyển tán sỏi ngoài cơ thể.
Sau tán sỏi ngoài cơ thể thành công.
Thời gian tán sỏi được chia ra 3 giai đoạn
- Dưới 20 phút có 16 bệnh nhân (50%).
- Từ 20-30 phút có 13 bệnh nhân (40,6%).
- Trên 30 phút có 3 bệnh nhân (9,4%).
Thời gian nằm viện
Ngắn nhất 2 ngày, dài nhất 5 ngày.
Trung bình 2,9 ± 1,5 ngày.
Đặt thông niệu quản
Trong nghiên cứu của chúng tôi chủ yếu đặt
ống thông mondelage 26 BN và rút ở ngày thứ 3
khi ra viện vì bệnh nhân chúng tôi chủ yếu là sỏi
kích thước nhỏ và nằm ở đoạn 1/3 dưới, chỉ có 6
bệnh nhân đặt JJ là những trường hợp sỏi nhiều
viên thời gian tán sỏi lâu và niệu quản bị thương
tổn nhiều, ống thong JJ được rút sau 01 tháng khi
bệnh nhân đến khám lại theo hẹn.
Tai biến và biến chứng
- Tai biến và biến chứng mà chúng tôi hay
gặp là sốt cao sau mổ 5BN chúng tôi đã cho dung
kháng sinh mạnh, phối hợp kháng sinh điều trị
nội khoa đều ổn định ra viện ngày thứ 5 sau tán
sỏi nguyên nhân có thể bệnh nhân để sỏi lâu
ngày bít tắc hoàn toàn niệu quản gây nước tiểu
đục, quá trình tán sỏi làm phát tán mầm vi
khuẩn, tuy nhiên kết quả cấy máu lại âm tính.
Sốt sau tán sỏi làm kéo dài thời gian sau mổ.
- Chúng tôi không gặp trường hợp nào
thủng niệu quản nào, việc thao tác ống soi nhẹ
nhàng, chỉ tán sỏi khi để đầu tán sát viên sỏi và
bơm nước rõ làm giảm tổn thương niệu quản sẽ
tránh tai biến này.
- Tai biến chảy máu do sây xước, cắt đốt
polyp hay do niệu quản viêm dày cũng được ghi
nhận song không gặp trường hợp chảy máu
nặng nào, ống thông bang quang chỉ màu hồng
vào ngày đầu và trong vào ngày thứ 2 sau tán
sỏi. Có được kết quả tốt phải kể đến việc lựa
chọn bệnh nhân là yếu tố quan trọng: Bệnh nhân
có chức năng thận còn sỏi nhỏ và đa số là sỏi
đoạn 1/3 dưới, với những bệnh nhân sỏi kích
thước >2cm chúng tôi mổ mở lấy sỏi, sỏi đoạn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015
276
1/3 trên kích thước lớn chúng tôi mổ nội soi sau
phúc mạc để lấy sỏi.
Kết quả khám lại sau 01 tháng kết quả rất tốt:
96,9% (31BN) sạch sỏi chỉ có 1BN có một phần
sỏi chạy lên thận được chỉ định tán sỏi ngoài cơ
thể thành công.
KẾT LUẬN
Tán sỏi nội soi ngược dòng bằng ống kính
bán cứng để tán sỏi niệu quản cho 32 bệnh nhân
có sỏi niệu quản đoạn chận và đoạn thắt lưng
bằng Holmium lasez đem lại kết quả khả quan
với: Tỉ lệ tốt 81,3%. Tỉ lệ trung bình 15,6%.Thời
gian điều trị ngắn.Tỷ lệ sạch sỏi sau 01 tháng đạt
96,9% Nó đã tôn trọng và tận dụng đựơc các
đường tự nhiên để giải quyết bệnh lý sỏi niệu
quản, nó là phương pháp được lựa chọn trong
các phương pháp khác để điều trị sỏi niệu quản
cho bệnh nhân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. A.Hofstetter (1992) Lasez lithotripsy in the treament of
ureteral lithiasis A. E. Eurol 45, 3 pp.227-9
2. Bùi Văn Lệnh (2004) Siêu âm chuẩn đoán bộ máy tiết niệu
NXB Y học tr 225-237
3. Dương Văn Trung (2004) Kết quản tán sỏi nội soi ngược dòng
cho 1519 bệnh nhân tại bệnh viện Bưu Điện-Hà Nội Tạp chí y
học thực hành pp 491,601,601
4. Đỗ Lệnh Hùng và Nguyễn Minh Quang(2010) Hiệu quả của
nội soi tán sỏi bằng lasez trong điều trị sỏi niệu quản chậu
khảm, Y học TPHCM, 4,1 tr 458-470
5. H.Jiang và L.Wang(2001) Uretesoscopic treameat of ureteral
caluelie with holmiun: YAG lasez lithotripsy J.Endourol 21(2)
pp.154.4
6. Lê Ngọc Từ (2002) Biện chứng sỏi niệu quản Tạp chí Y học -
Đại học Y Hà Nội.
7. Nguyễn Minh Quang (2003) Tán sỏi niệu quản qua nội soi
bằng lasez và xung hoi Luận văn chuyên khoa II trang
34,40,63
8. Nguyễn Kỳ (1994) 'Tình hình điều trị sỏi tiết niệu tại bệnh
viện Việt Đức trong 10 năm(1982-1991) Tập san ngoại khoa số
1, tr 10-13
9. Trần Lê Linh Phương (2008) Điều trị sỏi niệu quản bằng phẫu
thuật ít xâm lấn NXB Y học tr 5, 45, 57
10. Sofez.M, Jammes.D(2002) :Holmiun: YAG Lasez lithotripsy
for urinary tract calial in 589 patients J.uro 167 pp.31.4
11. Trần Quán Anh(2007) Triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng,
thăm khám lâm sàng bệnh học tiết niệu . NXB Y học 47-68
12. Watson (1994) Principles of lasez stone destruction Lasez in
urologic Suzgery Mosby-Yearbook pp.183.9
Ngày nhận bài báo: 10/05/2015
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 01/06/2015
Ngày bài báo được đăng: 05/08/2015
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_gia_ket_qua_dieu_tri_soi_nieu_quan_theo_phuong_phap_tan.pdf