-Trong nghiên cứu của tác giả Zane T. Hammoud
et al [13] với số lượng tổng cộng 392 bệnh nhân thực
hiện nội soi trung thất để đánh giá hệ bạch huyết trung
thất mà không kèm theo bất kỳ tổn thương nhu mô
hoặc phế quản. Nội soi trung thất có khả năng thực
hiện chẩn đoán 93,6% ở những bệnh nhân có u trung
thất, cho thấy hiệu quả và khả năng áp dụng của nội
soi trung thất theo chỉ định. Trong số những bệnh
nhân này, một phần lớn 206/392 (52,55%) đã được
kiểm tra xác định lành tính. Điều này là phù hợp với
dữ liệu được tìm thấy trong các báo cáo khác, so với
kết quả chúng tôi thu được có sự khác biệt, khi khảo
sát hạch trung thất không kèm tổn thương nhu mô
phổi và phế quản có 11/12 (91,66%) trường hợp lành
tính. Với số liệu nghiên cứu còn hạn chế chưa thể
đánh giá khách quan so với các tác giả nước ngoài,
nhưng cũng cho thấy hiệu quả và giá trị của thủ thuật
này trong việc xác định bản chất hạch trong trung thất
mà không kèm tổn thương phổi.
- Kết quả bảng 4 cho thấy có 7/13 (53,85%)
trường hợp ung thư phổi di căn hạch trung thất (tương
ứng giai đoạn N2, N3) và 6/13 (46,15%) trường hợp
xác định ung thư phổi chưa có di căn hạch trung thất
(tương ứng giai đoạn N0,N1) [9]. Trong một nghiên
cứu 235 trường hợp, tác giả P De Leyn et al [10] đánh
giá hiệu quả nội soi trung thất trên những bệnh nhân
ung thư phổi không có dấu hiệu phát triển hạch trong
trung thất, cho kết quả dương tính trong 42 (20%)
trường hợp. Kết quả này của chúng tôi chưa phù hợp
với tác giả, tuy nhiên số lượng chẩn đoán dương tính
với độ chính xác cao cho phép phẫu thuật viên có
phương án điều trị tương ứng với giai đoạn phù hợp.
Số lượng bệnh nhân chẩn đoán hạch trung thất âm tính
vẫn cần phải theo dõi thêm và so sánh bản đồ hạch
trung thất trong mổ.
- Theo tác giả Henk Kramer et al [2] thì PET có
độ chính xác cao nhất trong đánh giá giai đoạn di căn
hạch trung thất nhưng không thường được sử dụng vì
nhiều lí do. Chụp cắt lớp vi tính và MRI là phương
pháp không can thiệp có dương tính giả cao. Bên cạnh
đó các biện pháp xâm lấn như sinh thiết xuyên thành
ngực, sinh thiết xuyên thành phế quản qua nội soi phế
quản, sinh thiết qua siêu âm nội soi, nội soi trung thất
là những biện pháp cho kết quả mô học chính xác, ít
biến chứng và chi phí ít. Tuy nhiên tác giá vẫn công
nhận nội soi trung thất là tiêu chẩn vàng trong đánh
giá hạch trung thất của ung thư phổi không tế bào nhỏ.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 13 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá kết quả nội soi trung thất chẩn đoán khối u tiên phát, các bệnh lý ác tính trong trung thất và giai đoạn ung thư phổi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 2 - THÁNG 8/2012
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ NỘI SOI TRUNG THẤT CHẨN ĐOÁN KHỐI U TIÊN PHÁT, CÁC
BỆNH LÝ ÁC TÍNH TRONG TRUNG THẤT VÀ GIAI ĐOẠN UNG THƯ PHỔI
Trần Trọng Kiểm
Nguyễn Đức Thắng
Người phản biện: GS, TS. Bùi Đức Phú
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Nội soi trung thất là một phương
pháp được sử dụng để chẩn đoán giai đoạn của ung
thư phổi, các khối u tiên phát và các bệnh lý ác tính
trong trung thất. Năm 1959, Carlens là người đầu tiên
mô tả kỹ thuật này. Ngày nay, nội soi trung thất
đã trở thành một phương pháp chẩn đoán can thiệp có
hiệu quả. Tại Việt Nam, chưa có nghiên cứu nào đánh
giá hiệu quả của phương pháp này trong chẩn đoán.
Mục tiêu: Xác định hiệu quả của nội soi trung
thất trong xác định bản chất mô học của u trung thất
và giai đoạn của ung thư phổi
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt
ngang, gồm 34 bệnh nhân xác định có khối u hoặc
hạch trung thất trên hình ảnh cắt lớp vi tính, được nội
soi trung thất, chẩn đoán mô học tế bào tại bệnh viện
Trung ương quân đội 108 trong 2 năm (2010-2011)
Kết quả: Nghiên cứu gồm 34 trường hợp, tuổi từ
18 đến 77, tuổi trung bình 51,26. Thời gian mổ trung
bình là 32,6 phút. Tai biến, biến chứng có 01 (2,94%)
trường hợp - chảy máu mạch nhỏ, không có tử vong.
Tỉ lệ ác tính trên tổng mẫu là 10/34 (29,41), với độ
nhạy là 90,09%, độ đặc hiệu là 100%. Có 7/13 trường
hợp ung thư phổi kết hợp di căn hạch trung thất
(tương ứng với N2,N3), có 6/13 trường hợp ung thư
phổi nhưng chưa có di căn hạch trung thất (tương ứng
với N0, N1). 1 trường hợp hạch lympho ác tính Non-
Hodgkin. Tỉ lệ hạch lành tính không kèm u phổi là
11/12 (91,6%)
Kết luận: Nội soi trung thất là một phương pháp
chẩn đoán hiệu quả và an toàn, có thể sử dụng thường
quy trong chẩn đoán khối u trung thất và giai đoạn của
ung thư phổi.
OUTCOME OF THE DIAGNOSTIC
MEDIASTINOSCOPY OF BEGIN TUMOR,
MEDIASTINAL MALIGNANT DESEASES AND
STAGING OF LUNG CANCER ABSTRACT
Author: Tran Trong Kiem, Nguyen Duc Thang
Background: Mediastinoscopy is a procedure
used for the diagnosis of mediastinal disease and the
staging of lung cancer. It was introduced by Carlens
Since in 1959. Presently, mediastinoscopy has become
invasive diagnostic methods very useful. In Vietnam,
there is not any research assessment of result of
mediastinoscopy in the diagnosis.
Objective: It was the aim of this study to evaluate
the results of cervical mediastinoscopy in diagnosing
the histological type of mediastinal tumors and
staging of lung cancer.
Method: Cross sectional study. 34 patients were
confirmed mediastinal tumors or nodes on CT scanner
and given a histological diagnose by mediastinoscopy
that were performed in 108 Military Centre Hospital
in two years (2010-2011)
Results: Group of 34 patients, age from 18 to 77,
has average age 51,26. Average of operating time is
32,6 minus. Accident and complication of
mediastinoscopy is 01 case that was blooding, no
mortality. Maglinant rate of total samples is 10/34
(29,41%), sensitivity of 90% and specificity of 100%.
Maglinant mediastinal node are in 7/13 cases of lung
cancer (equal N2,N3) and not in 06/13 cases of lung
cancer (equal No,N1), more 01 case diagnosed Non-
Hodgkin. Mediastinal benign node without lung caner
accounted of 11/12 (91,6%).
Conclusions: Mediastinoscopy is a highly effective
and safe procedure. We believe that
mediastinoscopy should currently be used
routinely in diagnosing the mediastinal tumors and
staging of lung cancer.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Nội soi trung thất là phương pháp được sử dụng
chẩn đoán mô bệnh của trung thất và đánh giá giai
đoạn của ung thư phổi. Trên thế giới, kể từ khi giới
thiệu bởi Carlens năm 1959, nội soi trung thất đã
trở thành phương pháp chẩn đoán can thiệp có hiệu
quả. Nội soi trung thất có độ nhạy lớn hơn 90% và độ
đặc hiệu 100% trong đánh giá giai đoạn trước phẫu
thuật ung thư phổi. Tương tự như vậy, nội soi trung
thất đã được chứng minh có hiệu quả trong chẩn đoán
bệnh u trung thất tốt hơn cả chẩn đoán giai đoạn ung
* Bệnh viện Trung ương Quân đội 108.
8
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ NỘI SOI TRUNG THẤT CHẨN ĐOÁN KHỐI U VÀ GIAI ĐOẠN UNG THƯ PHỔI
9
thư phổi, với hơn 90% trường hợp [13]. Tuy nhiên,
nội soi trung thất vẫn tiếp tục là một chủ đề của cuộc
tranh luận giữa các bác sĩ phẫu thuật lồng ngực. Vì có
nhiều quan điểm xem nội soi trung thất là quá xâm lấn
trong chẩn đoán giai đoạn xếp loại ung thư phổi và có
thật sự cần thiết nội soi trung thất khi nghi ngờ ung
thư phổi đa di căn hạch trung thất trên lâm sàng mà đã
có thể đánh giá giai đoạn bằng các phương pháp chẩn
đoán ít xâm lấn khác.
Nội soi trung thất cho kết quả mô học dương tính
với 33% hạch di căn trung thất trong ung thư phế quản
hoặc di căn xa từ các cơ quan khác. Mặc dù còn nhiều
tranh cãi khi ung thư phế quản di căn hạch trung thất.
Tuy nhiên kết quả trên 90% hạch khảo sát bằng nội
soi trung thất cho kết quả âm tính với tế bào ung thư,
kết quả này đồng nghĩa với ung thư phổi chưa di căn,
ủng hộ khả năng phẫu thuật trong điều trị ung thư phế
quản và phổi[8].
Tại Việt Nam nội soi sinh thiết chẩn đoán bản chất
khối u trong lồng ngực được quan tâm nhiều hơn
trong khoảng 10 năm trở lại đây, nhưng vẫn chưa có
nghiên cứu nào đánh giá hiệu quả của phương pháp
trong chẩn đoán. Tại bệnh viện Trung ương quân đội
108, chúng tôi đã tiến hành nội soi trung thất chẩn
đoán bản chất khối u trung thất và giai đoạn ung thư
phổi trong khoảng 3 năm gần đây.
Mục tiêu
Đánh giá hiệu quả của phương pháp nội soi trung
thất trong chẩn đoán các khối u tiên phát, các bệnh lý
ác tính trong trung thất và giai đoạn ung thư phổi.
II. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
2.1. Đối tượng
Bệnh nhân có hạch hoặc khối bất thường trong
trung thất xác định trên hình ảnh cắt lớp vi tính
nhưng chưa rõ bản chất và bệnh nhân u phổi có
hạch trung thất.
Chỉ định
- Xác định mô bệnh học các khối u trung thất
tiên phát (như bệnh Sarcoiodsis)
- Chẩn đoán giai đoạn ung thư phổi và hạch
bệnh lý (bao gồm cả Hodgkin)
- Chẩn đoán xác định bệnh, các khối u chưa rõ
bản chất (đặc biệt có ý nghĩa với bệnh liên
quan đến phổi như lao)
Chống chỉ định
- Đã phẫu thuật tim hoặc mở xương ức, mở khí
quản trước đó
- Đã phẫu thuật can thiệp vào trung thất
- Đang dùng thuốc chống đông
- Có bệnh lí mạch máu lớn trong lồng ngực
(phình bóc tách động mạch chủ, tăng áp động
mạch phổi, hội chứng chèn ép tĩnh mạch chủ
trên )
- Bệnh nhân không ngửa được cổ
Dụng cụ
- Dụng cụ nội soi hình chữ U có phần tay
cầm và ống kim loại giống như trocar khuyết
½ kích thước ống, đường kính ống 13mm
- Camera 0 độ đường kính 5mm
- Kìm lấy bệnh phẩm
- Ống hút
2.2. Phương pháp tiến hành
Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang được
tiến hành tại khoa Phẫu thuật lồng ngực bệnh viện
Trung ương quân đội 108 trong 2 năm 2010 và 2011
Phương pháp tiến hành:
Sau khi lựa chọn bệnh nhân vào nhóm nghiên cứu,
bệnh nhân phải có các xét nghiệm máu thường quy.
Ngoài ra phải làm
9 Xét nghiệm chẩn đoán hình ảnh: Chụp cắt lớp
vi tính lồng ngực (có tiêm thuốc cản quang)
9 Xét nghiệm đánh giá chức năng tim mạch:
điện tim, siêu âm tim
9 Các xét nghiệm thường qui chuẩn bị cho phẫu
thuật
Tất cả các bệnh nhân đã được khám và làm xét
nghiệm sàng lọc lâm sàng chẩn đoán xác định có khối
bất thường trong trung thất. Khối nghi ngờ là hạch
trong trung thất thường có đường kính ≥1cm
Phẫu thuật:
- Tư thế bệnh nhân nằm ngửa, cổ ngửa tối đa
- Rạch da ngay trên cán xương ức khoảng 2cm,
dài khoảng 3-4cm
- Sử dụng trocar nội soi đặt vào trung thất, quan
sát trên màn hình camera với optic đường
kính 5mm. Tiến hành khảo sát, vị trí dựa trên
kết quả hình ảnh CLVT và nhìn trực tiếp.
- Lấy bệnh phẩm làm giải phẫu bệnh, có thể kết
hợp làm các marker hóa mô miễn dịch để xác
định nguồn gốc khối u.
Xử lí số liệu: Xử lí số liệu theo phần mềm xử lí
thống kê y học.
III. Kết quả nghiên cứu
- Nhóm nghiên cứu bao gồm 34 bệnh nhân có
20 nam và 14 nữ, tỉ lệ Nam/Nữ là 10:7. Tuổi
trung bình là 51,26 nhỏ nhất 18 tuổi và lớn
nhất 77 tuổi.
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 2 - THÁNG 8/2012
- Thời gian phẫu thuật tối thiểu 20 phút và thời
gian tối đa 55 phút, thời gian mổ trung bình
32,6 với SD ±9,81
Bảng 1: Tai biến, biến chứng trong và sau thủ thuật
Tai biến, biến chứng Số lượng
Tỉ lệ
%
Chảy máu diện mổ 1 2,94
Tổn thương tĩnh mạch vô danh 0 0
Nhiễm khuẩn 0 0
Tổn thương thần kinh quặt ngược 0 0
Tràn khí khoang màng phổi 0 0
Tràn khí dưới da 0 0
Thủng thực quản, khí quản
hoặc mạch máu lớn
0 0
Không tai biến 33 97,06
Tổng 34 100
Kích thước mẫu bệnh phẩm tối thiểu là 2x2x2mm
lớn nhất là 05x10x10mm. Số lượng mẫu lấy được tối
thiểu là 2 mẫu và nhiều là 7 mẫu bệnh phẩm cho một
lần, trung bình là 3,64 mẫu trong một lần nội soi với
SD ±1,23
Bảng 2: Phân loại tỉ lệ ung thư trên các mẫu bệnh
phẩm thu được
Phân loại Số lượng Tỉ lệ %
Ác tính 10 29,41
Lành tính 23 67,64
Khó xác định 01 2,94
Tổng 34 100
Với kết quả thu được chúng tôi tính ra độ nhạy là
90,09% và độ đặc hiệu 100%.
Bảng 3: Phân loại kết quả theo giải phẫu bệnh
Đại thể Phân loại giải phẫu
bệnh vi thể Khối u Hạch
Tổng Tỉ lệ %
Ung thư phổi không
tế bào nhỏ di căn
trung thất
5 5 14,70
Ung thư phổi tế bào
nhỏ di căn hạch trung
thất
2 2 5,82
Ung thư biểu mô
tuyến vú di căn hạch
trung thất
1 1 2,94
Hạch phát triển lành
tính 7 7 20,58
Hạch lympho ác tính
non Hodgkin 1 1 2,94
U hạch thần kinh 1 1 2,94
U tế bào Swhann 1 1 2,94
Lao hạch trung thất 4 4 11,76
Sarcoidosis hạch
trung thất 3 3 8,82
U liên kết xơ mỡ
trung thất 1 1 2,94
U tuyến giáp lạc chỗ
trung thất 1 1 2,94
U tuyến ức lành tính 6 6 17,64
U tuyến ức ác tính 1 1 2,94
Tổng 9 25 34 100
- Nhóm nghiên cứu có 9 bệnh nhân lấy mẫu mô
khối u và 25 trường hợp lấy mẫu mô hạch trung thất
đều được nhuộm HD để chẩn đoán mô học. Một
trường hợp có hạch trung thất khó đánh giá tiêu bản,
chúng tôi phải phối hợp hóa mô miễn dịch kết hợp,
xác định là u lympho ác tính Non – Hodgkin.
Bảng 4: Hạch trung thất trong ung thư phổi
Hạch
trung
thất ác
tính
Hạch
trung
thất lành
tính
Tổng
Cùng bên
với u phổi
6 4
U phổi
kết hợp Khác bên
với u phổi
1 2
13
Hạch trung thất không
có tổn thương phổi
1 11 12
Có 13 trường hợp ung thư phổi có hạch trung thất.
Có 7 trường hợp xác định ung thư phổi kết hợp di căn
hạch trung thất (tương ứng với N2,N3), có 6 trường
hợp có ung thư phổi nhưng chưa có di căn hạch trung
thất (tương ứng với N0, N1). Tỉ lệ hạch lành tính /tổng
hạch không kèm nhu mô phổi và phế quản là 11/12
(91,6%).
IV. Bàn luận:
Khảo sát trung thất là một bước quan trọng cần
làm trong chẩn đoán, điều trị các bệnh lí phổi và trung
thất. NSTT hoặc nội soi lồng ngực sinh thiết khối u
trong trung thất được lựa chọn là những phương pháp
10
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ NỘI SOI TRUNG THẤT CHẨN ĐOÁN KHỐI U VÀ GIAI ĐOẠN UNG THƯ PHỔI
11
tốt để đánh giá khối u hoặc hệ thống hạch trong trung
thất mà không phải mở ngực[6].
- Nhóm nghiên cứu chúng tôi bao gồm 34 bệnh
nhân tỉ lệ Nam/Nữ là 10:7. Có tuổi trung bình là 51,26
nhỏ nhất 18 tuổi và lớn nhất 77 tuổi. Cho thấy khả
năng thực hiện rộng rãi trên bệnh nhân cần phải khảo
sát bản chất u hoặc hạch trong trung thất. Theo tác giả
Zane T.Hammound et al [13] thì khả năng thực hiện
nội soi trung thất đạt trên 90% các trường hợp có u
trung thất.
- Trong mẫu nghiên cứu chúng tôi thực hiện thủ
thuật này với thời gian phẫu thuật tối thiểu là 20 phút
và thời gian tối đa là 55 phút, thời gian mổ trung bình
là 32,6 với SD ± 9,81(không bao gồm thời gian chuẩn
bị và gây mê). Kết quả này cho thấy giảm đáng kể
thời gian thực hiện thủ thuật so với tác giả [6] thời
gian trung bình của thủ thuật là 70 phút, với cùng mục
đích lấy mẫu u hoặc hạch trung thất làm mô học tế
bào, ở đây chúng tôi không so sánh vì hai phương
pháp tiến hành khác nhau. Tuy nhiên các thủ thuật
xâm lấn này yêu cầu phải có sự hỗ trợ của gây mê và
đảm bảo như một cuộc phẫu thuật.
- Theo kết quả của bảng 01, tỉ lệ tai biến và biến
chứng của chúng tôi khá thấp 01trường hợp, bệnh
nhân chảy máu mao mạch nhỏ diện mổ, phải đặt
spongel và dẫn lưu trung thất sau 3 ngày theo dõi thì
rút dẫn lưu an toàn(2,94%). Trong thống kê của tác
giả Zane T. Hammoud et al [13] trên 2137 trường
hợp có 4 trường hợp tử vong sau mổ, chỉ có 1 trường
hợp (0,05%) được xem như tai biến tử vong trong
phẫu thuật và 12 trường hợp (0,6%) có biến chứng.
Bao gồm một số biến chứng: rối loạn nhịp tim, chảy
máu quá mức, thủng thực quản, rách động mạch
phổi, tràn khí màng phổi, hạ huyết áp, thoát dịch tĩnh
mạch. Không có tử vong hay biến chứng ở bệnh
nhân nội soi trung thất cho kết quả lành tính. Với sự
an toàn và hiệu quả của nội soi trung thất, kinh
nghiệm của tác giả Zane T. Hammoud et a [13] cho
thấy rằng nội soi trung thất nên được sử dụng thường
xuyên trong chẩn đoán và xác định giai đoạn của u
trong lồng ngực.
- Trong khi làm thủ thuật chúng tôi chọn những
mẫu có đặc điểm đại thể điển hình và vị trí xác định là
của khối tổn thương cần phải lấy, với kích thước mẫu
tối thiểu 2x2x2mm đảm bảo thực hiện cố định tiêu
bản và khi cần có thể thực hiện từ 6-10 marker hóa
mô miễn dịch chẩn đoán type tế bào. Ngoài kích
thước chúng tôi cố gắng lấy nhiều mẫu khác nhau với
số lượng trung bình là 3,64 mẫu với SD ±1,23 trong
một lần nội soi trung thất, mục đích đảm bảo tối đa độ
đặc hiệu, không bỏ sót tổn thương, đánh giá mức độ di
căn của hạch trung thất cùng bên hoặc khác bên trong
ung thư phổi. Nếu nghiên cứu với số lượng cao và
sâu hơn chúng tôi sẽ thực hiện khảo sát hạch trung trất
của ung thư phổi đánh số theo sơ đồ hạch trung thất
của tác giả Moutain CF et al[9]
- Kết quả bảng 2 cho thấy tỉ lệ số mẫu ác tính/tổng
số mẫu là 10/34 (29,41%) với độ nhạy là 90,09% và
độ đặc hiệu là 100%. Tác giả Martin D et al[8] nghiên
cứu 105 trường hợp nội soi trung thất cho kết quả
dương tính với tế bào ác tính 26%. Tác giả Paterson
G.A et al[11] nghiên cứu hình ảnh cắt lớp vi tính, hình
ảnh cộng hưởng từ, Xquang thường qui và nội soi
trung thất là những phương thức được so sánh triển
vọng để đánh giá tình trạng hạch trung thất trong 84
bệnh nhân ung thư biểu mô phế quản. Chụp cắt lớp vi
tính được thực hiện với độ nhạy 71,0%, độ đặc hiệu
87,7% và độ chính xác tổng thể của 82,1%. Hình ảnh
chụp cộng hưởng từ đã không cung cấp bất kỳ lợi thế
hơn so với chụp cắt lớp vi tính trong việc đánh giá
tình trạng hạch trung thất. Độ chính xác của chụp cắt
lớp vi tính không phụ thuộc vào loại tế bào của khối u
nguyên phát. Mặc dù chụp xquang thường qui có độ
nhạy là 80,7%, độ chính xác tổng thể là 57,1% là khá
thấp không thể chấp nhận được. Với độ nhạy 87,1%,
độ đặc hiệu 100%, giá trị tiên đoán dương tính 100%
và giá trị tiên đoán âm tính 93,0%, độ chính xác
95,2% nội soi trung thất vượt qua các phương pháp
khảo sát trung thất khác. Tác giả Paterson G.A et al
[11] tiếp tục đề nghị nội soi trung thất là phương pháp
khảo sát giai đoạn chính xác nhất trong việc theo dõi
tiến triển của bệnh nhân ung thư phổi.
- Tác giả Brion J.P et al[1] nghiên cứu 153 bệnh
nhân ung thư phế quản được đánh giá tiến triển bằng
cắt lớp vi tính và nội soi trung thất. Trên cắt lớp vi
tính các hạch lớn hơn 5 mm được xem là có khả năng
di căn. Hạch di căn trên hình ảnh cắt lớp vi tính được
đối chiếu với sau phẫu thuật. Trong việc phát hiện các
hạch di căn thì chụp cắt lớp vi tính có độ nhạy (89%)
cao hơn nội soi trung thất (67%). Cắt lớp vi tính có
giá trị tiên đoán kém (47%) trong chẩn đoán hạch ung
thư, tuy nhiên, độ chuyên biệt tron chẩn đoán hạch
lành tính khá cao (89%).Trong nhóm nghiên cứu có
100 vị trí hạch thì có 72% các hạch liên quan tới u có
đường kính lớn hơn 1 cm. Ung thư tế bào vảy và ung
thư tuyến có tỷ lệ độ nhạy cao nhất trên hình ảnh cắt
lớp vi tính. Tỷ lệ rất thấp sự xuất hiện di căn trong các
hạch đường kính dưới 5 mm, cho phép có thể bỏ nội
soi trung thất khi trên cắt lớp vi tính không có dấu
hiệu di căn trung thất.
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 2 - THÁNG 8/2012
- Bảng 3 cho kết quả nhóm nghiên cứu có 9
trường hợp mẫu mô u và 25 trường hợp mẫu hạch
trung thất. Một trường hợp có hạch trung thất khó
đánh giá tiêu bản, chúng tôi phải phối hợp hóa mô
miễn dịch kết hợp, xác định là u lympho ác tính Non –
Hodgkin. Kết quả thu được cho thấy khả năng chẩn
đoán chính xác type tế bào của khối u hoặc hạch trong
trung thất bằng phương pháp này.
-Trong nghiên cứu của tác giả Zane T. Hammoud
et al [13] với số lượng tổng cộng 392 bệnh nhân thực
hiện nội soi trung thất để đánh giá hệ bạch huyết trung
thất mà không kèm theo bất kỳ tổn thương nhu mô
hoặc phế quản. Nội soi trung thất có khả năng thực
hiện chẩn đoán 93,6% ở những bệnh nhân có u trung
thất, cho thấy hiệu quả và khả năng áp dụng của nội
soi trung thất theo chỉ định. Trong số những bệnh
nhân này, một phần lớn 206/392 (52,55%) đã được
kiểm tra xác định lành tính. Điều này là phù hợp với
dữ liệu được tìm thấy trong các báo cáo khác, so với
kết quả chúng tôi thu được có sự khác biệt, khi khảo
sát hạch trung thất không kèm tổn thương nhu mô
phổi và phế quản có 11/12 (91,66%) trường hợp lành
tính. Với số liệu nghiên cứu còn hạn chế chưa thể
đánh giá khách quan so với các tác giả nước ngoài,
nhưng cũng cho thấy hiệu quả và giá trị của thủ thuật
này trong việc xác định bản chất hạch trong trung thất
mà không kèm tổn thương phổi.
- Kết quả bảng 4 cho thấy có 7/13 (53,85%)
trường hợp ung thư phổi di căn hạch trung thất (tương
ứng giai đoạn N2, N3) và 6/13 (46,15%) trường hợp
xác định ung thư phổi chưa có di căn hạch trung thất
(tương ứng giai đoạn N0,N1) [9]. Trong một nghiên
cứu 235 trường hợp, tác giả P De Leyn et al [10] đánh
giá hiệu quả nội soi trung thất trên những bệnh nhân
ung thư phổi không có dấu hiệu phát triển hạch trong
trung thất, cho kết quả dương tính trong 42 (20%)
trường hợp. Kết quả này của chúng tôi chưa phù hợp
với tác giả, tuy nhiên số lượng chẩn đoán dương tính
với độ chính xác cao cho phép phẫu thuật viên có
phương án điều trị tương ứng với giai đoạn phù hợp.
Số lượng bệnh nhân chẩn đoán hạch trung thất âm tính
vẫn cần phải theo dõi thêm và so sánh bản đồ hạch
trung thất trong mổ.
- Theo tác giả Henk Kramer et al [2] thì PET có
độ chính xác cao nhất trong đánh giá giai đoạn di căn
hạch trung thất nhưng không thường được sử dụng vì
nhiều lí do. Chụp cắt lớp vi tính và MRI là phương
pháp không can thiệp có dương tính giả cao. Bên cạnh
đó các biện pháp xâm lấn như sinh thiết xuyên thành
ngực, sinh thiết xuyên thành phế quản qua nội soi phế
quản, sinh thiết qua siêu âm nội soi, nội soi trung thất
là những biện pháp cho kết quả mô học chính xác, ít
biến chứng và chi phí ít. Tuy nhiên tác giá vẫn công
nhận nội soi trung thất là tiêu chẩn vàng trong đánh
giá hạch trung thất của ung thư phổi không tế bào nhỏ.
Kết luận:
- Với chỉ định rộng rãi, khả năng thực hiện thủ
thuật an toàn, giá trị đạt được của phương pháp có độ
chính xác cao trong nghiên cứu chúng tôi cũng như
kinh nghiệm tác giả khác trên thế giới.
- Chúng tôi kiến nghị phương pháp nội soi trung
thất được thực hiện phổ biến đa trung tâm, áp dụng
nội soi trung thất trong chẩn đoán các khối u tiên
phát, các bệnh ác tính trong trung thất và giai đoạn
ung thư phổi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Brion JP, Depauw L, Kuhn G, de Fracquen
P, Friberg J, Rocmans, Struyven J(1985). Role of
computed tomography and mediastinoscopy in
preoperative staging of lung carcinoma. J
Comput Assist Tomogr. May-Jun; 9(3):480-4.
2. Henk Kramer, MD and Harry J.M. Groen, MD, PhD
(2003). Current Concepts in the Mediastinal Lymph
Node Staging of Nonsmall Cell Lung Cancer. Annal
of Surgery. August; 238(2): 180–188.
3. Hideki Kimura, MD, PhD, Naomichi Iwai, MD,
PhD, Soichiro Ando, MD, PhD, Kimitaka
Kakizawa, MD, PhD, Naoyoshi Yamamoto,
MD, Hidehisa Hoshino, MD, Takashi Anayama,
MD, PhD (2003). A prospective study of
indications for mediastinoscopy in lung cancer
with CT findings, tumor size, and tumor
markers. Ann Thorac Surg;Vol 75: p1734-1739
4. Joseph B. Shrager, MD..The Society of Thoracic
Surgeons (2010). Supplement: 2nd International
Bi-Annual minimally invasive thoracic surgery
summit. Ann Thorac Surg;89:S2084-S2089.
5. Lacquet L.K, Mertens A, Kleef J.V, and Jongerius
C. (1975). Mediastinoscopy and bronchial
carcinoma: experiences with 600
mediastinoscopies. Thorax. Vol.30, p141-145
6. Lê Nguyễn Quyền, Nguyễn Hoài Nam (2009).
Nghiên cứu vai trò nội soi lồng ngực sinh thiết
các khối u trung thất. Y học tp Hồ Chí Minh.
Vol.13 – No.1, p9-13
12
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ NỘI SOI TRUNG THẤT CHẨN ĐOÁN KHỐI U VÀ GIAI ĐOẠN UNG THƯ PHỔI
13
7. Luke W.P., Pearson F.G., Todd T.R., Patterson
G.A. and Cooper J.D. (1986). Prospective
evaluation of mediastinoscopy for assessment of
carcinoma of the lung. The Journal of Thoracic
and Cardiovascular Surgery, by The American
Association for Thoracic Surgery and The
Western Thoracic Surgical Association. Vol.91,
p53-56
8. Martin D. McCurdy, Peter A. Philip, M.D., Alan
T. Marty, M.D., Alfonso M. Miyamoto, M.D.
(1974). Mediastinoscopy: procedure of choice for
diagnosis and determination of operability.
Cardiovascular diseases, Bulentin of the Texas
heart institute. Vol.1, No.3, 1974, p242-250.
9. Mountain C.F, Dresler C.M (1997). Regional
lymph node classification for lung cancer
staging. Chest 1997; : 1718–1723.
10. P De Leyn, J Vansteenkiste, P Cuypers,G
Deneffe, D Van Raemdonck,W Coosemans, J
Verschakelen,T Lerut (1997). Role of cervical
mediastinoscopy in staging of non-small cell
lung cancer without enlarged mediastinal lymph
nodes on CT scan. European Journal of Cardio-
Thoracic Surgery. Volume 12, Issue 5, November
1997, p706–712
11. Patterson G.A, Ginsberg R.J, Poon P.Y, Cooper
J.D, Goldberg M., Jones D., Pearson F.G, Todd
T.R, Waters P. and Bull S (1987). A prospective
evaluation of magnetic resonance imaging,
computed tomography, and mediastinoscopy in
the preoperative assessment of mediastinal node
status in bronchogenic carcinoma. The Journal
of Thoracic and Cardiovascular Surgery, by The
American Association for Thoracic Surgery and
The Western Thoracic Surgical Association; Vol
94; p679-684
12. Van Schil.PE, Van Hee. RH and Schoofs.
EL (1989). The value of mediastinoscopy in
preoperative staging of bronchogenic
carcinoma.The Journal of Thoracic and
Cardiovascular Surgery, by The American
Association for Thoracic Surgery and The Western
Thoracic Surgical Association. Vol 97, p240-244.
13. Zane T. Hammoud, M.D, Richard C. Anderson,
M.D, Bryan F. Meyers, M.D, Tracey J. Guthrie,
R.N, BSN, Charles L. Roper, M.D,Joel D.
Cooper, M.D, G. Alexander Patterson, M.D
(1999). The current role of mediastinoscopy in
the evaluation of thoracic disease. J Thorac
Cardiovasc Surg;118: p894-899.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
danh_gia_ket_qua_noi_soi_trung_that_chan_doan_khoi_u_tien_ph.pdf