4. Biến chứng sau mổ
Tỷ lệ biến chứng sau phẫu thuật loét
do xạ trị thường lớn hơn so với điều trị
vết loét thông thường khác. Trong nghiên
cứu của chúng tôi biến chứng sau mổ
chiếm 50%, trong đó chủ yếu là tình trạng
nhiễm khuẩn (19,2%). Đây là phản ứng
tại chỗ sau mổ, các biến chứng này sẽ
hết khi kết hợp điều trị toàn thân và tại
chỗ tốt. Chỉ có 1 vạt hoại tử một phần và
1 vạt hoại tử toàn bộ cần phẫu thuật lại.
Kết quả này tương tự nghiên cứu của
Akira Saito trên 36 BN điều trị tổn thương
da do xạ trị, tỷ lệ biến chứng là 47,22%,
trong đó tại vùng nhận vạt có 7 BN toác
vết mổ, 5 BN nhiễm khuẩn, 4 BN hoại tử
một phần vạt, 1 BN tụ máu dưới vạt [3].
5. Kết quả điều trị gần và xa
Trong nghiên cứu có 22 BN (91,67%)
liền vết thương, chỉ có 2 BN hoại tử vạt (1
BN hoại tử toàn bộ, 1 BN hoại tử một
phần) đã được cắt bỏ hoại tử và thay vạt
khác để che phủ đều liền vết thương tốt,
tuy nhiên thời gian nằm viện kéo dài.
Theo dõi kết quả xa sau 6 và 24 tháng
chúng tôi không gặp BN nào xảy ra loét
tái phát.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 3 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá kết quả phẫu thuật chuyển vạt điều trị loét mạn tính do xạ trị tại bệnh viện bỏng quốc gia, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 3-2020
48
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHẪU THUẬT CHUYỂN VẠT ĐIỀU TRỊ
LOÉT MẠN TÍNH DO XẠ TRỊ TẠI BỆNH VIỆN BỎNG QUỐC GIA
Hoàng Thanh Tuấn1, Vũ Quang Vinh1, Trịnh Tuấn Dũng2
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá kết quả phẫu thuật chuyển vạt điều trị loét mạn tính do xạ trị. Đối tượng
và phương pháp: Nghiên cứu can thiệp lâm sàng không nhóm chứng trên 24 bệnh nhân (BN)
có tổn thương loét mạn tính do xạ trị, được điều trị tại Bệnh viện Bỏng Quốc gia từ 10/2013 -
9/2017. Kết quả: Tỷ lệ nam/nữ là 5/19, nữ chiếm 79,2%. Tuổi trung bình là 56 ± 14,57. Tổn
thương gặp nhiều nhất ở vùng ngực (12/24 BN = 50%). Kích thước ổ loét trung bình: 35,4 ±
36,8 cm2, kích thước tổn thương trung bình: 103,5 ± 76,3 cm2, kích thước tổn khuyết trung bình:
93,8 ± 76,5 cm2. Vạt che phủ sử dụng 5 vạt tại chỗ, 8 vạt có cuống liền, 11 vạt da nhánh xuyên,
1 expander và 1 vạt vi phẫu, trong đó vạt cơ lưng to và vạt nhánh xuyên động mạch mông được
sử dụng nhiều. Đóng kín nơi cho vạt: 8/20 trường hợp, 12 trường hợp cần ghép da. Tình trạng
vạt sau mổ sống hoàn toàn: 24/26 vạt, tỷ lệ biến chứng chung tại chỗ sau mổ là 50%, trong đó
1 trường hợp hoại tử một phần và 1 trường hợp hoại tử toàn bộ. Liền vết thương: 22 BN, không
liền: 2 BN, không gặp BN nào loét tái phát. Kết luận: Cần tiến hành cắt bỏ triệt để ổ loét và vùng
thâm nhiễm xơ cứng đến tổ chức lành, sau đó che phủ ngay bằng các vạt được cấp máu tốt.
* Từ khoá: Tổn thương da do xạ trị; Phẫu thuật tạo hình; Loét mạn tính do xạ trị.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Xạ trị là một biện pháp được sử dụng
chủ yếu trong điều trị ung thư, ước tính
hằng năm có hơn 60% BN ung thư cần
xạ trị [1]. Tuy nhiên, theo thống kê có tới
95% BN có biểu hiện tổn thương cấp tính
tại vùng da chiếu xạ, trong đó, 5 - 15% BN
[2] có tiến triển mạn tính dẫn đến teo đét
da, thâm nhiễm, xơ cứng, giảm hoặc mất
hoàn toàn phần phụ của da, thậm chí có
thể loét hoặc ung thư hóa Tổn thương
mạn tính sau xạ trị tiến triển âm ỉ, từ từ
do tình trạng nhiễm khuẩn, thiếu máu,
thiểu dưỡng và xơ hóa tổ chức xung quanh
làm cho tổn thương ngày càng lan rộng
và sâu xuống các cơ quan phía dưới vùng
chiếu xạ. Phẫu thuật điều trị các vết loét
do xạ trị đã có nhiều tiến bộ, tuy nhiên
hiện nay trên thế giới vẫn chưa có hướng
dẫn cụ thể cho điều trị dạng tổn thương
này và có nhiều quan điểm chưa thống
nhất về phương pháp tạo hình tối ưu để
che phủ tổn khuyết sau khi loại bỏ toàn
bộ tổn thương. Tại Việt Nam, một số tác giả
đã báo cáo kết quả về điều trị loét mạn
tính do xạ trị, tuy nhiên đa số là những
nghiên cứu hồi cứu lại kết quả điều trị.
Do vậy, chúng tôi thực hiện nghiên cứu
này nhằm: Đánh giá kết quả phẫu thuật
chuyển vạt điều trị loét mạn tính do xạ trị.
1. Bệnh viện Bỏng Quốc gia
2. Bệnh viện Trung ương Quân đội 108
Người phản hồi: Hoàng Thanh Tuấn (tuanht.vb@gmail.com)
Ngày nhận bài: 26/03/2020
Ngày bài báo được đăng: 9/4/2020
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 3-2020
49
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu lâm sàng trên 24 BN có loét
mạn tính do xạ trị được điều trị tại Bệnh
viện Bỏng Quốc gia từ 10/2013 - 9/2017.
* Tiêu chuẩn lựa chọn: BN có tổn
thương loét mạn tính sau xạ trị.
* Tiêu chuẩn loại trừ: BN đang điều trị
ung thư, không đồng ý tham gia nghiên cứu.
2. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu can thiệp lâm sàng không
nhóm chứng.
Bệnh nhân được thăm khám, đánh giá
các đặc điểm lâm sàng: Tuổi, giới, vị trí
tổn thương, kích thước ổ loét, kích thước
tổn thương, kích thước tổn khuyết.
* Các bước tiến hành phẫu thuật:
- Khám đánh giá tổn thương, dự kiến
kế hoạch phẫu thuật: Cắt bỏ tổn thương,
sử dụng vạt da.
- Xử trí tổn thương: Loại bỏ toàn bộ tổn
thương cả về chiều rộng (hết vùng thâm
nhiễm) và chiều sâu (hết xơ cứng dưới nền
tổn thương) đến tổ chức lành (mềm mại,
chảy máu). Xử trí tổn thương xương nếu có.
- Thiết kế vạt da rộng hơn tổn khuyết
10 - 20%, bóc tách vạt, xoay vạt, xử trí
vùng cho vạt.
- Đặt dẫn lưu, khâu phục hồi vết mổ.
- Chăm sóc, theo dõi toàn thân, tại chỗ
sau mổ.
* Đánh giá kết quả: Theo dõi, đánh giá
kết quả sau mổ về tình trạng vạt, nơi cho
vạt, quá trình liền vết thương, biến chứng
tại chỗ sau mổ, kết quả gần và xa về vạt
da, tình trạng loét tái phát.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Đặc điểm lâm sàng và đặc điểm
tổn thương
24 BN được phẫu thuật điều trị loét
sau xạ trị có tuổi trung bình 56 ± 14,57,
lớn nhất 80 tuổi. Tỷ lệ BN nữ chiếm
79,2%. Kích thước ổ loét trung bình:
35,4 ± 36,8 cm2, kích thước tổn thương
trung bình: 103,5 ± 76,3 cm2, kích thước
tổn khuyết trung bình: 93,8 ± 76,5 cm2.
* Vị trí tổn thương (n = 24): Thành
ngực: 12 BN (50%); vùng đầu mặt: 6 BN
(25%); tứ chi: 3 BN (12,5%) và các vùng
khác: 3 BN (12,5%). Trong 24 BN, loét
tổn thương ở vùng ngực gặp nhiều nhất,
tiếp đến là vùng đầu mặt.
2. Các phương pháp điều trị tổn thương loét mạn tính
Bảng 1: Các phương pháp phẫu thuật (n = 26).
Loại vạt n %
Vạt tại chỗ 5 19,2
Vạt có cuống liền 8 30,8
Vạt nhánh xuyên 11 42,3
Vạt vi phẫu 1 3,85
Expander 1 3,85
Tổng 26 100
Trong nghiên cứu, chúng tôi sử dụng 26 vạt da cho 24 ổ loét, trong đó vạt nhánh
xuyên và vạt có cuống là lựa chọn chủ yếu, tiếp theo là vạt tại chỗ và vạt vi phẫu.
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 3-2020
50
3. Tình trạng vùng cho vạt và vạt da
* Xử trí nơi cho vạt (n = 20): Khâu kín: 8 BN (40%); khâu thu và ghép da:
12 BN (60%).
* Tình trạng vạt (n = 26): Sống hoàn toàn: 24 vạt (92,4%); hoại tử một phần: 1 vạt
(3,8%); hoại tử toàn bộ: 1 vạt (3,8%).
4. Biến chứng sau mổ, liền vết thương
* Biến chứng tại vạt và nơi cho vạt sau mổ (n = 26): Nhiễm khuẩn: 5 BN (19,2%); rò
vết mổ: 2 BN (7,7%); toác vết mổ: 2 BN (7,7%); tụ dịch, phù nề: 2 BN (7,7%); hoại tử
một phần: 1 BN (3,85%); hoại tử toàn bộ: 1 BN (3,85%); không gặp trường hợp nào tụ
máu nơi cho và nhận vạt.
Bảng 2: Liền vết thương.
Quá trình liền vết thương n %
Kỳ đầu 14 58,33 Liền vết thương
Kỳ 2 8 33,34
91,67
Không liền 2 8,33
Tổng 24 100
Tỷ lệ liền vết thương đạt tới 91,67%, chỉ có 2 BN không liền vết mổ do hoại tử vạt.
5. Loét tái phát
Theo dõi kết quả 3, 6, 24 tháng sau ra viện, không ghi nhận trường hợp nào loét
tái phát.
MINH HOẠ LÂM SÀNG
(BN: Vũ Thị Ng., 56 tuổi. SBA: 1380)
Ảnh 1: Loét ngực trái sau xạ trị điều trị
ung thư vú 12 năm.
Ảnh 2: Sau khi cắt bỏ tổn thương.
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 3-2020
51
Ảnh 3: Thiết kế vạt cơ lưng rộng với kích
thước lớn.
Ảnh 4: Ngay sau phẫu thuật,
che phủ tổn khuyết bằng vạt cơ lưng rộng.
Ảnh 5: Sau 3 tháng, vạt liền tốt,
màu sắc hoà đồng.
Ảnh 6: Sau 6 tháng, sẹo liền tốt,
không loét tái phát.
BÀN LUẬN
1. Đặc điểm tổn thương
Trong nghiên cứu của chúng tôi, ngoài
ổ loét, hoại tử trung tâm còn gồm vùng tổ
chức thâm nhiễm rộng xung quanh với
nhiều thành phần tổn thương khác nhau.
Kích thước ổ loét lớn và vùng tổn thương
rộng. Các tổn thương loét xạ trị ở vùng
ngực gặp nhiều nhất (50%), tiếp đến là
vùng đầu mặt cổ (25%), còn lại là tứ chi
và vùng cùng cụt. Điều này được giải
thích là do trong nghiên cứu này chúng tôi
gặp phần lớn BN sau điều trị ung thư vú
và các ung thư vùng đầu mặt... Kết quả
của chúng tôi tương đương với nghiên
cứu của Akira Saito và CS (2013) trên 36
BN, trong đó tổn thương thành ngực gặp
44,4%, vùng đầu mặt cổ chiếm 33,3% [3].
2. Phẫu thuật xử trí tổn thương
Tất cả BN trong nghiên cứu đều được
phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ ổ loét, hoại tử
và vùng thâm nhiễm, sau đó tiến hành tạo
hình che phủ ngay bằng các vạt da. Khi
cắt bỏ tổn thương, chúng tôi phải lấy bỏ ổ
loét trung tâm và vùng thâm nhiễm xung
quanh ổ loét đến tổ chức lành (trên lâm
sàng được xác định là tổ chức mềm, chảy
máu khi cắt) đảm bảo cho việc cấp máu
mép vết mổ, đảm bảo liền vết thương và
hạn chế nguy cơ tái phát sau phẫu thuật.
Nghiên cứu của Fujioka và CS (2014)
cũng ghi nhận kết quả tương tự với các
vết loét sau xạ trị cần cắt bỏ toàn bộ tổn
thương, sau đó tiến hành che phủ ngay
bằng vạt da được cấp máu tốt [4]. Tuy
nhiên, tổn thương da mạn tính sau xạ trị
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 3-2020
52
tiến triển âm ỉ nhiều năm nên thường
phức tạp. Nhiều tác giả cho rằng, cắt bỏ
triệt để tổn thương do xạ trị đôi khi còn
nhiều khó khăn, đặc biệt là chiều sâu của
tổn thương. Trong nghiên cứu của chúng
tôi, nếu đáy các tổn thương chưa đến các
cơ quan, mạch máu quan trọng, chúng tôi
sẽ ưu tiên cắt bỏ hoàn toàn đáy. Tuy
nhiên, nếu tổn thương sâu tới các cơ
quan thì không thể cắt bỏ triệt để theo
chiều sâu. Đối với các trường hợp này,
theo kinh nghiệm của chúng tôi cũng như
nhiều tác giả khác trên thế giới đều
khuyến cáo cần sử dụng các vạt được
cấp máu tốt nhất để che phủ tổn khuyết
(vạt da cơ là vạt có ưu thế vừa cấp máu
tốt, vừa làm đầy chiều sâu tổn khuyết).
Đồng thời sử dụng và lưu dẫn lưu hút áp
lực âm liên tục dưới vạt sau mổ có tác
dụng giúp hút và làm sạch các tổ chức
tổn thương còn lại. Ngoài ra, cần sử dụng
kháng sinh theo kháng sinh đồ và duy trì
nhiều đợt sau mổ, trong thời gian còn dẫn
lưu, để đảm bảo quá trình liền vết thương
sau mổ được tốt nhất.
3. Phẫu thuật che phủ tổn khuyết
Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử
dụng 26 vạt, trong đó 11 vạt nhánh
xuyên, 8 vạt có cuống mạch liền, 1 vạt da
vi phẫu. Việc lựa chọn vạt che phủ phụ
thuộc vào nhiều yếu tố như vị trí, kích
thước, độ sâu cũng như tính chất và yêu
cầu tạo hình của tổn thương. Vì vậy, số
lượng vạt sử dụng trong nghiên cứu của
chúng tôi rất đa dạng. Trong đó, tổn
khuyết vùng thành ngực chiếm tỷ lệ cao
nhất (12/24 BN), trong số BN này, chúng
tôi sử dụng chủ yếu là vạt da cơ lưng to
(8 vạt) để tạo hình, che phủ tổn khuyết.
Đây là vạt có cuống mạch hằng định và
tin cậy, có thể lấy toàn bộ cuống mạch là
động mạch ngực lưng, khi lấy mất cơ
lưng rộng thì chức năng cũng không ảnh
hưởng nhiều do có sự bù trừ của cơ
ngực lớn và cơ tròn lớn. Kết quả này phù
hợp với nghiên cứu của Fujioka và CS
(2014) trên 67 BN có tổn thương vùng
ngực, trong đó vạt da cơ lưng rộng được
sử dụng nhiều nhất (34,3%) [4]. Vạt da cơ
có lượng máu nuôi dưỡng phong phú
hơn và che phủ tối ưu hơn vạt da cân nên
sẽ đem lại kết quả liền vết thương tốt,
hạn chế tỷ lệ nhiễm khuẩn do đưa kháng
sinh đến vết mổ tốt hơn. Vì vậy, vạt da cơ
là lựa chọn hàng đầu trong tạo hình che
phủ tổn khuyết.
Phẫu thuật vùng đầu mặt cổ vẫn còn là
thách thức cho phẫu thuật viên. Khi loét
do xạ trị ở đầu hoặc trong vùng giữa mặt,
vạt vi phẫu là lựa chọn hàng đầu cho
phẫu thuật tạo hình vì không có vạt có
cuống liền nào có thể tiếp cận các khu
vực xa một cách an toàn. Trong nghiên
cứu của chúng tôi, vạt vi phẫu chủ yếu
được sử dụng trong tạo hình các tổn
khuyết vùng đầu mặt cổ. Đây là những
tổn thương phức tạp, gồm nhiều thành
phần mạch máu thần kinh, lan rộng trên
nhiều đơn vị thẩm mỹ, vì vậy vạt vi phẫu
có thể che phủ tốt các cơ quan quan
trọng như mạch máu, thần kinh. Vũ Ngọc
Lâm nghiên cứu trên 15 BN sử dụng 13
vạt vi phẫu và 3 vạt có cuống điều trị loét
vùng cổ mặt sau xạ trị, trong đó sử dụng
8 vạt xương mác, 5 vạt đùi trước ngoài và
2 vạt cơ ngực lớn [5]. Amelie Bourget và
CS (2011) nghiên cứu trên 137 BN cần
phẫu thuật tạo hình vùng hàm mặt sau xạ
trị do các nguyên nhân khác nhau, các
BN này đều được chỉ định sử dụng vạt vi
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 3-2020
53
phẫu, trong đó vạt đùi trước ngoài được
sử dụng nhiều nhất (36/137 vạt), tiếp đó
là đến các vạt cánh tay ngoài, vạt xương
mác [6]. Donald P.B. [7] nghiên cứu trên
63 BN loét hoại tử xương hàm dưới sau
xạ trị, có tới 65 vạt vi phẫu và 13 vạt
cuống liền được sử dụng tạo hình sau cắt
bỏ tổn thương.
Vạt nhánh xuyên động mạch mông là
lựa chọn tối ưu trong che phủ tổn khuyết
vùng cùng cụt vì có hệ thống mạch máu
nuôi dưỡng tốt, kích thước vùng cho vạt
nhỏ, phù hợp với yêu cầu thẩm mỹ mà
không ảnh hưởng đến chức năng vùng
lấy vạt. Trong nghiên cứu của chúng tôi, 3
BN sử dụng vạt nhánh xuyên cơ mông để
che phủ ổ loét vùng cùng cụt đều ghi
nhận kết quả tốt, vết mổ lành tốt, không
phải phẫu thuật lại, không loét tái phát.
Cheon và CS (2008) đã công bố kết quả
tương tự trên 10 BN điều trị loét vùng
cùng cụt bằng sử dụng vạt có nhánh
xuyên động mạch mông [8].
Tổn thương do xạ trị có hình núi lửa,
tổn thương loét chỉ là biểu hiện ở miệng
núi lửa [9]. Trong các biện pháp điều trị,
hiệu quả cao nhất vẫn là cắt bỏ tổn
thương, che phủ bằng các vạt giàu mạch
máu nuôi dưỡng.
4. Biến chứng sau mổ
Tỷ lệ biến chứng sau phẫu thuật loét
do xạ trị thường lớn hơn so với điều trị
vết loét thông thường khác. Trong nghiên
cứu của chúng tôi biến chứng sau mổ
chiếm 50%, trong đó chủ yếu là tình trạng
nhiễm khuẩn (19,2%). Đây là phản ứng
tại chỗ sau mổ, các biến chứng này sẽ
hết khi kết hợp điều trị toàn thân và tại
chỗ tốt. Chỉ có 1 vạt hoại tử một phần và
1 vạt hoại tử toàn bộ cần phẫu thuật lại.
Kết quả này tương tự nghiên cứu của
Akira Saito trên 36 BN điều trị tổn thương
da do xạ trị, tỷ lệ biến chứng là 47,22%,
trong đó tại vùng nhận vạt có 7 BN toác
vết mổ, 5 BN nhiễm khuẩn, 4 BN hoại tử
một phần vạt, 1 BN tụ máu dưới vạt [3].
5. Kết quả điều trị gần và xa
Trong nghiên cứu có 22 BN (91,67%)
liền vết thương, chỉ có 2 BN hoại tử vạt (1
BN hoại tử toàn bộ, 1 BN hoại tử một
phần) đã được cắt bỏ hoại tử và thay vạt
khác để che phủ đều liền vết thương tốt,
tuy nhiên thời gian nằm viện kéo dài.
Theo dõi kết quả xa sau 6 và 24 tháng
chúng tôi không gặp BN nào xảy ra loét
tái phát.
KẾT LUẬN
Loét do xạ trị là biến chứng có thể gặp
sau xạ trị điều trị ung thư. Khi xuất hiện, ổ
loét thường ở trung tâm, xung quanh là
vùng thâm nhiễm xơ cứng lớn. Cần tiến
hành cắt bỏ triệt để ổ loét và vùng thâm
nhiễm xơ cứng đến tổ chức lành, sau đó
che phủ ngay bằng các vạt da được cấp
máu tốt. Các vạt lựa chọn che phủ cần đủ
lớn về kích thước và có mạch máu nuôi
dưỡng tốt nhưng cần hạn chế ảnh hưởng
chức năng tại vùng lấy vạt. Phẫu thuật
chuyển vạt điều trị loét do xạ trị cho kết
quả tương đối tốt, tỷ lệ vạt sống hoàn
toàn lên tới 92,4%. Tỷ lệ chung biến
chứng tại chỗ là 50%, trong đó có 1 vạt
hoại tử toàn bộ, 1 vạt hoại tử một phần.
Qua đó càng khẳng định: Điều trị loét da
mạn tính do xạ trị vẫn luôn là thách thức
lớn với các phẫu thuật viên vì tỷ lệ biến
chứng cao, nguy cơ nhiễm khuẩn, chậm
liền vết thương và hoại tử vạt.
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 3-2020
54
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ môn Y học Hạt nhân, Học viện Quân
y. Y học hạt nhân. Nhà xuất bản Quân đội
Nhân dân. 2010, tr.173-179.
2. Wells M. Radiation skin reactions.
Supportive Care in Radiotherapy. 2003.
3. Saito A., Saito N., Funayama E. et al.
The surgical treatment of irradiated wounds: A
report on 36 patients. Plast Surg: Int J. 2013.
4. Fujioka M. Surgical reconstruction of
radiation injuries. Advances in Wound Care.
2014, 3(1), pp.25-37.
5. Lam Vu Ngoc. Tissue necrosis in
cervico facial area after radiation therapy:
Assessment of surgical management. 2015.
6. Bourget A., Chang J.T., Wu D.B.S. et al.
Free flap reconstruction in the head and neck
region following radiotherapy: A cohort study
identifying negative outcome predictors. Plastic
and Reconstructive Surgery. 2011, 127(5),
pp.1901-1908.
7. Baumann D.P., Yu P., Hanasono M.M.
et al. Free flap reconstruction of osteoradionecrosis
of the mandible: A 10‐year review and defect
classification. Head & Neck. 2011, 33(6),
pp.800-807.
8. Cheon Y.W., Lee M.C., Kim Y.S. et al.
Gluteal artery perforator flap: A viable
alternative for sacral radiation ulcer
and osteoradionecrosis. Journal of Plastic,
Reconstructive & Anesthetic Surgery. 2010,
63(4), pp.642-647.
9. Cruz N.I., Ariya S., Miniter P. et al. An
experimental model to determine the level of
antibiotics in irradiated tissues. Plastic and
Reconstructive Surgery. 1984, 73(5), pp.811-817.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
danh_gia_ket_qua_phau_thuat_chuyen_vat_dieu_tri_loet_man_tin.pdf