Kết quả phẫu thuật.
Chúng tôi thấy tỷ lệ kẹt van do huyết
khối cao nhất (56%), do pannus thấp nhất
(4%), kết hợp 2 nguyên nhân chiếm 40%.
Theo thống kê của Deviri: 78% kẹt van do
huyết khối, 8,7% do pannus và 11,6% do
cả 2 nguyên nhân kết hợp [1]. Như vậy,
huyết khối là nguyên nhân hàng đầu gây
kẹt van. Về lý do hình thành pannus,
nhiều ý kiến cho rằng phản ứng sinh học
xảy ra đối với vật liệu nhân tạo đã làm
tăng sinh sợi xơ, collagen kèm theo xâm
nhập tế bào nội mô, dẫn đến hình thành
các sợi tơ huyết trên bề mặt vòng van
nhân tạo. Cục máu đông có thể xảy ra thứ
phát trên nền pannus [1, 5]. Trong nghiên
cứu này, tại vị trí van động mạch chủ, trong
3 BN kẹt van, 2 BN do pannus, trường
hợp còn lại do pannus kết hợp huyết khối.
Vitale cho rằng van động mạch chủ nhân
tạo cơ học ít có nguy cơ bị kẹt do huyết
khối, nhưng lại gặp hiện tượng pannus
nhiều hơn so với van hai lá [2]. Trong
nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ kẹt van hai
lá cơ học 84%, van động mạch chủ 12%;
tỷ lệ tương tự của Roudaut (62,2%;
37,8%) [2], của Barbetseas là 58,3% và
41,7% [3]. Có lẽ, tại vị trí van động mạch
chủ, tốc độ dòng máu lớn nên khả năng
hình thành huyết khối thấp hơn so với vị
trí van hai lá, vì thế tỷ lệ kẹt van thấp hơn.
Điều trị phẫu thuật kẹt van nhân tạo cơ
học gồm: thay lại van, lấy bỏ huyết khối
hoặc pannus. Việc lựa chọn phương
pháp phẫu thuật phụ thuộc vào nhiều yếu
tố như tình trạng tổn thương tại van, kinh
nghiệm phẫu thuật viên, khả năng tuân
thủ điều trị của BN Trong nghiên cứu
này, chúng tôi thay lại van cho 17 BN
(68%), lấy bỏ huyết khối cho 7 BN (28%),
lấy bỏ pannus cho 1 BN (4%). Đặc biệt ở
17 BN thay lại van, 5 BN thay lại bằng
van sinh học, trong đó 1 BN xuất huyết
tiêu hóa nặng trước thời điểm kẹt van,
1 BN khác sống ở miền núi, trước khi vào
viện cấp cứu vì kẹt van cơ học, BN đã
ngừng uống thuốc chống đông 1 tháng do
hết thuốc. Theo chúng tôi, yếu tố vùng
miền và khả năng tuân thủ điều trị của
người mang van tim nhân tạo cơ học
cũng là một yếu tố quyết định lựa chọn
phương pháp phẫu thuật.
Theo Roudaut và CS, tỷ lệ tử vong sau
phẫu thuật là 10,3% ở BN NYHA III-IV và
4,7% với NYHA I-II [5]. Trong nghiên cứu
này, 25 BN được phẫu thuật nhưng
không có tử vong, mặc dù phần lớn BN
nhập viện trong tình trạng NYHA III-IV và
có 3 BN phù phổi cấp. Có được kết quả
này là do ngay sau khi nghi ngờ kẹt van,
BN được tiến hành chẩn đoán ngay, chỉ
định phẫu thuật kịp thời, có sự phối hợp
nhịp nhàng giữa phẫu thuật, gây mê, tuần
hoàn ngoài cơ thể và hồi sức. Quá trình
phẫu thuật của chúng tôi diễn ra an toàn,
không gặp tai biến nào đáng kể. 5 BN bị
viêm phổi trong quá trình hậu phẫu là do
BN nằm thở máy dài ngày.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 43 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá kết quả phẫu thuật kẹt van tim nhân tạo cơ học tại bệnh viện tim Hà Nội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 2-2018
71
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHẪU THUẬT KẸT VAN TIM
NHÂN TẠO CƠ HỌC TẠI BỆNH VIỆN TIM HÀ NỘI
Nguyễn Sinh Hiền*; Nguyễn Khánh**
TÓM TẮT
Mục tiêu: phân tích chỉ định và đánh giá kết quả bước đầu trong điều trị phẫu thuật ở BN kẹt
van tim nhân tạo cơ học tại Bệnh viện Tim Hà Nội. Đối tượng và phương pháp: từ tháng 11 -
2014 đến 11 - 2017, 25 bệnh nhân (BN) kẹt van nhân tạo cơ học được phẫu thuật tại Bệnh viện
Tim Hà Nội. Kết quả: tuổi trung bình 44 ± 10 (26 - 59 tuổi); mức độ khó thở: NYHA I-II: 8 BN
(32%), NYHA III-IV: 17 BN (68%); phù phổi cấp 3 BN (12%); rung nhĩ 11 BN (44%); chỉ số INR
không nằm trong vùng điều trị 22 BN (88%); nguyên nhân kẹt van: huyết khối 14 BN (56%),
pannus 1 BN (4%), huyết khối + pannus 10 BN (40%); kích thước huyết khối 0,92 ± 0,6 (0,12 -
2,4 cm2). Phương pháp phẫu thuật: thay lại van cơ học 12 BN (48%), thay lại van sinh học 5 BN
(20%), lấy bỏ huyết khối 7 BN (28%), lấy bỏ pannus 1 BN (4%); Biến chứng: viêm phổi 5 BN
(20%), tử vong 0 BN. Kết luận: kẹt van tim nhân tạo cơ học là biến chứng ít gặp nhưng nghiêm
trọng. Nguyên nhân kẹt van thường do huyết khối gây ra. Việc chẩn đoán sớm và điều trị kịp
thời sẽ mang lại kết quả tốt.
* Từ khóa: Kẹt van nhân tạo cơ học; Huyết khối; Pannus.
Evaluate Result of Surgical Treatment of Prosthetic Heart Valve
Obstruction at Hanoi Heart Hospital
Summary
Objectives: To analyze indication and evaluate result surgical treatment of prosthetic heart
valve obstruction (PHVO) at Hanoi Heart Hospital. Subjects and method: 25 cases of PHVO
were operated from 11 - 2014 to 11 - 2017 at Hanoi Heart Hospital. Results: The mean age 44 ±
10 (26 - 59 years old); NYHA I-II: 8 patients (32%), NYHA III-IV: 17 patients (68%); acute
pulmonary oedema: 3 patients (12%); atrial fibrillation: 11 patients (44%); INR not in treatment’s
area 22 patients (88%); cause of PHVO: thrombus 14 patients (56%), pannus: 1 patients (4%),
thrombus + pannus: 10 patients (40%); thrombus size 0.92 ± 0.6 (0.12 - 2.4 cm2); operation:
valve re-replacement: mechanical valve 12 patients (48%), biological valve: 5 patients (20%),
thrombectomy: 7 patients (28%), remove pannus: 1 patients (4%); complication: pneumonia:
5 patients (20%), mortality: 0 patients. Conclusion: Although PHVO is rare, it is a serious
complication. The most common cause of PHVO is thrombus. Early diagnosis and timely
treatment bring good results.
* Keywords: Prosthetic heart valve obstruction; Thrombus; Pannus.
* Bệnh viện Tim Hà Nội
** Bệnh viện Quân y 103
Người phản hồi (Corresponding): Nguyễn Sinh Hiền (nguyensinhhien@gmail.com)
Ngày nhận bài: 08/11/2017; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 06/01/2018
Ngày bài báo được đăng: 25/01/2018
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 2-2018
72
ĐẶT VẤN ĐỀ
Kẹt van là biến chứng ít gặp nhưng
nghiêm trọng, ảnh hưởng đến tính mạng
BN mang van tim nhân tạo. Nguyên nhân
gây kẹt van là do hình thành huyết khối
tại van hoặc pannus (hiện tượng tăng
sinh nội mạc quá mức phủ trùm lên van),
hoặc kết hợp cả hai. Ngay cả những BN
dùng thuốc chống đông đúng liều và đầy
đủ, vẫn có tỷ lệ kẹt van dao động từ 1 -
2,3%, tùy theo nghiên cứu. Việc chẩn
đoán kẹt van cơ học giai đoạn sớm chủ
yếu dựa trên khám xét cận lâm sàng như
siêu âm tim qua thành ngực, qua thực
quản, soi huỳnh quang động Bên cạnh
đó, việc chẩn đoán phân biệt giữa kẹt van
do huyết khối hay do pannus cũng là một
vấn đề khó khăn nhưng cần thiết [6].
Điều trị kẹt van nhân tạo cơ học gồm
2 phương pháp: thuốc tiêu sợi huyết hoặc
phẫu thuật. Trong đó, dùng thuốc tiêu sợi
huyết ngày nay được ưa dùng hơn do tỷ
lệ thành công cao và đơn giản hơn so với
phẫu thuật. Tuy nhiên, đối với pannus,
điều trị bằng thuốc không có giá trị, đòi
hỏi phải phẫu thuật thay lại van. Lựa chọn
phương pháp điều trị kẹt van nhân tạo cơ
học phụ thuộc vào kích thước huyết khối
và tình trạng lâm sàng [7].
Nghiên cứu này nhằm: Phân tích chỉ
định và kết quả bước đầu trong điều trị phẫu
thuật ở BN kẹt van tim nhân tạo cơ học.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu mô tả cắt ngang, hồi cứu
kết hợp tiến cứu, không đối chứng.
* Tiêu chuẩn lựa chọn:
Tất cả BN không phân biệt tuổi, giới,
được chẩn đoán kẹt van tim nhân tạo cơ
học (hai lá, động mạch chủ), điều trị bằng
phẫu thuật tại Bệnh viện Tim Hà Nội từ
tháng 11 - 2014 đến 11 - 2017.
* Tiêu chuẩn loại trừ:
Hồ sơ bệnh án không ghi nhận đầy đủ
các biến số cần cho nghiên cứu.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
25 BN trong mẫu nghiên cứu với kết
quả như sau.
Bảng 1: Đặc điểm BN trước mổ.
Đặc điểm Kết quả
Giới:
Nam
Nữ
6 (24%)
19 (76%)
Tuổi 44 ± 10 (26 - 59)
Thời gian từ lúc mổ đến
khi kẹt van:
1 - 6 tháng
6 - 24 tháng
> 24 tháng
3 (12%)
10 (40%)
12 (48%)
Khó thở:
NYHA I, II
NYHA III, IV
8 (32%)
17 (68%)
Rung nhĩ 11 (44%)
Nhịp xoang 14 (56%)
Phù phổi cấp 3 (12%)
* Chỉ số INR của BN tại thời điểm nhập
viện:
INR: < 2,5: 17 BN (68%); 2,5 - 3,5: 3 BN
(12%); > 3,5: 5 BN (20%).
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 2-2018
73
Bảng 2: Đặc điểm trên siêu âm tim trước mổ.
Nguyên nhân Van hai lá Van động mạch chủ
Huyết khối
Pannus
Huyết khối + pannus
19 (70%)
1 (5%)
1 (5%)
1 (5%)
2 (10%)
1 (5%)
Chênh áp tối đa (mmHg) 34 ± 10 (19 - 51) 94 ± 21 (71 - 111)
Chênh áp trung bình (mmHg) 24 ± 8 (10 - 37) 56 ± 11 (45 - 68)
Phân suất tống máu (%) 55 ± 12 (31 - 78) 64 ± 3 (61 - 68)
Kích thước huyết khối (cm2)
> 0,8 cm2
< 0,8 cm2
Không đo được
0,92 ± 0,6 (0,12 - 2,4)
10
7
3
Bảng 3: Nguyên nhân kẹt van phát hiện trong phẫu thuật.
Vị trí kẹt van
Nguyên nhân
Van hai lá Van động mạch
chủ Cả 2 van Tổng
Huyết khối 12 1 1 14 (56%)
Pannus 0 1 0 1 (4%)
Kết hợp cả hai 9 1 0 10 (40%)
Tổng 21 (84%) 3 (12%) 1 (4%) 25
* Phương pháp phẫu thuật:
Thay lại van: van cơ học: 12 BN (48%); van sinh học: 5 BN (20%); lấy bỏ huyết
khối: 7 BN (68%); lấy bỏ pannus: 1 BN (4%).
* Kết quả phẫu thuật:
- Thời gian cặp động mạch chủ: 62 ± 23 phút (26 - 123 phút); thời gian chạy CEC: 108
± 60 phút (53 - 300 phút).
- Thời gian thở máy: 44 ± 40 giờ (2 - 152 giờ); thời gian hậu phẫu: 14 ± 7 ngày
(8 - 35 ngày).
- Thành công: 100%; tử vong: 0 BN; biến chứng: viêm phổi: 5 BN (20%); chảy máu:
0 BN; khác: 0 BN.
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 2-2018
74
BÀN LUẬN
Kẹt van tim là biến chứng ít gặp nhưng
nếu không được phát hiện và xử trí kịp
thời sẽ gây nguy hiểm cho tính mạng của
người mang van tim nhân tạo. Nghiên
cứu của chúng tôi tổng kết 25 trường hợp
kẹt van tim được điều trị phẫu thuật tại
Bệnh viện Tim Hà Nội trong 3 năm.
1. Đặc điểm lâm sàng và chẩn đoán.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, đặc
điểm về tuổi, giới, thời gian phát hiện kẹt
van không khác biệt so với các nghiên
cứu khác [4, 6]. Triệu chứng lâm sàng
của kẹt van không đặc hiệu. BN đến
muộn có dấu hiệu nổi bật là khó thở, mệt
mỏi do van nhân tạo gián đoạn hoạt động
ít hay nhiều. Tỷ lệ NYHA III-IV chiếm đến
68%, trong đó 3 BN nhập viện trong tình
trạng phù phổi cấp. Kết quả này tương tự
nghiên cứu của Roudaut và CS [5].
Những yếu tố thuận lợi gây kẹt van được
nhắc tới là: rung nhĩ, tình trạng tăng đông,
đề kháng thuốc chống đông máu đường
uống, đặc biệt người bệnh không tuân thủ
sử dụng thuốc chống đông theo hướng
dẫn. Trong nghiên cứu này, 5% BN rung
nhĩ phát hiện lúc vào viện (3 BN mới xuất
hiện); chỉ số INR của BN lúc nhập viện
< 2,5 chiếm 68%, chứng tỏ đa số BN kẹt
van là do dùng thuốc chống đông không
đạt yêu cầu, tạo điều kiện cho hình thành
huyết khối, tương tự kết quả của các
nghiên cứu khác [5, 6].
Cũng như đa số các nghiên cứu,
chúng tôi chẩn đoán xác định kẹt van tim
cơ học dựa vào hình ảnh siêu âm tim. Có
thể dễ dàng xác định tình trạng hoạt động
của các cánh van là hoàn toàn hay không
hoàn toàn, mức chênh áp qua van là bao
nhiêu, có huyết khối hay không và tình
trạng tăng sinh pannus. Đa số BN chỉ cần
siêu âm qua thành ngực đã xác định
được kẹt van. Tuy nhiên, một số trường
hợp khi van kẹt không hoàn toàn, cần xác
định qua siêu âm thực quản. Một số tác
giả lấy siêu âm thực quản làm tiêu chuẩn
vàng trong nghiên cứu của mình [4, 5].
Chúng tôi gặp huyết khối gây kẹt van
75%, pannus 15%, kết hợp 2 nguyên
nhân trên 10%. Việc xác định nguyên
nhân gây kẹt van cơ học do huyết khối
hay pannus là vấn đề khó khăn, nhưng
rất quan trọng vì liên quan đến lựa chọn
phương pháp điều trị. Theo Barbetseas,
hình ảnh pannus trên siêu âm tim thường
nhỏ, tăng âm so với huyết khối và khoảng
30% BN không có hình ảnh rõ ràng; huyết
khối có độ cản âm tương tự như cơ tim,
thấp hơn so với pannus và có kích thước
lớn hơn pannus [4]. Chênh áp qua van
nhân tạo cao cũng là yếu tố gợi ý kẹt van.
Trong nghiên cứu này, chênh áp trung
bình ở BN kẹt van hai lá cơ học 24 ± 8
mmHg (10 - 37 mmHg), còn ở van động
mạch chủ cơ học là 56 ± 11 mmHg (45 -
68 mmHg). Kết quả này tương tự nghiên
cứu của Roudaut [3]. Tác giả cho rằng
cần nghĩ tới kẹt van khi chênh áp trung
bình ở van hai lá cơ học > 8 mmHg và ở
van động mạch chủ cơ học > 45 mmHg.
2. Chỉ định phẫu thuật.
Điều trị kẹt van nhân tạo cơ học dựa
trên nhiều yếu tố như tình trạng lâm sàng,
nguyên nhân, vị trí kẹt van... Khuyến cáo
của Hội Tim mạch New York về chỉ định
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 2-2018
75
phẫu thuật đối với kẹt van nhân tạo cơ
học:
- Kẹt van cơ học do pannus hoặc
huyết khối với kích thước huyết khối
> 0,8 cm2.
- Tình trạng lâm sàng nặng (NYHA IV,
phù phổi cấp).
- Chống chỉ định hoặc thất bại với điều
trị bằng tiêu sợi huyết.
- Huyết khối tái phát sau điều trị bằng
tiêu sợi huyết [1, 6].
Chỉ định phẫu thuật BN kẹt van trong
mẫu nghiên cứu của chúng tôi tương
đồng với khuyến cáo trên: 68% BN nhập
viện có NYHA III-IV, 3 BN phù phổi cấp,
những trường hợp khác có huyết khối
> 0,8 cm2; trong 7 BN có kích thước huyết
khối < 0,8 cm2, 1 BN có tiền sử xuất huyết
não, 2 BN tái phát kẹt van do huyết khối,
các trường hợp khác nghi ngờ kẹt do
pannus. Tỷ lệ NYHA III-IV trong nghiên
cứu của Roudaut là 62,5% [3]. Tác giả
cho rằng, huyết khối mạn tính, nếu điều trị
bằng tiêu sợi huyết, khả năng thành công
rất thấp. G Huang cũng cho rằng huyết
khối mạn tính được coi như pannus và
đáp ứng với điều trị bằng tiêu sợi huyết
không hiệu quả [6].
3. Kết quả phẫu thuật.
Chúng tôi thấy tỷ lệ kẹt van do huyết
khối cao nhất (56%), do pannus thấp nhất
(4%), kết hợp 2 nguyên nhân chiếm 40%.
Theo thống kê của Deviri: 78% kẹt van do
huyết khối, 8,7% do pannus và 11,6% do
cả 2 nguyên nhân kết hợp [1]. Như vậy,
huyết khối là nguyên nhân hàng đầu gây
kẹt van. Về lý do hình thành pannus,
nhiều ý kiến cho rằng phản ứng sinh học
xảy ra đối với vật liệu nhân tạo đã làm
tăng sinh sợi xơ, collagen kèm theo xâm
nhập tế bào nội mô, dẫn đến hình thành
các sợi tơ huyết trên bề mặt vòng van
nhân tạo. Cục máu đông có thể xảy ra thứ
phát trên nền pannus [1, 5]. Trong nghiên
cứu này, tại vị trí van động mạch chủ, trong
3 BN kẹt van, 2 BN do pannus, trường
hợp còn lại do pannus kết hợp huyết khối.
Vitale cho rằng van động mạch chủ nhân
tạo cơ học ít có nguy cơ bị kẹt do huyết
khối, nhưng lại gặp hiện tượng pannus
nhiều hơn so với van hai lá [2]. Trong
nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ kẹt van hai
lá cơ học 84%, van động mạch chủ 12%;
tỷ lệ tương tự của Roudaut (62,2%;
37,8%) [2], của Barbetseas là 58,3% và
41,7% [3]. Có lẽ, tại vị trí van động mạch
chủ, tốc độ dòng máu lớn nên khả năng
hình thành huyết khối thấp hơn so với vị
trí van hai lá, vì thế tỷ lệ kẹt van thấp hơn.
Điều trị phẫu thuật kẹt van nhân tạo cơ
học gồm: thay lại van, lấy bỏ huyết khối
hoặc pannus. Việc lựa chọn phương
pháp phẫu thuật phụ thuộc vào nhiều yếu
tố như tình trạng tổn thương tại van, kinh
nghiệm phẫu thuật viên, khả năng tuân
thủ điều trị của BN Trong nghiên cứu
này, chúng tôi thay lại van cho 17 BN
(68%), lấy bỏ huyết khối cho 7 BN (28%),
lấy bỏ pannus cho 1 BN (4%). Đặc biệt ở
17 BN thay lại van, 5 BN thay lại bằng
van sinh học, trong đó 1 BN xuất huyết
tiêu hóa nặng trước thời điểm kẹt van,
1 BN khác sống ở miền núi, trước khi vào
viện cấp cứu vì kẹt van cơ học, BN đã
ngừng uống thuốc chống đông 1 tháng do
hết thuốc. Theo chúng tôi, yếu tố vùng
miền và khả năng tuân thủ điều trị của
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 2-2018
76
người mang van tim nhân tạo cơ học
cũng là một yếu tố quyết định lựa chọn
phương pháp phẫu thuật.
Theo Roudaut và CS, tỷ lệ tử vong sau
phẫu thuật là 10,3% ở BN NYHA III-IV và
4,7% với NYHA I-II [5]. Trong nghiên cứu
này, 25 BN được phẫu thuật nhưng
không có tử vong, mặc dù phần lớn BN
nhập viện trong tình trạng NYHA III-IV và
có 3 BN phù phổi cấp. Có được kết quả
này là do ngay sau khi nghi ngờ kẹt van,
BN được tiến hành chẩn đoán ngay, chỉ
định phẫu thuật kịp thời, có sự phối hợp
nhịp nhàng giữa phẫu thuật, gây mê, tuần
hoàn ngoài cơ thể và hồi sức. Quá trình
phẫu thuật của chúng tôi diễn ra an toàn,
không gặp tai biến nào đáng kể. 5 BN bị
viêm phổi trong quá trình hậu phẫu là do
BN nằm thở máy dài ngày.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu 25 BN được phẫu
thuật tại Bệnh viện Tim Hà Nội, chúng tôi
nhận thấy kẹt van tim nhân tạo cơ học là
một biến chứng ít gặp, nhưng nghiêm
trọng, BN chủ yếu vào viện trong tình
trạng cấp cứu hoặc tối khẩn cấp. Nguyên
nhân kẹt van thường do huyết khối và
yếu tố nguy cơ lớn do việc không tuân thủ
điều trị thuốc chống đông sau phẫu thuật.
Vấn đề chẩn đoán nguyên nhân cũng
như đánh giá tình trạng hoạt động của
van nhân tạo góp phần quan trọng vào
lựa chọn phương thức điều trị. Điều trị
sớm, lựa chọn phương pháp chính xác,
kịp thời sẽ mang lại kết quả tốt cho người
bệnh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ehud Deviri. Obstruction of mechanical
heart valve prostheses: Clinical aspects and
surgical management. lACC. 1991, 17 (3),
pp.646-650.
2. Roudaut R. Surgery for prosthetic valve
obstruction. A single center study of 136
patients. European Journal of Cardio-Thoracic
Surgery. 2006, Vol 24, pp.868-872.
3. Caceres-Loriga F.M et al. Prosthetic
heart valve thrombosis: pathogenesis, diagnosis
and management. Int J Cardiol. 2006, 110 (1),
pp.1-6.
4. Roudaut R et al. Management of
prosthetic heart valve obstruction: Fibrinolysis
versus surgery. Early results and long-term
follow-up in a single-centre study of 263
cases. Arch Cardiovasc Dis. 2009, 102 (4),
pp.269-277.
5. Huang G et al. Treatment of obstructive
thrombosed prosthetic heart valve. J Am Coll
Cardiol. 2013, 62 (19), pp.1731-1736.
6. Separham A et al. Prosthetic valve
thrombosis. J Card Surg. 2015, 30 (3),
pp.246-250.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
danh_gia_ket_qua_phau_thuat_ket_van_tim_nhan_tao_co_hoc_tai.pdf