Đặt vấn đề
Trên thế giới, tỷ lệ chấn thương mắt ở những nước công nghiệp phát
triển có xu hướng giảm dần do sự phát triển của công cụ lao động cũng như
ý thức của người lao động. Tại Mỹ, chấn thương mắt là nguyên nhân gây mù
đứng hàng thứ hai sau đục TTT. Năm 1980, theo Hiệp hội phòng chống mù
loà Mỹ, có 938,000 trường hợp chấn thương măt và có đến 75% số ca chấn
thương bị mù (thị lực dưới 20/200).
Chấn thương mắt ở nước ta vẫn còn là một vấn đề thời sự. Theo thống
kê của Bệnh viện Mắt TP. Hồ Chí Minh được báo cáo năm 2002, trong 3
năm 1999-2001 có 4097 mắt (4009 bệnh nhân) bị chấn thương, trong đó tai
nạn sinh hoạt chiếm tỷ lệ cao nhất, 64,51%, và có đến 6,7% bị lệch TTT.
Điều trị đục lệch TTT do chấn thương còn gặp nhiều khó khăn: phải
lấy TTT ra vì nó có thể gây viêm màng bồ đào, glaucoma(1,2,5). Tuy nhiên,
sau đó mắt chấn thương giảm thị lực và bệnh nhân mất thị giác hai mắt do
không có TTT. Vấn đề đặt ra là phải đặt được TTT nhân tạo vào sau khi lấy
TTT chấn thương ra. Nhiều kỹ thuật lấy TTT đã được áp dụng như lấy TTT
trong bao (không đặt kinh nội nhãn), lấy TTT ngoài bao (hạn chế ở chỉ định:
TTT không lệch nhiều, phẫu thuật viên nhiều kinh nghiệm), cắt
TTT (3,4,6,9,10) Chúng tôi áp dụng phương pháp lấy TTT trong bao và khâu
treo kính nội nhãn vào củng mạc nhằm phục hồi thị lực của mắt chấn thương
và thị giác hai mắt cho bệnh nhân.
16 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 2255 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá kết quả phẫu thuật lấy thể thủy tinh trong bao cố đinh kính nội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHẪU THUẬT LẤY THỂ THỦY TINH
TRONG BAO CỐ ĐINH KÍNH NỘI NHÃN VÀO CỦNG MẠC
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá kết quả của phương pháp khâu treo kính nội nhãn
vào củng mạc trong điều trị đục bán lệch thể thuỷ tinh do chấn thương
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu cắt
dọc không so sánh thực hiện trên 46 mắt (46 bệnh nhân) bị đục lệch thể thuỷ
tinh do chấn thương với mức độ đứt dây chằng Zinn ≤ 150o; tiến hành tại
khoa Tổng hợp 1 và khoa Bán công kỹ thuật cao thuộc Bệnh viện Mắt TP.
Hồ Chí Minh từ tháng 1 đến tháng 12 năm 2004.
Kết quả: Sau 6 tháng theo dõi, có 76,7% bệnh nhân có thị lực ≥ 5/10,
chỉ có 2,3% số bệnh nhân có thị lực ≤ 1/10. Biến chứng có tỷ lệ rất thấp, hầu
hết là thoáng qua và đáp ứng tốt với điều trị nội khoa: có 4,3% bệnh nhân có
bong võng mạc, 4,3% bệnh nhân phải phẫu thuật cắt bè củng mạc do nhãn
áp không điều chỉnh được với thuốc.
Kết luận: Phẫu thuật lấy thể thuỷ tinh trong bao và khâu treo kính nội
nhãn vào củng mạc để điều trị đục lệch thể thuỷ tinh do chấn thương có hiệu
quả tốt, tỷ lệ biến chứng thấp.
ABSTRACT
TO EVALUATE THE OUTCOMES OF ICCE AND SCLERAL –
FIXATED INTRAOCULAR LENS IMPLANTATION FOR THE
MANAGEMENT OF LUXATED CATARACT
CAUSED BY TRAUMATIC
Tran Thi Phuong Thu * Y Hoc TP. Ho Chi Minh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 11 – Supplement of No 3 - 2007: 24
- 28
Purpose: To evaluate the outcomes of ICCE and scleral – fixated
intraocular lens implantation for the management of luxated cataract caused
by traumatic
Setting: Ho Chi Minh city Eye Hospital, Vietnam
Methods: This is a longitudinal prospective study. 46 luxated
cataracts (46 patients) with zonular dialysis less than 150 degrees caused by
traumatic were operated with ICCE and scleral – fixated intraocular lens
implantation. The outcomes such as BCVA and complications were
evaluated.
Results: At the time of 6 months after operated, 76,7% patients had
BCVA ≥ 5/10, only 2,3% patients had BCVA ≤ 1/10. Complications were
very low in rate and transient: 4,3% patients had retinal detachment, 4,3%
had trabeculectomy
Conclusion: The outcomes of ICCE and scleral – fixated intraocular
lens implantation for the management of luxated cataract caused by
traumatic were very good and the complications were very low in rate and
transent.
ĐẶT VẤN ĐỀ
* Bộ môn Mắt Đại học Y dược TP.HCM, Bệnh viện Mắt TP.HCM
Trên thế giới, tỷ lệ chấn thương mắt ở những nước công nghiệp phát
triển có xu hướng giảm dần do sự phát triển của công cụ lao động cũng như
ý thức của người lao động. Tại Mỹ, chấn thương mắt là nguyên nhân gây mù
đứng hàng thứ hai sau đục TTT. Năm 1980, theo Hiệp hội phòng chống mù
loà Mỹ, có 938,000 trường hợp chấn thương măt và có đến 75% số ca chấn
thương bị mù (thị lực dưới 20/200).
Chấn thương mắt ở nước ta vẫn còn là một vấn đề thời sự. Theo thống
kê của Bệnh viện Mắt TP. Hồ Chí Minh được báo cáo năm 2002, trong 3
năm 1999-2001 có 4097 mắt (4009 bệnh nhân) bị chấn thương, trong đó tai
nạn sinh hoạt chiếm tỷ lệ cao nhất, 64,51%, và có đến 6,7% bị lệch TTT.
Điều trị đục lệch TTT do chấn thương còn gặp nhiều khó khăn: phải
lấy TTT ra vì nó có thể gây viêm màng bồ đào, glaucoma(1,2,5). Tuy nhiên,
sau đó mắt chấn thương giảm thị lực và bệnh nhân mất thị giác hai mắt do
không có TTT. Vấn đề đặt ra là phải đặt được TTT nhân tạo vào sau khi lấy
TTT chấn thương ra. Nhiều kỹ thuật lấy TTT đã được áp dụng như lấy TTT
trong bao (không đặt kinh nội nhãn), lấy TTT ngoài bao (hạn chế ở chỉ định:
TTT không lệch nhiều, phẫu thuật viên nhiều kinh nghiệm), cắt
TTT…(3,4,6,9,10) Chúng tôi áp dụng phương pháp lấy TTT trong bao và khâu
treo kính nội nhãn vào củng mạc nhằm phục hồi thị lực của mắt chấn thương
và thị giác hai mắt cho bệnh nhân.
Hình 1: Đục lệch TTT do chấn thương
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu tiến cứu cắt dọc không so sánh được thực hiện trên 46
bệnh nhân (46 mắt) đục lệch thể thủy tinh do chấn thương với mức độ đứt
dây chằng Zinn ≤ 150o, tiến hành tại khoa Tổng hợp và khoa Bán công kỹ
thuật cao thuộc Bệnh viện Mắt thành phố Hồ Chí Minh từ ngày 02 tháng 01
đến ngày 31 tháng 12 năm 2004. Tất cả bệnh nhân được tiến hành lấy TTT
trong bao và khâu treo kính nội nhãn (KNN) (hiệu CZ 70BD của hãng
Alcon, kính có 2 lỗ ở đầu haptic) vào củng mạc (TCM) bằng chỉ Prolene®
10-0 Alcon. Các kết quả về thị lực, nhãn áp, các biến chứng trong và sau
mổ… được theo dõi đến 6 tháng sau mổ.
KẾT QUẢ
Có 46 bệnh nhân tham gia nghiên cứu (46 mắt).
Đặc điểm dịch tễ nhóm nghiên cứu
Tuổi trung bình là 46,2 ± 15,4
Tỷ lệ nam/ nữ là 32/14; nam chiếm 69,6%, nữ chiếm 30,4%
Thời gian chấn thương trung bình là 40 tháng, trong đó sớm nhất là 1
tháng, muộn nhất là 30 năm
Nguyên nhân chấn thương: đa số là tai nạn sinh hoạt, chiếm 60,9%,
các nguyên nhân khác như tai nạn lao động (32,6%), tai nạn giao thông
(2,2%), tai nạn thể thao (4,4%)
Mức độ đứt dây chằng Zinn trung bình là 90o, trong đó ca đứt nhiều
nhất là 150o, ca đứt ít nhất là 75o. Vị trí đứt đa số ở 3-6 giờ và 6-9 giờ (tỷ lệ
lần lượt là 37% và 30,4%). Các vị tí khác như 12-3 giờ (23,9%), 9-12 giờ
(8,7%)
Phần lớn các trường hợp có độ cứng nhân mức độ 2 và 3, chiếm
93,5% (theo phân loại độ cứng nhân theo S. Milazzo P. Turut), độ 4 chiếm
6,5%
Thị lực trước mổ đa số ≤ 1/10, chiếm 91,3%, trong đó có đến 50% số ca
có thị lực ≤ ĐNT 1m.
Nhãn áp trung bình trước mổ là 18,9 ± 2,5 mmHg.
Kết quả sau mổ
Thị lực LogMar trung bình trước và sau mổ
Bảng 1: Thị lực trung bình trước và sau mổ (logMar):
Thời
gian
Trướ
c mổ
Sa
u mổ
1
ngày
Sa
u mổ
1
tuần
Sa
u mổ 1
tháng
Sa
u mổ
3
tháng
Sa
u mổ
6
tháng
Trun
g bình
1,57
0,6
7
0,5
1
0,4
0
0,2
7
0,2
2
Độ
lệch chuẩn
0,58
0,6
3
0,4
7
0,4
0
0,2
7
0,2
4
Biểu đồ 1: So sánh thị lực trung bình (logMar) trước và sau mổ
Thị lực sau mổ theo dõi trong 6 tháng
Bảng 2: Tỷ lệ thị lực ≥ 5/10 và ≤ 1/10:
%
Thị lực ≥
5/10
%
Thị lực ≤
1/10
Trước
mổ
2,2 91,3
Sau mổ
1 tuần
54,3 21,7
Sau mổ
1 tháng
54,5 11,4
Sau mổ
3 tháng
67,4 4,3
Sau mổ
6 tháng
76,7 2,3
Nhãn áp trước và sau mổ
Bảng 3: Nhãn áp trung bình truớc và sau mổ:
Thời
gian
Trước
mổ
Sau
mổ 1 tuần
Sau
mổ 1 tháng
Sau
mổ 3 tháng
Trung 18,9 19,42 18,16 18,14
bình
Độ
lệch chuẩn
2,5 3,6 3,4 3,6
Biểu đồ 2: Nhãn áp trung bình trước và sau mổ:
Biến chứng trong mổ
Bảng 4: Biến chứng trong mổ:
Biến chứng
Không 0
Có 46 (100%)
Xuất huyết
TP
Thoát dịch
kính
2
46
Biến chứng sớm sau mổ (1 tháng)
Bảng 5: Biến chứng sớm sau mổ (≤ 1 tháng)
Biến chứng
Không 21 (45,7%)
Có 25 (54,3%)
Phù giác
mạc
Tăng
nhãn áp
Viêm
màng bồ đào
Viêm dịch
kính
Bong
võng mạc
Viêm mủ
nội nhãn
6
8
2
7
2
0
Biến chứng muộn sau mổ (sau 1 tháng)
Bảng 6: Biến chứng muộn sau mổ (≥ 1 tháng):
Biến chứng
Không 40 (86,9%)
Có 6 (13,1%)
Phù hoàng
điểm
Tăng nhãn áp
CBCM
Viêm màng
bồ đào
Bong võng
mạc
Viêm mủ nội
nhãn
2
2
0
2
0
BÀN LUẬN
Kỹ thuật lấy TTT trong bao đã đươc mô tả và áp dụng từ thời cổ đại.
Năm 1957, Baracque đã tiến hành lấy TTT trong bao bằng cách dùng men ly
giải dây chằng Zinn. Năm 1961, KrawicZ (Ba Lan) dùng đầu lạnh đông để
lấy TTT trong bao. Ở Việt Nam, kỹ thuật này đã được ứng dụng vào những
thập niên 80 cuối thế kỷ XX(9,10,11). Dùng đầu lạnh đông có nhiệt độ từ -40oC
đến -20oC áp vào TTT sau đó kéo nhẹ TTT ra qua đường mổ ở rìa. Sau mổ
sẽ khâu treo kính nội nhãn vào củng mạc.
Bảng 1 cho thấy thị lực sau mổ cải thiện rất rõ rệt. Theo dõi đến 6
tháng,, có 76,7% có thị lực ≥ 5/10 và 2,3% có thị lực ≤ 1/10; so với trước
mổ, tỷ lệ này là 91,3%. Vì vị trí kính nội nhãn được khâu treo vào củng mạc
ở hậu phòng, gần như ở vị trí sinh lý bình thường của TTT, nên không có
bệnh nhân nào than phiền về chất lượng thị giác hai mắt sau mổ.
Kỹ thuật lấy TTT trong bao gây thoát dịch kính ra tiền phòng và có
thể gây một số biến chứng khác như xuất huyết tiền phòng, tăng nhãn áp,phù
hoàng điểm dạng nang, bong võng mạc do co kéo dịch kính(4,5,7,8) … Bảng 4
cho thấy 100% các trường hợp đều có thoát dịch kính ra tiền phòng, được xử
trí bằng cắt dịch kính tiền phòng và qua 6 tháng theo dõi, chỉ có 2 ca (4,3%)
bong võng mạc, ngoài ra, không có các biến chứng nghiêm trọng khác có
liên quan đến thoát dịch kính ra tiền phòng như viêm mủ nội nhãn. Có 2
(4,3%) ca phù hoàng điểm dạng nang đã được điều trị nội khoa và đáp ứng
tốt… (bảng 5 và 6).
Nhãn áp trung bình sau mổ 1 tuần có tăng nhẹ, nhưng không vượt quá
25 mmHg (Nhãn áp kế Maklakov) và sau một tháng, nhãn áp trung bình trở
về mức bình thường. Có 8 ca (17,4%) có tăng nhãn áp nhưng chỉ có 2 ca
(4,3%) phải xử trí bằng phẫu thuật cắt bè củng mạc do không đáp ứng với
điều trị nội khoa (bảng 5 và 6).
Ngoài ra, bảng 4 và 5 cho thấy chỉ có 2 trường hợp (4,3%) viêm màng
bồ đào, có 7 (15,2%) trường hợp viêm dịch kính và 6 (13%) trường hợp phù
giác mạc, có 2 (4,3%) trường hợp xuất huyết tiền phòng. tất cả những trường
hợp này đều thoáng qua, đáp ứng tốt với điều trị nội khoa.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu 46 trường hợp đục lệch TTT do chấn thương được điều
trị bằng phương pháp lấy TTT trong bao và khâu treo kính nội nhãn vào củng
mạc, chúng tôi nhận thấy:
-Hầu hết bệnh nhân đều cải thiện thị lực tốt.
-Tỷ lệ biến chứng thấp, hầu hết là thoáng qua và đáp ứng tốt với điều
trị nội khoa
-Kỹ thuật không quá phức tạp, tuy nhiên cần tỉ mỉ, thời gian phẫu
thuật kéo dài hơn phưong pháp đặt TTT nhân tạo trong sulcus, trang thiết bị
không cần loại đắt tiền.
-Biến chứng nặng nhất của phẫu thuật lấy TTT trong bào và đặt IOL
củng mạc là bong võng mạc.
Tuy nhiên, vì thời gian theo dõi chưa nhiều nên chúng tôi sẽ tiếp tục
nghiên cứu vấn đề này sâu hơn, với cỡ mẫu lớn hơn cũng như thời gian theo
dõi dài hơn nhằm có thể đưa ra những kết luật xác đáng hơn nữa.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- a3.PDF