Đánh giá kết quả phẫu thuật nội soi chẫn đoán trong bệnh lý lồng ngực

Kết quả Bảng 3 cho thấy có 7/12 (63,6%) trường hợp ung thư phổi di căn hạch trung thất (tương ứng giai đoạn N2, N3) và 2/12 (18,2%) trường hợp xác định ung thư phổi chưa có di căn hạch trung thất (tương ứng giai đoạn N0,N1)(11). Tác giả Nguyễn Đức Thắng ghi nhận 53,85% trường hợp ung thư phổi di căn hạch trung thất và 46,15% trường hợp xác định ung thư phổi chưa có di căn hạch trung thất. Tác giả P De Leyn et al(2) nghiên cứu 235 trường hợp đánh giá hiệu quả NSTT trên những bệnh nhân ung thư phổi không có dấu hiệu phát triển hạch trong trung thất, cho kết quả dương tính trong 42 (20%) trường hợp. Điều này cho thấy khả năng đánh giá giai đoạn ung thư phổi trong NSTT là khá cao. NSTT cho phép đánh giá chẩn đoán dương tính với độ chính xác cao giúp phẫu thuật viên có phương án điều trị tương ứng với giai đoạn phù hợp. Ngoài ra, chúng tôi có ghi nhận 2/12 TH (18,2%) hạch không đánh giá được rõ ràng bản chất, đây chính là những TH gây khó khăn cho chỉ định phẫu thuật triệt để ung thư phổi. 2 TH này đều được chúng tôi chỉ định phẫu thuật cắt ung thư phổi điển hình và nạo hạch trung thất, kết quả hạch trung thất âm tính. Theo tác giả Henk Kramer et al(6) thì PET có độ chính xác cao nhất trong đánh giá giai đoạn di căn hạch trung thất nhưng không thường được sử dụng vì nhiều lí do. Chụp CLVT và MRI là phương pháp không can thiệp có độ dương tính giả cao. Bên cạnh đó các biện pháp xâm lấn như sinh thiết xuyên thành ngực, sinh thiết xuyên thành phế quản qua nội soi phế quản, sinh thiết qua siêu âm nội soi. thì NSTT là những biện pháp cho kết quả mô học chính xác, ít biến chứng và chi phí ít. Tuy nhiên tác giá vẫn công nhận NSTT là tiêu chuẩn vàng trong đánh giá hạch trung thất của ung thư phổi không tế bào nhỏ.

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 29/01/2022 | Lượt xem: 133 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá kết quả phẫu thuật nội soi chẫn đoán trong bệnh lý lồng ngực, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013 272 ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHẪU THUẬT NỘI SOI CHẪN ĐOÁN TRONG BỆNH LÝ LỒNG NGỰC Ngô Quốc Hưng*, Vũ Hữu Vĩnh**, Lê Nữ Hòa Hiệp*** TÓM TẮT Đặt vấn đề: Nội soi trung thất (NSTT) là một phương pháp được sử dụng để chẩn đoán bệnh trung thất và xếp giai đoạn của ung thư phổi. Kể từ khi được giới thiệu bởi Carlens năm 1959, hiện nay trên thế giới NSTT đã trở thành tiêu chuẩn dùng để so sánh với các phương pháp can thiệp khác trong đánh giá bản chất mô học của u trung thất và đánh giá giai đoạn ung thư phổi. Tại Việt Nam, phương pháp này chưa được ứng dụng rộng rãi để chẩn đoán bệnh của lồng ngực. Mục tiêu: Xác định giá trị của NSTT trong xác định bản chất mô học của khối u trung thất và giai đoạn của ung thư phổi. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, can thiệp lâm sàng, không đối chứng. Thực hiện tại bệnh viện Bệnh viện Chợ Rẫy từ 5/2010 đến 2/2013 Kết quả: Chúng tôi NSTT sinh thiết chẩn đoán mô học 24 trường hợp xác định có u vùng trung thất hay hạch trung thất trong ung thư phổi có độ tuổi trung bình 44 ± 2 tuổi. Thời gian thực hiện trung bình là 47 phút. Tỉ lệ u trung thất ác tính cao 12/12 (100%), đa phần là u lymphoma non-Hogkin. Có 7/11 trường hợp ung thư phổi di căn hạch trung thất (tương ứng với N2, N3), 2/12 trường hợp ung thư phổi nhưng chưa có di căn hạch trung thất (tương ứng với N0, N1). 1 trường hợp hạch lympho ác tính Non-Hodgkin. Không ghi nhận có trường hợp tai biến hay tử vong. Kết luận: NSTT là một phương pháp chẩn đoán hiệu quả và an toàn. NSTT cần được sử dụng thường quy trong đánh giá giai đoạn ung thư phổi. Từ khóa: nội soi trung thất, ung thư phổi, hạch lympho, u trung thất. ABSTRACT RESULT OF THE MEDIASTINOSCOPY IN DIAGNOSING THE THORACIC DISEASES Ngo Quoc Hung*, Vu Huu Vinh, Le Nu Hoa Hiep * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - Supplement of No 2 - 2014: 272-277 Background: Mediastinoscopy was a procedure used for the diagnosis of mediastinal disease and the staging of lung cancer. Since mediastinoscopy was introducted by Carlens in 1959, it presently has been becoming the standard to compare with all other methods of evaluating the histology of mediastinum tumors. In Vietnam, it is rarely applied in diasnosing the thoracic diseases. Objective: Evaluate the results of cervical mediastinoscopy in diagnosing the histological type of mediastinal mass and staging of lung cancer. Method: Cross sectional study, clinical intervention, without control experiment. The research was performed in Cho Ray Hospital from 5/2010 to 2/2013. Results: During the research, we had researched a group of 24 patients that were diagnosed mediastinal tumors or mediastinal nodes in lung tumours with mean age 44 ± 2 year old. Average of operating time was 47 minutes. Maglinant rate of meastinal tumours samples was high 12/12 cases (100%), a great part was the * Khoa Lồng Ngực bệnh viện Chợ Rẫy ** bộ môn Ngoại LồngNgực Mạch Máu ĐHYD TPHCM Tác giả liên lạc: BS CKII Ngô Quốc Hưng ĐT: 0906880999 Email: drhung91@gmail.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013 273 lymphoma non-Hogkins. Maglinant mediastinal nodes were found in 7/11 cases of lung cancer (equivalent N2, N3) and not in 02/11 cases of lung cancer (equivalent N0, N1). 01 case with mediastinal nodes was diagnosed Non-Hodgkin. Mediastinal benign node without lung caner accounted of 11/12 (91.6%). No case had incident on and post-operation. Conclusions: Mediastinoscopy is a highly effective and safe procedure. We propose use the mediastinoscopy routine in staging of lung cancer. Key words: mediastinoscopy, lung cancer, lympho node, mediastinal tumor. ĐẶT VẤN ĐỀ Nội soi trung thất (NSTT) là phương pháp dùng để chẩn đoán bản chất của khối u vùng trung thất, các bệnh lý phổi có hạch vùng trung thất và đánh giá giai đoạn trong ung thư phổi. Năm 1959 Carlens đã đưa ra phương pháp NSTT chẩn đoán trong bệnh lý lồng ngực, và từ đó NSTT được xem là “tiêu chuẩn vàng” để xác định bản chất các khối u vùng trung thất. Trong trường hợp u trung thất, việc xác định bản chất ác tính của u trung thất tốt hơn cả chẩn đoán giai đoạn ung thư phổi, với hơn 90% trường hợp(4). NSTT đã được chứng minh hiệu quả trong xác định giai đoạn trước phẫu thuật ung thư phổi với độ nhạy trên 90% và độ đặc hiệu xấp xỉ 100%. Tuy nhiên, NSTT vẫn tiếp tục là một chủ đề của cuộc tranh luận giữa các bác sĩ phẫu thuật lồng ngực. Vì có nhiều quan điểm xem NSTT là quá xâm lấn trong chẩn đoán xác định giai đoạn ung thư phổi và câu hỏi đưa ra là: có thật sự cần thiết NSTT khi nghi ngờ ung thư phổi đã di căn hạch trung thất trên lâm sàng khi mà có thể đánh giá giai đoạn bằng các phương pháp chẩn đoán ít xâm lấn khác. Mặc dù còn nhiều tranh cãi khi đánh giá tỉ lệ ung thư phế quản di căn hạch trung thất, nhưng với độ chuyên biệt khá cao, việc khảo sát hạch bằng NSTT cho kết quả lành tính trên 90% đồng nghĩa là ung thư phổi chưa di căn hạch - ủng hộ khả năng phẫu thuật triệt để cắt thùy phổi trong ung thư phế quản và phổi(9). Khi NSTT sinh thiết hạch cho kết quả mô học ác tính đồng nghĩa với bệnh nhân đã bị di căn trung thất trong ung thư phế quản hoặc di căn xa từ các cơ quan khác. Tỉ lệ di căn này chiếm khoảng 33% khi tiến hành sinh thiết(10). Qua đó, việc xác định giai đoạn ung thư phổi trước mổ đóng vai trò lớn trong chiến lược điều trị bệnh lý ung thư phổi. Hiệu quả của phương pháp NSTT đã được chứng minh trên thế giới. Tuy nhiên, tại Việt Nam, NSTT chẩn đoán các bệnh lý lồng ngực vẫn chưa thực sự được ứng dụng rộng rãi. Tại Bệnh viện Chợ Rẫy, từ năm 2010 chúng tôi đã tiến hành NSTT chẩn đoán bản chất khối u trung thất và xếp giai đoạn ung thư phổi. Mục tiêu Đánh giá kết quả phẫu thuật nội soi trung thất chẩn đoán trong bệnh lý lồng ngực ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng Bệnh nhân có hạch hoặc khối bất thường trong trung thất xác định trên hình ảnh cắt lớp vi tính chưa rõ bản chất và bệnh nhân u phổi nghi ngờ ung thư có hạch trung thất. Chỉ định Chẩn đoán bản chất các khối u vùng trung thất xác định trên hình ảnh cắt lớp vi tính Chẩn đoán bản chất các hạch bệnh lý (bao gồm cả Hodgkin) vùng trung thất Chẩn đoán bản chất hạch trung thất trong u phổi, đánh giá giai đoạn ung thư phổi Chống chỉ định Đã phẫu thuật tim hoặc mở xương ức, mở khí quản trước đó Đã phẫu thuật can thiệp vào trung thất Đang dùng thuốc chống đông Có bệnh lí mạch máu lớn trong lồng ngực (phình bóc tách động mạch chủ, tăng áp động Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013 274 mạch phổi, hội chứng chèn ép tĩnh mạch chủ trên) Bệnh nhân không ngửa cổ được Dụng cụ Dụng cụ nội soi hình chữ U có phần tay cầm và ống kim loại giống như trocar nội soi khuyết ½ kích thước ống, đường kính ống 13mm Camera 0 độ đường kính 5mm Kìm lấy bệnh phẩm nội soi Ống hút Phương pháp tiến hành Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu mô tả cắt ngang, can thiệp lâm sàng, không đối chứng. Địa điểm và thời gian nghiên cứu Chúng tôi thực hiện và chọn bệnh tại khoa Lồng ngực bệnh viện Chợ Rẫy từ 5/2010 đến 2/2013 Phương pháp tiến hành Bệnh nhân được yêu cầu: - Xét nghiệm tiền phẫu thường quy. - Xét nghiệm chẩn đoán hình ảnh: CLVT lồng ngực (có tiêm thuốc cản quang) - Nội soi cây khí phế quản. Sau khi các bệnh nhân đã được khám và làm xét nghiệm sàng lọc lâm sàng chẩn đoán xác định có khối bất thường trong trung thất, chưa phân loại mô học khối u hoặc hạch trung thất. Khối nghi ngờ là hạch trong trung thất thường có đường kính ≥1cm Chúng tôi chỉ định NSTT trong các trường hợp: - Bệnh nhân có khối u trung thất lớn không có khả năng phẫu thuật triệt để cần xác định bản chất khối u. - U phổi có các dấu hiệu nghi ngờ ung thư, hoặc đã có kết quả ung thư qua các xét nghiệm khác có hạch trung thất nghi ngờ di căn cần sinh thiết để đánh giá giai đoạn. - Các hạch vùng trung thất có kích thước > 1cm cần xác định bản chất. Phẫu thuật Tư thế bệnh nhân nằm ngửa, cổ ngửa tối đa Rạch da ngay trên cán xương ức khoảng 2cm, dài khoảng 3 - 4cm Sử dụng trocar nội soi đặt vào trung thất, quan sát trên màn hình camera với kính soi đường kính 5mm. Tiến hành khảo sát, vị trí dựa trên kết quả hình ảnh CLVT và nhìn trực tiếp. Lấy bệnh phẩm làm giải phẫu bệnh, có thể kết hợp làm các dấu ấn hóa mô miễn dịch để xác định nguồn gốc khối u. Xử lí số liệu Xử lí số liệu theo phần mềm xử lí thống kê y học KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Nhóm nghiên cứu bao gồm 24 bệnh nhân có 13 nam và 11 nữ, tỉ lệ Nam/Nữ là 1.3 : 1. Tuổi trung bình là 44 ± 2 nhỏ nhất 16 tuổi và lớn nhất 72 tuổi. Thời gian phẫu thuật tối thiểu 30 phút và thời gian tối đa 60 phút, thời gian mổ trung bình 47 phút. Không có trường hợp nào tai biến trong và sau mổ. Bảng 1: Kết quả giải phẫu bệnh Phân loại Số lượng Tỉ lệ % Ác tính 20 83,4 % Lành tính 02 8,3 % Khó xác định 02 8,3 % Tổng 24 100% Qua 24 TH được NSTT sinh thiết, 100% bệnh nhân đều lấy được mẫu làm giải phẫu bệnh. Trong đó chúng tôi thu nhận được hơn 90% các TH có kết quả GPB, có 2 TH không có kết quả GPB rõ rang do mẫu mô lấy quá nhỏ. Bảng 2: Phân loại kết quả theo giải phẫu bệnh Phân loại giải phẫu bệnh vi thể Đại thể Tổng Tỉ lệ % Khối u Hạch Ung thư phổi không tế bào nhỏ di căn hạch trung thất 7 7 29,2% Ung thư phổi tế bào nhỏ di 0 0 0% Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013 275 Phân loại giải phẫu bệnh vi thể Đại thể Tổng Tỉ lệ % Khối u Hạch căn hạch trung thất Hạch phát triển lành tính 2 2 8,3 % Lymphoma ác tính non Hodgkin 1 1 2 8,3% Lymphoma ác tính Hodgkin 8 8 33,3% U tuyến ức lành tính 0 0 0% U tuyến ức ác tính (carcinoma tuyến ức) 3 3 12,6% Khó xác định 2 2 8,3% Tổng 12 12 24 100% Chúng tôi sinh thiết được 12 mẫu mô của u vùng trung thất và 12 mẫu mô từ hạch vùng trung thất. Tất cả các u vùng trung thất đều là u ác tính, trong đó chiếm đa số là u lymphoma ác tính Hodgkin (8/12 TH). Trong sinh thiết hạch trung thất, có 7/12 TH cho thất là hạch di căn trung thất của ung thư phổi, có 2/12 TH là hạch viêm tăng sinh phản ứng và 2/12 TH không xác định rõ bản chất do mẫu sinh thiết nhỏ. Bảng 3: Hạch trung thất trong ung thư phổi U phổi có hạch trung thất Tỉ lệ % Ác tính 7 63,6% Tăng sinh phản ứng 2 18,2% Khó xác định 2 18,2% Tổng 11 100% Trong NSTT chẩn đoán giai đoạn ung thư phổi, chúng tôi ghi nhận có 7/12 TH là ung thư phổi di căn hạch trung thất, xếp loại giai đoạn là IIIb, tất cả những bệnh nhân này đều được chuyển qua ung bướu để điều trị hoá- xạ. Còn 4 TH còn lại không có ghi nhận di căn hạch trung thất, BN được chỉ định mổ cắt thùy phổi có u tương ứng. BÀN LUẬN NSTT chẩn đoán có là 1 phương pháp có giá trị cao trong thực hành lâm sàng. NSTT chẩn đoán được chỉ định dùng để chẩn đoán bản chất các khối u vùng trung thất hay dùng để khảo sát hệ thống hạch trong trung thất mà không cần mở ngực(8). Trong 24 bệnh nhân tỉ lệ nam/nữ là 1,3/1, 44 ± 2 nhỏ nhất 16 tuổi và lớn nhất 72 tuổi. Khi so sánh với tác giả Nguyễn Đức Thắng có tuổi trung bình 51,26 nhỏ nhất 18 tuổi và lớn nhất 77 tuổi. Qua đó cho thất NSTT có thể thực hiện ở các lứa tuổi khác nhau từ thanh niên có đến người lớn tuổi để chẩn đoán bản chất mô học u hay hạch vùng trung thất. Theo tác giả Zane T.Hammound et al(4) thì khả năng thực hiện NSTT đạt trên 90% các trường hợp có u trung thất ở bất kỳ độ tuổi. Qua 24 TH, chúng tôi ghi nhận thời gian phẫu thuật tối thiểu 30 phút và thời gian tối đa 60 phút, thời gian mổ trung bình 47 phút. Tác giả Nguyễn Đức Thắng(12) cũng ghi thời gian mổ trung bình là 32,6 với SD ± 9,81 (không bao gồm thời gian chuẩn bị và gây mê). Kết quả này cho thấy NSTT chẩn đoán là phương pháp hữu dụng, thời gian cuộc mổ cũng gần tương tư như các phương pháp lấy mẫu khác như nội soi lồng ngực sinh thiết, sinh thiết xuyên thành phế quản dưới hướng dẫn siêu âm... Tuy nhiên đây thủ thuật xâm lấn cần phải có sự hỗ trợ của gây mê và đảm bảo như một cuộc phẫu thuật. Về mặt tai biến và biến chứng của cuộc mổ, chúng tôi không ghi nhận TH nào bị tai biến hay biến chứng trong và sau cuộc mổ. Tác giả Nguyễn Đức Thắng(12) ghi nhận có tỉ lệ tai biến là 2,94% (1TH). Tác giả Nguyễn Quang Quyền(8) đánh giá NSTT sinh thiết u trung thất trên 30 TH ghi nhận không có tai biến trong và sau mổ. Trong thống kê của tác giả Zane T. Hammoud et al(4) trên 2.137 trường hợp có 4 trường hợp tử vong sau mổ, chỉ có 1 trường hợp (0,05%) được xem như tai biến tử vong trong phẫu thuật và 12 trường hợp (0,6%) có biến chứng. Không có tử vong hay biến chứng ở bệnh nhân nội soi trung thất cho kết quả lành tính. Tác giả Zane T. Hammoud et al(4) cho thấy rằng NSTT nên được sử dụng thường xuyên trong chẩn đoán và xác định giai đoạn của u trong lồng ngực. Qua đó cho thấy NSTT chẩn đoán là phương pháp có độ an toàn cao, tỉ lệ tai biến và biến chứng thấp, được áp dụng rộng rãi trong lâm sàng. Phẫu thuật viên có thể giảm thiểu những tai biến của cuộc mổ đến mức tối đa. Kết quả Bảng 1 cho thấy tỉ lệ số mẫu ác tính/tổng số mẫu là 20/24 (83,3%). Điều này là do Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013 276 chỉ định phẫu thuật của chúng tôi bao gồm các u trung thất lớn có xâm lấn vào các cấu trúc xung quanh trên chụp cắt lớp, nghi ngờ có độ ác tính cao và không có khả năng phẫu thuật triệt để, đối với các u phổi cũng có các xét nghiệm hướng tới chẩn đoán ung thư hoặc đã có kết quả giải phẫu bệnh là ung thư cần sinh thiết hạch trung thất đề đánh giá giai đoạn. Tác giả Martin D et al(10) nghiên cứu 105 trường hợp NSTT cho kết quả dương tính với tế bào ác tính 26%. Tác giả Paterson G.A et al(13) nghiên cứu hình ảnh CLVT, hình ảnh cộng hưởng từ, Xquang thường qui và NSTT là những phương thức được so sánh triển vọng để đánh giá tình trạng hạch trung thất trong 84 bệnh nhân ung thư biểu mô phế quản. Chụp CLVT được thực hiện với độ nhạy 71,0%, độ đặc hiệu 87,7% và độ chính xác tổng thể của 82,1%. Với độ nhạy 87,1%, độ đặc hiệu 100%, giá trị tiên đoán dương tính 100% và giá trị tiên đoán âm tính 93,0%, độ chính xác 95,2% NSTT vượt qua các phương pháp khảo sát trung thất khác. Tác giả Paterson G.A et al(13) tiếp tục đề nghị NSTT là phương pháp khảo sát giai đoạn chính xác nhất trong việc theo dõi tiến triển của bệnh nhân ung thư phổi. NSTT đã chứng minh đây là phương pháp chẩn đoán hữu hiệu bản chất u vùng trung thất và đánh giá giai đoạn trong ung thư phổi. Bảng 2 cho kết quả nhóm nghiên cứu có 12 trường hợp mẫu u và 12 trường hợp mẫu hạch trung thất. Tất cả 12 TH sinh thiết mẫu u được chỉ định cho u trung thất và đều cho kết quả là u ác tính, trong đó có 3/12 là carcinoma tuyến ức, 9/12 TH còn lại là u lymphoma. Các mẫu u đều được làm hoá mô miễn dịch để chẩn đoán bệnh lý lymphoma. Tác giả Nguyễn Quang Quyền(8) qua 30 TH cho kết quả hơn 70 % là u ác tính đối với các loại u không thể cắt trọn được cần phải sinh thiết u tìm bản chất. Trong nghiên cứu của tác giả Zane T. Hammoud et al(4) với số lượng tổng cộng 392 bệnh nhân thực hiện NSTT cho thấy khả năng thực hiện chẩn đoán 93,6% ở những bệnh nhân có u trung thất Qua đó cho thấy khả năng chẩn đoán chính xác bản chất của các khối u vùng trung thất bằng phương pháp NSTT. Góp phần quan trọng trong chiến lược điều trị cho bệnh nhân. Trong nghiên cứu này, chúng tôi không ghi nhận được TH nào u lành tính. Tác giả Nguyễn Quang Quyền(8) ghi nhận có 30% u lành tính. Tác giả Hammoud(4) ghi nhận có 52,55%. Tác giả Nguyễn Đức Thắng(12) khảo sát hạch trung thất không kèm tổn thương nhu mô phổi và phế quản có 11/12 (91,66%) trường hợp lành tính. Để giải thích cho vấn đề này là do lựa chọn bệnh nhân ban đầu của chúng tôi là các trường hợp u vùng trung thất lớn không có khả năng phẫu thuật triệt để và có các dấu hiệu nghi ngờ ác tính như: xâm lấn các cấu trúc xung quanh, tràn dịch trung thất hay màng phổi Kết quả Bảng 3 cho thấy có 7/12 (63,6%) trường hợp ung thư phổi di căn hạch trung thất (tương ứng giai đoạn N2, N3) và 2/12 (18,2%) trường hợp xác định ung thư phổi chưa có di căn hạch trung thất (tương ứng giai đoạn N0,N1)(11). Tác giả Nguyễn Đức Thắng ghi nhận 53,85% trường hợp ung thư phổi di căn hạch trung thất và 46,15% trường hợp xác định ung thư phổi chưa có di căn hạch trung thất. Tác giả P De Leyn et al(2) nghiên cứu 235 trường hợp đánh giá hiệu quả NSTT trên những bệnh nhân ung thư phổi không có dấu hiệu phát triển hạch trong trung thất, cho kết quả dương tính trong 42 (20%) trường hợp. Điều này cho thấy khả năng đánh giá giai đoạn ung thư phổi trong NSTT là khá cao. NSTT cho phép đánh giá chẩn đoán dương tính với độ chính xác cao giúp phẫu thuật viên có phương án điều trị tương ứng với giai đoạn phù hợp. Ngoài ra, chúng tôi có ghi nhận 2/12 TH (18,2%) hạch không đánh giá được rõ ràng bản chất, đây chính là những TH gây khó khăn cho chỉ định phẫu thuật triệt để ung thư phổi. 2 TH này đều được chúng tôi chỉ định phẫu thuật cắt ung thư phổi điển hình và nạo hạch trung thất, kết quả hạch trung thất âm tính. Theo tác giả Henk Kramer et al(6) thì PET có độ chính xác cao nhất trong đánh giá giai đoạn di căn hạch trung thất nhưng không thường được sử dụng vì nhiều lí do. Chụp CLVT và MRI là phương pháp không can thiệp có độ dương tính giả cao. Bên cạnh đó các biện pháp xâm lấn Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013 277 như sinh thiết xuyên thành ngực, sinh thiết xuyên thành phế quản qua nội soi phế quản, sinh thiết qua siêu âm nội soi... thì NSTT là những biện pháp cho kết quả mô học chính xác, ít biến chứng và chi phí ít. Tuy nhiên tác giá vẫn công nhận NSTT là tiêu chuẩn vàng trong đánh giá hạch trung thất của ung thư phổi không tế bào nhỏ. KẾT LUẬN Qua 24 TH, chúng tôi đánh giá phương pháp NSTT chẩn đoán bản chất các u vùng trung thất và giai đoạn ung thư phổi có độ chính xác cao, hiệu quả và có giá trị áp dụng thực tiễn. NSTT có độ an toàn cao, nghiên cứu chúng tôi không ghi nhận trường hợp nào bị tai biến trong và sau mổ. NSTT là xác định bản chất u được lựa chọn cho các trường hợp u không còn khả năng phẫu thuật triệt để và có các dấu hiệu nghi ngờ ung thư cao. NSTT đánh giá giai đoạn ung thư phổi góp phần quan trọng trong quyết định điều trị cho bệnh nhân. KIẾN NGHỊ Chúng tôi kiến nghị phương pháp này nên được áp dụng trong chẩn đoán bản chất u trung thất. NSTT đánh giá giai đoạn ung thư phổi nên được sử dụng một cách thường quy. Ngoài ra cần nghiên cứu thêm với số lượng BN lớn hơn và đa trung tâm để cho ra các kết quả có độ chính xác cao hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Brion JP, Depauw L, Kuhn G, de Fracquen P, Friberg J, Rocmans, Struyven J(1985). Role of computed tomography and mediastinoscopy in preoperative staging of lung carcinoma. J Comput Assist Tomogr . May-Jun; 9(3):480-4. 2. De Leyn P, Vansteenkiste J, Cuypers P, Deneffe G, Van Raemdonck D, Coosemans W, Verschakelen J, Lerut T (1997). Role of cervical mediastinoscopy in staging of non-small cell lung cancer without enlarged mediastinal lymph nodes on CT scan. European Journal of Cardio-Thoracic Surgery. Volume 12, Issue 5, November 1997, p706–712 3. Gonzalez-Stawinski GV et al (2003), A comparative analysis of positron emission tomography and mediastinoscopy in staging non–small cell lung cancer, The Journal of Thoracic and Cardiovascular Surgery December 2003, p 1900-1905. 4. Hammoud ZT, Anderson RC, Meyers BF, Guthrie TJ, Roper CL, Cooper JD, Patterson GA. (1999). The current role of mediastinoscopy in the evaluation of thoracic disease. J Thorac Cardiovasc Surg;118: p894-899. 5. Kimura H, Iwai N, Ando S, Kakizawa K, Yamamoto N, Hoshino H, Anayama T. (2003). A prospective study of indications for mediastinoscopy in lung cancer with CT findings, tumor size, and tumor markers. Ann Thorac Surg;Vol 75: p1734-1739 6. Kramer H, Groen HJ (2003). Current Concepts in the Mediastinal Lymph Node Staging of Nonsmall Cell Lung Cancer. Annal of surgery. 238(2): 180–188. 7. Lacquet L.K, Mertens A, Kleef J.V, and Jongerius C. (1975). Mediastinoscopy and bronchial carcinoma: experiences with 600 mediastinoscopies. Thorax. Vol.30, p141-145 8. Lê Nguyễn Quyền, Nguyễn Hoài Nam (2009). Nghiên cứu vai trò nội soi lồng ngực sinh thiết các khối u trung thất. Y học tp Hồ Chí Minh. Vol.13 – No.1, p9-13 9. Luke W.P., Pearson F.G., Todd T.R., Patterson G.A. and Cooper J.D. (1986). Prospective evaluation of mediastinoscopy for assessment of carcinoma of the lung. The Journal of Thoracic and Cardiovascular Surgery, by The American Association for Thoracic Surgery and The Western Thoracic Surgical Association. Vol.91, p53 - 56 10. McCurdy MD, Philips PA, Marty AT, Miyamoto AM (1974). Mediastinoscopy: procedure of choice for diagnosis and determination of operability. Cardiovascular diseases, Bulentin of the Texas heart institute. Vol.1, No.3, 1974, p242- 250. 11. Mountain C.F, Dresler C.M (1997). Regional lymph node classification for lung cancer staging. Chest1997; 1718–1723. 12. Nguyễn Đức Thắng, Trần Trọng Kiểm (2011), Nội soi trung thất chẩn đoán mô học u trung thất và giai đoạn ung thư phổi tại bệnh viện Trung ương quân đội 108 13. Patterson G.A, Ginsberg R.J, Poon P.Y, Cooper J.D, Goldberg M., Jones D., Pearson F.G, Todd T.R, Waters P. and Bull S (1987). A prospective evaluation of magnetic resonance imaging, computed tomography, and mediastinoscopy in the preoperative assessment of mediastinal node status in bronchogenic carcinoma. The Journal of Thoracic and Cardiovascular Surgery, by The American Association for Thoracic Surgery and The Western Thoracic Surgical Association; Vol 94; p679-684 14. Shrager JB., The Society of Thoracic Surgeons (2010). Supplement: 2nd International Bi-Annual minimally invasive thoracic surgery summit. Ann Thorac Surg; 89:S2084-S2089. 15. Van Schil.PE, Van Hee. RH and Schoofs. EL(1989). The value of mediastinoscopy in preoperative staging of bronchogenic carcinoma.The Journal of Thoracic and Cardiovascular Surgery, by The American Association for Thoracic Surgery and The Western Thoracic Surgical Association. Vol 97, p240- 244. 16. Venissac N, et al (2003) Video-Assisted Mediastinoscopy: Experience From 240 Consecutive Cases, Ann Thorac Surg;76: 208 – 12. Ngày nhận bài: 06/03/2013 Ngày phản biện đánh giá bài báo: 26/08/2013 Ngày bài báo được đăng: 30/05/2014

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdanh_gia_ket_qua_phau_thuat_noi_soi_chan_doan_trong_benh_ly.pdf