Phẫu thuật tạo hình khe hở môi 1 bên
(Unilateral cleft lip) ở trẻ sơ sinh bằng kỹ thuật
“Onizuka – cải tiến” đã được thực hiện có hiệu
quả tại bệnh viện Nhi Trung Ương với trên 88%
kết quả tốt. Tuổi chỉ đinh phẫu thuật KHM sớm
khi trẻ 1 tháng tuổi, tạo điều kiện thuận lợi để
rút ngắn thời gian chờ đợi phẫu thuật khe hở
vòm thì 2.
Đây là một phương pháp phẫu thuật an
toàn, kết quả tốt, có tính khả thi cao. Khi được
chỉ đinh chặt chẽ và áp dụng tại bệnh viện và
trung tâm lớn có thể gây mê hồi sức ngoại nhi
cho trẻ sơ sinh
7 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 464 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá kết quả phẫu thuật tạo hình khe hở môi một bên ở trẻ sơ sinh bằng kỹ thuật onizuka cải tiến, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Nhi 1
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHẪU THUẬT TẠO HÌNH KHE HỞ MÔI
MỘT BÊN Ở TRẺ SƠ SINH BẰNG KỸ THUẬT ONIZUKA CẢI TIẾN
Đặng Hoàng Thơm*, Nguyễn Thanh Liêm*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá tính khả thi, biến chứng và kết quả phẫu thuật tạo hình.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả tiến cứu không có nhóm chứng, 76 bệnh nhân từ 4 tuần đến 6
tuần tuổi, khe hở môi 1 bên được phẫu thuật tại bệnh viện Nhi Trung Ương từ tháng 6 năm 2011 đến tháng 3 năm
2013, được phẫu thuật tạo hình môi bằng kỹ thuật Onizuka cải tiến.
Kết quả: 76 bệnh nhân gồm nam 34, nữ 42, tuổi trung bình 34 ± 4 ngày tuổi, thấp nhất 28 ngày, cao nhất 45
ngày tuổi. Khe hở môi (KHM) không toàn bộ 16 ca (21,05%), 60 ca khe hở môi toàn bộ (78,95%). KHM đơn thuần
21 trường hợp (27,63%) KHM kết hợp khe hở vòm, khe hở cung răng 55 ca (72,37%). Thời gian mổ trung bình
45,36 ± 12,32 phút, ngắn nhất 20 phút, dài nhất 65 phút. Thời gian nằm viện trung bình 2,51 ± 1,5 ngày. 15
trường hợp có sử dụng ghép sụn vách mũi vào phần sụn cánh mũi bên thiểu sản. 04 cas toác vết mổ ở phần niêm
mạc miệng.
Kết luận: Phẫu thuật tạo hình KHM 1 bên (Unilateral cleft lip) ở trẻ sơ sinh bằng kỹ thuật “Onizuka – cải
tiến” với kết quả tốt trên 88%. Tuổi chỉ đinh phẫu thuật sớm khi trẻ 1 tháng tuổi, tạo điều kiện thuận lợi để rút
ngắn thời gian chờ đợi phẫu thuật khe hở vòm thì 2. Đây là một phương pháp phẫu thuật an toàn, kết quả tôt, có
tính khả thi cao. Khi được chỉ đinh chặt chẽ và áp dụng tại bệnh viện và trung tâm lớn có thể gây mê hồi sức ngoại
nhi cho trẻ sơ sinh.
Từ khóa: Onizuka, khe hở môi một bên, trẻ sơ sinh.
ABSTRACT
SURGICAL OUTCOME OF MODIFIED ONIZUKA CHEILOPLASTY FOR REPAIRING THE
UNILATERAL CLEFT LIP
Dang Hoang Thom, Nguyen Thanh Liem
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2013: 1 ‐ 6
Objectives: To explore the capability, postoperative complications and the surgical outcome of modified
Onizuka cheiloplasty for repairing the unilateral cleft lip.
Methods: 76 patients (from 4 to 6 weeks) with unilateral cleft lip were repaired by modified Onizuka
cheiloplasty in The National Hospital of Pediatrics (NHP) from June 2011 to March 2013.
Results: Sex ratio: Male (34)/female infant 42, age was 34 ± 4 (days), min 28 day, max 45 days. 21.05%
unilateral cleft lip partial, 78.95% unilateral cleft lip totally and 27.63% unilateral cleft lip combine with. The
duration of surgery was 45.36 ± 12.32 (min 20 minutes, max 65 minutes). Hospital delays was 2.51 ± 1.5 days.
There are 4 patients with accelerated wound in the oral mucosa and there are 15 patients using the nasal septum
cartilage transplant cartilage of nose.
Conclusions: Outcome of surgery treatment of infant unilateral cleft lip was very good (88% very good).
Surgery treatment in early stage (less than 1 month) was recognized good management and reduce time of surgery
waiting. The modified Onizuka was a safe surgical approach, with good results and high feasibility. This method can
be applied in large central hospital and good of infant anesthesia conditions.
* Bệnh viện Nhi Trung Ương.
Tác giả liên hệ: Ths. Đặng Hoàng Thơm ĐT: 0904136131 Email: thommdplastic@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Chuyên Đề Ngoại Nhi 2
Key words: Onizuka, Unilateral cleft lip, neonatal.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Nhi 3
ĐẶT VẤN ĐỀ
Khe hở môi là dị tật bẩm sinh thường gặp
nhất tại vùng hàm mặt, với tỷ lệ 1/700‐800 trẻ
sinh ra. Khe hở môi một bên (Unilateral cleft lip)
đặc trưng bởi một khe hở và làm mất tính liên
tục môi trên. KHM có thể đơn thuần hoặc kết
hợp với khe hở vòm miệng(1,2,3,5,6,7). Từ trước tới
nay có rất nhiều phương pháp phẫu thuật khác
nhau đã được áp dụng đối với khe hở môi và
vòm miệng. Và hiện nay chỉ định phẫu thuật đã
có nhiều thay đổi theo xu hướng can thiệp phẫu
thuật sớm. Từ tháng 6/2011 phẫu thuật tạo hình
khe hở môi đơn (KHM‐ Unilateral cleft lip) bằng
phương pháp sử dụng kỹ thuật Onizuka cải tiến
được thực hiện tại bệnh viện Nhi Trung Ương.
Mục đích của phương pháp này nhằm đánh giá
tính khả thi, biến chứng cũng như kết quả phẫu
thuật tạo hình.
Mục tiêu nghiên cứu
Đánh giá tính khả thi, biến chứng và kết quả
phẫu thuật tạo hình.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
76 bệnh nhân được phẫu thuật tại bệnh viện
Nhi Trung ương từ tháng 6 năm 2011 đến tháng
3 năm 2013, có các tiêu chuẩn sau:
Tuổi từ 4 tuần đến 6 tuần tuổi.
Khe hở môi đơn (một bên).
Không có can thiệp chỉnh nha trước phẫu
thuật.
Không có bệnh lý tim mạch.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả tiến cứu không có nhóm
chứng.
Phương pháp phẫu thuật
Đánh giá trước phẫu thuật
Khe hở môi toàn bộ hay không toàn bộ.
Khe hở một bên hay hai bên.
Khe hở đơn thuần, hay kết hợp khe hở vòm
miệng.
Tình trạng thiểu sản sụn cánh mũi bên khe
hở.
Tình trạng trụ mũi lệch sang bên lành.
Vẽ, thiết kế các đường rạch da và niêm mạc, kết
hợp đường mở niêm mạc dọc theo đường ranh
giới môi khô – ướt, chèn vạt niêm mạc từ ngoài
vào tạo hình mấu lồi môi.
Gây tê tại chỗ bằng dung dịch Lidocain,
adrenalin 1/100.000.
Rạch da và niêm mạc, bóc tách giải phóng
da, cơ và niêm mạc môi.
Mở rộng và kéo dài niêm mạc miệng phía
bên ngoài khe hở môi bằng kỹ thuật “L
technique”, niêm mạc phía bên trong khe hở cắt
qua phanh môi trên.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Chuyên Đề Ngoại Nhi 4
Giải phóng điểm bám sai của cơ vòng môi
và cơ ngang mũi tại chân cánh mũi và gai mũi
trước. Tại chân cánh mũi rạch da mở rộng vào
trong theo đường ranh giới da‐ niêm mạc tạo 2
vạt, tái tạo nền mũi và lớp niêm mạc vòm sát
cung răng (Với trường hợp kết hợp khe hở
vòm).
Dùng kéo nhỏ đầu tù – đầu cong bóc tách
giải phóng sụn cánh mũi bên thiểu sản qua 2
đường: Từ chân cánh mũi lên và từ chân trụ
mũi.
Trượt vạt niêm mạc miệng và khâu tạo hình
bằng chỉ vicryl 5,0.
Khâu cơ vòng môi với nhau và cố định vào
gai mũi trước bằng vicryl 5/0, khâu da bằng
prolene 6l/0.
Theo dõi và điều trị sau mổ
Bệnh nhân được nuôi dưỡng bằng đường
tĩnh mạch ngày đầu tiên sau mổ.
Ngày thứ 2 trẻ bắt đầu được bú bình.
Ngày thứ 3 ra viện, sau 7 ngày cắt chỉ.
Khám lại sau 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng.
KẾT QUẢ
Đặc điểm bệnh nhân
Phân bố tuổi: Trung bình 34 ± 4 ngày tuổi,
thấp nhất 28 ngày, cao nhất 45 ngày tuổi.
Phân bố theo giới: Nam 34, nữ 42.
Bảng 1. Phân bố bệnh nhân theo mức độ khe hở.
Mức độ khe hở Số BN %
Khe hở không toàn bộ 16 21,05
Khe hở toàn bộ 60 78,95
Tổng số 76 100
Bảng 2. Phân bố bệnh nhân kết hợp khe hở vòm.
Số BN %
KHM đơn thuần 21 27,63
KHM kết hợp khe hở vòm, khe hở cung răng 55 72,37
Tổng số 76 100
Các kết quả trong mổ và trong thời gian
hậu phẫu
Thời gian mổ trung bình 45,36 ± 12,32 phút,
ngắn nhất 20 phút, dài nhất 65 phút.
Thời gian nằm viện trung bình 2,51 ± 1,5
ngày (ngắn nhất 2 ngày – đối với các khe hở môi
không toàn bộ, dài nhất 5 ngày).
Không có trường hợp nào có biến chứng
nặng như chảy máu, không đủ tổ chức để tạo
hình – cần phải sử dụng kỹ thuật bổ sung.
15 trường hợp có sử dụng ghép sụn vách
mũi vào phần sụn cánh mũi bên thiểu sản.
04 trường hợp viêm và toác vết mổ ở phần
niêm mạc miệng.
Kết quả theo dõi sau mổ
Bảng 3. Đánh giá các đặc điểm giải phẫu thẩm mỹ
môi trên.
Kết quả Số BN/76 %
Chiều cao
môi
Cân đối 70 92,11
Thiếu 6 7,89
Đường viền
môi
Liên tục 74 97,37
Không liên tục 2 2,63
Trụ mũi
Cân đối 55 72,37
Lệch sang bên lành 21 27,63
Độ rộng nền
mũi
Cân đối 67 88,16
Hẹp 3 3,95
Rộng 3 3,95
Cánh mũi
Cân đối (tương đối) 59 77,63
Xẹp 17 22,37
Mấu lồi môi
Có 70 92,11
Không 6 7,89
Môi đỏ
Đều và cân đối 72 94,74
Khuyết môi đỏ (huýt sáo) 4 5,26
Nhân trung
Cân đối 67 88,16
Lệch 9 11,84
BÀN LUẬN
Chỉ định can thiệp phẫu thuật
Mặc dù phẫu thuật tạo hình khe hở môi và
vòm miệng có từ năm 1816(3,5,6,7) với nhiều
phương pháp và kỹ thuật khác nhau được áp
dụng. Tuy nhiên hiện nay chỉ định phẫu thuật
đã có nhiều thay đổi với xu hướng can thiệp
phẫu thuật sớm. Trước năm 2005(1,3,6,,8) đa số các
tác giả trên thế giới lựa chọn chỉ định can thiệp
khe hở môi khi trẻ từ 6 tháng tuổi, cân nặng trên
9 kg.Từ năm 2008, quan niệm đó đã được thay
đổi (2,8) với chỉ định phẫu thuật theo quy tắc
10.10.10 (tức là trẻ từ 10 tuần tuổi, trọng lượng
tối thiểu P= 10 pound = 4,5359 kg, và huyết sắc
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Nhi 5
tố trên 10 gram). Theo nhiều tác giả khác nhau
trên thế giới (2,6,8), điều kiện phẫu thuật tuân theo
quy tắc 10.10.10 giúp trẻ đủ điều kiện gây mê an
toàn, hệ thống cơ vòng môi đã phát triển đủ để
dẽ dàng bóc tách và phẫu tích cũng như tránh
nguy cơ chảy máu trong mổ.
Hiện nay với sự phát triển không ngừng của
gây mê và hồi sức ngoại Nhi, tại bệnh viện Nhi
TW chúng tôi có thể gây mê được các trẻ dưới 2
kg, cùng với đó là kỹ thuật mổ hoàn thiện, gây
tê tại chỗ tốt, cầm máu tốt. Chúng tôi cho rằng 2
yếu tố cân nặng (trọng lượng P) và huyết sắc tố
không còn là yếu tố quyết định trong chỉ định
lựa chon thời điểm phẫu thuật. Yếu tố còn lại
quyết định thời điểm chỉ định mổ đó chính là
tuổi của bệnh nhân. Trong nghiên cứu này
chúng tôi lựa chọn tuổi phẫu thuật khi trẻ ở giai
đoạn sơ sinh.
Thời điểm “Tuổi” chỉ định mổ
Với các khe hở môi đơn (1 bên – unilateral
cleft lip) không toàn bộ: chúng tôi cho rằng việc
lựa chọn thời điểm phẫu thuật không phải cân
nhắc, phù hợp với hầu hết các tác giả trên thế
giới. Vì việc can thiệp phẫu thuật sớm giúp phục
hồi tốt về cấu trúc giải phẫu, tránh các biến dạng
thứ phát đồng thời giải quyết sớm tránh các
sang chấn về tâm lý của bé và gia đình.
Với khe hở môi đơn toàn bộ: Một số tác giả
trên thế giới (1,2,4,6,,8) cho rằng khi trẻ đạt 10 tuần
tuổi hệ thống cơ vòng môi đã phát triển đủ lớn,
da ‐ niêm mạc môi trên đủ dầy để phẫu tích và
có thể chịu được sức căng nhất định khi khâu.
Trong nghiên cứu của chúng tôi tất cả các
trường hợp khe hở môi toàn bộ đều kết hợp khe
hở vòm và khe hở cung răng.
Trong những trường hợp KHM có kèm theo
khe hở cung răng và vòm miệng: 2 bờ khe hở
môi và 2 đầu khe hở cung răng cách xa nhau
khoảng 10 mm – 15 mm, bên canh đó ở độ tuổi
sơ sinh xương cung răng rất mềm, cùng với hệ
thống cơ mút, cơ bú xuất hiện ngay sau khi trẻ
sinh ra, khi 1 tháng đủ lớn đủ khả năng bóc tách
và phẫu tich. Hệ thống cơ vòng môi và cơ ngang
mũi bám sai tại chân cánh mũi (bên khe hở) và
gai mũi trước, có phản xạ tự nhiên và hoạt động
ngay lập tức sau trẻ sinh ra. Chính hiện tượng
bám sai này cùng với sự phát triển của hệ thống
cơ bám lệch vào 2 bên bờ khe hở làm cho khe hở
có xu hướng mở rộng hơn và tiếp tục làm tăng
mức độ biến dạng của môi (2 bên khe hở bị vồng
lên như mặt kính đồng hồ), 2 đầu khe hở cung
răng càng tách xa nhau, dẫn đến phần vòm
cứng – phần sát cung răng ở khe hở vòm không
có khả năng tự khép.
Do vậy can thiệp phẫu thuật sớm trong giai
đoạn sơ sinh trên khe hở môi 1 bên có kèm khe
hở cung răng và vòm miệng có nhiều ưu điểm:
Giải phóng điểm bám lệch của cơ vòng môi và
cơ ngang mũi, giải phóng sụn cánh mũi bên
thiểu sản, nhanh chóng tái lập và phục hồi cấu
trúc sinh lý của cơ vòng môi và cơ ngang mũi.
Hạn chế và giảm thiểu mức độ biến dạng của
môi, trụ mũi và cánh mũi. Đặc biệt do ở môi trên
gồm 2 hệ thống cơ hoạt động đối lập nhau có tác
dụng khép và há miệng. Chính sự giải phóng
điểm bám sai chỗ và phục hồi sinh lý của cơ
vòng môi đã giúp sớm hoàn thiện hệ thống cơ
xung quanh miệng. Với sự hoạt động và phát
triển hoàn thiện của hệ thống cơ xung quanh
miệng kết hợp với đặc điểm xương hàm, cung
răng ở giai đoạn sơ sinh mềm dễ uốn sẽ nhanh
chóng đưa 2 đầu khe hở cung răng khít lại với
nhau, làm cho khe hở vòm nhỏ lại, tạo điều kiện
thuận lợi để thời gian phẫu thuật vòm sớm hơn.
Lựa chọn kỹ thuật Onizuka cải tiến
Trong nghiên cứu này chúng tôi lựa chọn kỹ
thuật Onizuka bởi vì bản chất của phương pháp
này là kết hợp của 2 phương pháp tạo hình môi
kinh điển Millard và Tennison. Với Millard vạt
xoay chữ “C” từ phần nhân trung để tạo hình
nền mũi và vạt đẩy từ ngoài vào vẫn được sử
dụng. Phần thiếu hụt chiều cao môi trên ở nhân
trung được khắc phục bởi một vạt tam giác nằm
sát đường viền môi ở bờ ngoài chèn vào. Niêm
mạc môi dễ dàng huy động từ trong miệng (bờ
ngoài khe hở) bằng vạt Imre niêm mạc hay sử
dụng L – technique.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Chuyên Đề Ngoại Nhi 6
Trong nghiên cứu này chúng tôi có cải tiến
phương pháp Onizuka, bằng đường rạch niêm
mạc dọc theo bờ ranh giới môi khô và môi ướt,
kèm theo thiết kế vạt niêm mạc từ bờ ngoài chèn
vào nhằm tạo hình mấu lồi môi, tạo cân đối cho
làn môi đỏ. Bên cạnh đó chúng tôi dùng kéo nhỏ
đầu tù bóc tách giải phóng sụn cánh mũi bên
thiểu sản, qua 2 đường chân cánh mũi – trụ mũi,
và ghép sụn vách mũi nếu biến dạng nhiều.
Điều này nhanh chóng giúp cải thiện mức độ
biến dạng cánh mũi và đầu mũi.
Kết quả phẫu thuật
Các đặc điểm thẩm mỹ vùng môi: Theo
nghiên cứu của chúng tôi 3 ‐ 6 tháng sau mổ:
tình trạng thiếu chiều cao môi trên, biến dạng
cung cupidon không tồn tại với trên 90% kết quả
tốt. Các kết quả trong nghiên cứu của chúng tôi
tương tự như nghiên cứu của các tác giả khác.
Dấu hiệu môi “huýt sáo” do khuyết môi đỏ có 4
trường hợp, đây là những trường hợp có hiện
tượng viêm tấy nhiễm khuẩn và toác vết mổ
vùng niêm mạc môi. Do trẻ được bố mẹ cho bú
sớm, không giữ vệ sinh được vùng mổ, các cặn
sữa bám vào chỉ gây viêm. Tất cả các trường hợp
này được khắc phục bằng phẫu thuật thì 2: Z –
Plasty niêm mạc 6 tháng sau phẫu thuật lần
đầu(4,5).
Về khe hở cung răng và khe hở vòm phối
hợp: theo nghiên cứu của chúng tôi sau phẫu
thuật tạo hình môi 6 tháng thì 2 đầu khe hở
cung răng sẽ khít lại với nhau dưới tác động của
hệ thống cơ vùng môi, quanh miệng hoạt động
đối lập nhau. Chính điều này dẫn đến quá trình
khe hở vòm sẽ tự động thu nhỏ lại mặc dù
không cần bất kỳ sự can thiệp chỉnh nha nào.
Đây được coi như một biện pháp chỉnh nha sinh
lý. Điều đó sẽ giúp cho chỉ định can thiệp vòm
miệng được tiến hành sớm hơn (khoảng sau 6
tháng tuổi). Một số tác giả trên thế giới cũng
thống nhất quan điểm can thiệp vòm sớm kết
hợp phục hồi được cơ nâng màn hầu góp phần
giúp trẻ phát âm tốt hơn(4,5,8). Vì về mặt sinh lý,
quá trình liền vết thương và liền sẹo được diễn
ra trong 9 đến 18 tháng, do đó nếu vòm được
can thiệp phẫu thuật sớm thì sẹo ở vòm, vòm
miệng sẽ mềm mại, vận động dễ dàng hơn, sớm
trước 18 tháng khi trẻ bắt đầu tập nói.
Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận 17
trường hợp mặc dù phẫu thuật tạo hình môi cân
đối giữa các đơn vị thẩm mỹ môi trên, 2 đầu khe
hở cung răng đã liền sát vào nhau. Tuy nhiên có
sự phát triển bất thường về mọc răng tại vị trí,
các răng tại vị trí này đẩy lồi môi ra và gây biến
dạng môi. Với những trường hợp này chúng tôi
cho rằng cần thiết nên có chỉnh nha để giúp răng
mọc đều và tránh xô lệch.
KẾT LUẬN
Phẫu thuật tạo hình khe hở môi 1 bên
(Unilateral cleft lip) ở trẻ sơ sinh bằng kỹ thuật
“Onizuka – cải tiến” đã được thực hiện có hiệu
quả tại bệnh viện Nhi Trung Ương với trên 88%
kết quả tốt. Tuổi chỉ đinh phẫu thuật KHM sớm
khi trẻ 1 tháng tuổi, tạo điều kiện thuận lợi để
rút ngắn thời gian chờ đợi phẫu thuật khe hở
vòm thì 2.
Đây là một phương pháp phẫu thuật an
toàn, kết quả tốt, có tính khả thi cao. Khi được
chỉ đinh chặt chẽ và áp dụng tại bệnh viện và
trung tâm lớn có thể gây mê hồi sức ngoại nhi
cho trẻ sơ sinh.
MỘT SỐ HÌNH ẢNH MINH HỌA
Hình 1. Nguyễn Gia B – 1 tháng tuổi, trước và sau
phẫu thuật.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Nhi 7
Hình 2. Bạch Vĩ A – 1,5 tháng tuổi; trước và sau
phẫu thuật.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Farmand M (2002). Lip Repair Techniques and Their
Influence on the Nose, Facial Plastic Surg 2002. Vol.18, No.3:
pp155‐164.
2. Joshua C, Demke, Sherard A, Tatum (2011). Analysis and
evolution of rotation principles in unilateral cleft lip repair.
Journal of Plastic, Reconstructive & Aesthetic Surgery 64: pp
313 – 318.
3. Koh KS, Hong JP (2005). Unilateral complete cleft lip repair:
orthotopic positioning of skin flap. Br. J. Plast. Surg, 58: pp
147.
4. Nakajima T, Yoshimura Y, Yoneda K (1998). Primary repair
of an incomplete unilateral cleft lip: Avoiding an elongated
lip and achieving a straight suture line. Br. J. Plast. Surg, 51:
pp 511‐ 516.
5. Noordhoff MS, Chen PK (2006). Unilateral cheiloplast. In:
Mathes SJ edit, Plastic Surgery. 2nd ed. Phil‐adelphia:
Saunders Elsevier, pp 165‐215.
6. Onizuka T (1980). A New Method for the Primary Repair of
Unilateral Cleft Lip, Ann Plastic Surg, Vol. 4, No.6: pp 516‐
524.
7. Onizuka T, Ichinose M, Hosaka Y, Usui Y, Jinnai T (1991). The
Contour Lines of the Upper Lip and a Revised Method of
Cleft Lip Repair, Ann Plastic Surg Vol. 27: pp 238‐252.
8. Zhang B, Wang C, Liu Q, Li Z, Xu X (2011). A modified
Onizuka cheiloplasty for repairing the unilateral cleft lip,
Aug:29(4): pp 400‐408.
Ngày nhận bài 10/07/2013.
Ngày phản biện nhận xét bài báo 17/07/2013.
Ngày bài báo được đăng: 15–09‐2013
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_gia_ket_qua_phau_thuat_tao_hinh_khe_ho_moi_mot_ben_o_tr.pdf