Mất vững cột sống là một trong những
nguyên nhân gây đau cột sống trong
TĐS. Phẫu thuật điều trị TĐS bằng cố
định cột sống qua cuống giúp cột sống
được làm vững tạm thời ngay sau mổ.
Kết quả cho thấy BN đỡ đau lưng ngay
sau mổ do cột sống được cố định vững
chắc. Sử dụng dụng cụ cố định đã được
nhiều tác giả trong và ngoài nước thống
nhất [1]. Tuy nhiên, để làm vững cột sống
lâu dài thì cố định chưa đủ, cần phải ghép
xương. Ghép xương có vai trò quan trọng
trong việc điều trị thành công TĐS. Có
nhiều loại xương có thể sử dụng như
xương tự thân (cung sau, gai sau cắt nhỏ,
xương chậu, ), xương đồng loại, xương
nhân tạo Nhiều nghiên cứu gần đây
chứng minh ghép xương tự thân cho kết
quả liền xương tốt nhất, chúng tôi sử
dụng nguồn xương ghép là gai sau và
cung sau cắt nhỏ, cho tỷ lệ liền xương
cao (94,1%). Có nhiều kỹ thuật ghép
xương, chúng tôi áp dụng kỹ thuật ghép
xương sau bên vào diện khớp và phần
còn lại của cung sau, kỹ thuật này có
nhiều lợi điểm: Đơn giản, ít chảy máu,
không phải bộc lộ quá nhiều ra ngoài gai
ngang và tủy sống nên hạn chế phá vỡ
cấu trúc xung quanh, ít nguy cơ tổn thương
thần kinh và sẹo dính sau mổ. Điểm quan
trọng của kỹ thuật này là phải bảo tồn
được vùng liên mấu khớp của đốt sống
trong khi tiến hành cắt cung sau giải chèn
ép, nếu phá vỡ cấu trúc này, việc ghép
xương liên mấu không còn ý nghĩa. Từ
thực tế có 2 trường hợp không can
xương, chúng tôi nhất trí với nhận xét cho
rằng việc chuẩn bị xương ghép rất quan
trọng, do vậy phải làm sạch tổ chức sụn
giữa 2 mặt khớp đồng thời dọn sạch tổ
chức phần mềm ở cung sau. Theo kinh
nghiệm của chúng tôi, nên sử dụng
khoan mài, sau đó dùng đục tăng cường
để chuẩn bị nền ghép thật tốt.
93,2% BN có kết quả điều trị tốt và rất
tốt, tỷ lệ phục hồi trung bình 82,44 ±
21,2%. Mức độ cải thiện VAS lưng, VAS
chân và chức năng cột sống (ODI) cải
thiện rõ rệt so với trước mổ. Kết quả phẫu
thuật cho thấy phẫu thuật cố định cột
sống, giải chèn ép, ghép xương sau bên
điều trị TĐS do thoái hóa rất hiệu quả.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 12 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá kết quả phẫu thuật trượt đốt sống thắt lưng do thoái hóa bằng kỹ thuật bắt vít qua cuống và ghép xương sau bên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 8-2020
81
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHẪU THUẬT TRƯỢT ĐỐT SỐNG
THẮT LƯNG DO THOÁI HÓA BẰNG KỸ THUẬT BẮT VÍT
QUA CUỐNG VÀ GHÉP XƯƠNG SAU BÊN
Nguyễn Khắc Linh1, Cao Hữu Từ2
Phan Trọng Hậu2, Bùi Tuấn Anh1
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá kết quả phẫu thuật điều trị trượt đốt sống (TĐS) thắt lưng do thoái hóa
bằng kỹ thuật bắt vít qua cuống và ghép xương sau bên. Đối tượng và phương pháp:
34 bệnh nhân (BN), chẩn đoán TĐS thắt lưng do thoái hóa, được điều trị phẫu thuật giải chèn
ép thần kinh, bắt vít qua cuống và ghép xương sau bên, theo dõi lâm sàng và chẩn đoán
hình ảnh trước và sau phẫu thuật. Kết quả: Nghiên cứu gồm 9 nam, 25 nữ, tuổi trung bình
64,26 ± 9,7. Mức độ đau lưng và đau chân theo thang điểm VAS, chức năng cột sống theo
thang điểm ODI tại thời điểm trước mổ (7,12 ± 1,387; 7,38 ± 1,015; 76,895 ± 7,469) và tại thời
điểm khám lại (1 ± 1,255; 0,85 ± 1,048; 14,165 ± 13,753) giảm rõ rệt. Kết quả phẫu thuật đánh
giá theo thang điểm của JOA: Tốt: 67,6%; khá: 26,5%; trung bình: 2,9%; kém: 2,9%. Tỷ lệ can
xương đạt 94,1% (32 BN), 4 BN (11,8%) có tai biến, biến chứng trong và sau mổ (2 BN nhiễm
khuẩn vết mổ, 1 BN rách màng cứng, 1 BN tổn thương rễ thần kinh). Kết luận: Điều trị TĐS
thắt lưng do thoái hóa bằng phương pháp cố định cột sống qua cuống, giải chèn ép, ghép xương
sau bên có kết quả tốt, ít tai biến và biến chứng.
* Từ khóa: Trượt đốt sống do thoái hóa; Ghép xương sau bên; Kỹ thuật bắt vít qua cuống.
Evaluation of the Result of Posterolateral Lumbar Spine Fusion
and Pedicular Screw Fixation for Lumbar Degenerative Spondylolisthesis
Summary
Objectives: To assess the result of surgical treatment of degenerative spondylolisthesis with
screw fixation and posterolateral fusion. Subjects and methods: 34 patients were diagnosed
as degenerative lumbar spondylolisthesis (DLS) and were treated by surgical decompression,
screw fixation and posterolateral fusion. These patients were followed clinically and paraclinically as
well as pre- and post-operation. Results: There were 9 males and 25 females with the mean
age of 64.26 ± 9.7. Level of low back pain and leg pain according to VAS as well as spinal
function according to Oswestry Disability Index (ODI) at the timepoints of pre-operation (7.12 ±
1.387, 7.38 ± 1.015, 76.895 ± 7.469) and after 6 months of re-examination (1 ± 1.255, 0.85 ±
1.048, 14.165 ± 13.753) decreased signigicantly. Surgical results classified by JOA score were
as follows: Excellent: 67.6%, good: 26.5%, moderate: 2.9%, fair: 2.9%. Solid fusion rate were 94.1%
(32 patients). Complications of infection site were present in 2 patients, dural tear in 1 patient,
nerve root injury in 1 patient. Conclusion: This method brings good result with fewer complications.
* Keywords: Degenerative spondylolisthesis; Posterolateral fusion; Pedicular screw fixation.
1Khoa Chấn thương Chỉnh hình, Bệnh viện Quân y 103, Học viện Quân y
2Bệnh viện TWQĐ 108
Người phản hồi: Nguyễn Khắc Linh (Linhnk.k45qy@gmail.com)
Ngày nhận bài: 14/9/2020
Ngày bài báo được đăng: 28/10/2020
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 8-2020
82
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trượt đốt sống là sự di chuyển bất
thường ra phía trước của thân đốt sống
cùng với cuống, mỏm ngang và diện khớp
phía trên so với đốt sống dưới. TĐS thắt
lưng là bệnh thường gặp trong các bệnh
lý cột sống thắt lưng, trong đó nguyên nhân
thoái hóa là chủ yếu.
Mặc dù đã có nhiều báo cáo lâm sàng
về các phương pháp phẫu thuật TĐS do
thoái hóa như PLIF, TLIF, XLIF, PLF...
đều cho kết quả tốt, tuy nhiên các quan
điểm còn chưa thống nhất [3]. Nhiều ý
kiến khác nhau về phạm vi giải chèn ép,
cố định cột sống, đặc biệt là phương
pháp ghép xương... Gần đây, các phẫu
thuật viên có xu hướng thực hiện kỹ thuật
ghép xương liên thân đốt với luận cứ:
Thân đốt là nơi chịu lực chính của cột
sống (80%), diện ghép xương lớn, vì vậy
ghép xương là hợp sinh lý và tỷ lệ liền
xương cao [4]. Tuy nhiên, nhiều nghiên
cứu ở Việt Nam và nước ngoài cho thấy
không có sự khác nhau có ý nghĩa thống
kê giữa nhóm ghép xương sau bên và
ghép xương liên thân đốt [5].
Tại Khoa Chấn thương Chỉnh hình Cột
sống, Bệnh viện TWQĐ 108 đã thực hiện
nắn chỉnh các di lệch của cột sống, cố
định bằng nẹp vít qua cuống sống, ghép
xương sau bên bằng xương tự thân, giải
phóng chèn ép thần kinh trong phẫu thuật
điều trị TĐS do thoái hóa, mang lại kết
quả tốt. Chúng tôi thực hiện nghiên cứu
này nhằm: Đánh giá kết quả phẫu thuật
điều trị TĐS thắt lưng do thoái hóa bằng
kỹ thuật bắt vít qua cuống và ghép xương
sau bên.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
34 BN chẩn đoán TĐS vùng thắt lưng
do thoái hóa, được phẫu thuật tại Khoa
Chấn thương Chỉnh hình Cột sống, Bệnh
viện TWQĐ đội 108 từ tháng 01/2015 -
6/2020 bằng đường vào lối sau giải chèn
ép, cố định cột sống qua cuống kèm ghép
xương tự thân sau bên.
* Tiêu chuẩn lựa chọn:
Bệnh nhân đã qua thăm khám, được
làm các xét nghiệm cần thiết để xác định
là TĐS vùng thắt lưng do thoái hóa và có
chỉ định phẫu thuật.
Được phẫu thuật theo phương pháp
nắn chỉnh di lệch, giải phóng chèn ép,
cố định cột sống qua cuống kèm ghép
xương sau bên.
* Tiêu chuẩn loại trừ:
- Trượt đốt sống do các nguyên nhân
khác.
- Bệnh nhân có dị tật 2 chi dưới, các
bệnh lý nội khoa ảnh hưởng lớn tới
chẩn đoán (lao cột sống, viêm màng
nhện tuỷ).
2. Phương pháp nghiên cứu
* Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu hồi
cứu, mô tả cắt ngang không đối chứng.
* Nội dung nghiên cứu:
- Một số yếu tố dịch tễ: Tuổi, giới, vị trí
trượt, mức độ TĐS.
- Lâm sàng trước và sau phẫu thuật.
- Chẩn đoán hình ảnh trước và sau
phẫu thuật.
- Phương pháp phẫu thuật, tai biến,
biến chứng trong và sau phẫu thuật.
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 8-2020
83
- Đánh giá kết quả dựa vào thang điểm
đánh giá mức độ đau (Visual Analoge
Scale - VAS), thang điểm đánh giá chức
năng vận động của cột sống (Oswestry
Disability Index - ODI). Sử dụng hệ thống
cho điểm đánh giá BN của Hiệp hội Chấn
thương Chỉnh hình Nhật Bản (JOA score)
trước và sau mổ. Tỷ lệ phục hồi theo
thang điểm JOA được tính theo công thức:
Tỷ lệ bình phục (%) = (Điểm khám lại -
điểm trước mổ)/(29 - điểm trước mổ) x 100%.
Đánh giá kết quả: Rất tốt (> 75%), tốt
(50 - 75%), trung bình (25 - 50%) và xấu
(< 25%) [6].
* Xử lý số liệu:
Sử dụng các thuật toán thống kê: Tính
tỷ lệ %, giá trị trung bình, độ lệch chuẩn
(SD), so sánh 2 giá trị trung bình quan sát
theo test t-student, so sánh tỷ lệ, đánh giá
mối tương quan giữa 2 biến bằng phần
mềm SPSS 20.0.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu
Bảng 1: Đặc điểm chung.
Đặc điểm n Tỷ lệ (%)
Giới tính
Nam
Nữ
9
25
26,47
73,53
Tuổi
40 - 60
> 60
13
21
38,24
61,76
Vị trí trượt
L3
L4
L5
L4, L5
9
22
1
2
26,5
64,7
2,9
2,9
Mức độ trượt (theo Meyerding)
Độ I
Độ II
33
1
97,1
2,9
Triệu chứng lâm sàng chủ yếu
Đau cột sống thắt lưng
Đau lan theo rễ thần kinh
Đau cách hồi thần kinh
Dấu hiệu bậc thang
Rối loạn vận động
Rối loạn cảm giác
Rối loạn cơ tròn
33
33
32
16
22
27
0
97,1
97,1
94,1
47,1
64,7
74,9
0,0
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 8-2020
84
Độ tuổi > 60 tuổi gặp nhiều nhất với 21 BN, chiếm 61,76%. 33 BN TĐS thắt lưng
độ I (97,1%). TĐS thắt tại vị trí L4 chiếm tỷ lệ cao nhất (22 BN = 64,7%). Triệu chứng
lâm sàng của BN là đau cột sống thắt lưng, đau kiểu rễ thần kinh, dấu hiệu bậc thang,
dấu hiệu đau cách hồi, rối loạn cảm giác và vận động; không gặp rối loạn cơ tròn.
2. Mức độ đau lưng, đau chân, chức năng cột sống trước và sau mổ
Bảng 2: Mức độ đau lưng, đau chân, chức năng cột sống trước và sau mổ.
Trước mổ (n = 34) Sau mổ (n = 34) p
VAS lưng 7,12 ± 1,387 1 ± 1,255 < 0,05
VAS chân 7,38 ± 1,015 0,85 ± 1,048 < 0,05
ODI 76,895 ± 7,469 14,165 ± 13,753 < 0,05
Sau phẫu thuật 6 tháng, mức độ đau trung bình của cả chân và lưng ở mức đau ít,
mức độ giảm chức năng cột sống cải thiện rõ rệt. Mối tương quan có ý nghĩa thống kê.
3. Kết quả liền xương tại thời điểm kiểm tra
Sau phẫu thuật 6 tháng, tỷ lệ liền xương cao với 32 BN (94,1%), chỉ 2 BN (5,9%)
không liền xương.
4. Kết quả phẫu thuật theo thang điểm JOA
Bảng 3: Kết quả phẫu thuật theo thang điểm JOA.
Loại Rất tốt Tốt Trung bình Kém Tổng
n 23 9 1 1 34
% 67,6 26,5 2,9 2,9 100,0
Tỷ lệ phục hồi trung bình 82,44 ± 21,2%, thấp nhất 1 trường hợp (6,25%) phải mổ
lại, cao nhất 100%, BN xem như phục hồi hoàn toàn.
4 BN (11,8%) gặp tai biến, biến chứng trong và sau mổ. Trong đó, 2 BN biến chứng
nhiễm khuẩn vết mổ được thay băng cắt chỉ cách quãng và chăm sóc vết thương liền
tốt không phải tháo dụng cụ, 1 BN có tổn thương rễ không hoàn toàn trong quá trình
cắt dây chằng vàng ngách bên để giải chèn ép, 1 BN rách màng cứng trong quá trình
giải chèn ép được khâu bằng chỉ prolene 5.0, không có biến chứng rò dịch não tủy.
Cả 4 BN được hậu phẫu tốt, ổn định ra viện.
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 8-2020
85
BÀN LUẬN
Thoái hóa cột sống là quá trình xảy ra
từ rất sớm, hậu quả bệnh lý do thoái hóa
gây nên không phải lúc nào cũng tương
ứng với những quan sát được trên chẩn
đoán hình ảnh, do đó còn nhiều ý kiến
chưa thống nhất. Việc giải thích chính xác
và toàn diện các hình ảnh liên quan đến
cột sống thoái hóa luôn khó khăn với các
nhà khoa học. Với sự hiểu biết hiện nay,
có thể khẳng định những thay đổi do quá
trình thoái hóa gây nên có thể làm mất
vững cột sống dẫn tới TĐS [4].
Nhiều nghiên cứu cho thấy các triệu
chứng thường gặp nhất trong bệnh TĐS
thoái hóa là: Đau cột sống thắt lưng, dấu
hiệu chèn ép rễ thần kinh và dấu hiệu đau
cách hồi thần kinh. Các triệu chứng tăng
lên khi đi lại vận động nhiều và giảm khi
nằm nghỉ ngơi [7]. Chúng tôi thấy 97,1%
BN đau cột sống thắt lưng và đau kiểu rễ
thần kinh, 94,1% BN có dấu hiệu đau
cách hồi thần kinh, kết quả này phù hợp
với một số tác giả khác [1, 2]. Dấu hiệu
bậc thang là biến dạng đặc trưng của
TĐS, tuy nhiên chúng tôi chỉ gặp 47,1%
có dấu hiệu này, do BN trong nghiên cứu
TĐS do thoái hóa, độ trượt thấp, cấu trúc
xung quanh bù trừ và hay gặp ở người
thừa cân nên dấu hiệu bậc thang không
rõ ràng.
Hiện nay, phẫu thuật là xu hướng điều
trị phổ biến đối với bệnh TĐS do đạt kết
quả giảm đau tốt hơn và có tính chất triệt
để hơn điều trị bảo tồn. Tuy nhiên, nhiều
tác giả lưu ý nên điều trị bảo tồn trước khi
điều trị phẫu thuật với các phương pháp
chính là: Nghỉ ngơi, sử dụng thuốc giảm
đau chống viêm nhóm NSAIDs, vật lý trị
liệu và đeo áo nẹp hỗ trợ. Can thiệp phẫu
thuật chỉ thực hiện khi điều trị bảo tồn
thất bại. Có nhiều phương pháp phẫu thuật
đã được áp dụng, đều có mục đích làm
vững cột sống và giải chèn ép thần kinh.
Qua kinh nghiệm thực tế và kết quả đã
đạt được, chúng tôi thấy: Ở BN TĐS do
thoái hóa, nguyên nhân gây hẹp ống
sống chèn ép thần kinh chủ yếu là phì đại
khối mấu khớp và dày dây chằng vàng.
Chúng tôi áp dụng kỹ thuật mở cửa sổ
xương, lấy bỏ phần dây chằng vàng phì
đại, cắt ngầm cung sau ra tận vùng ngách
bên. Việc giải ép như vậy rất triệt để và
hiệu quả, kết quả cho thấy mức độ đau
chân sau mổ giảm rõ rệt.
Mất vững cột sống là một trong những
nguyên nhân gây đau cột sống trong
TĐS. Phẫu thuật điều trị TĐS bằng cố
định cột sống qua cuống giúp cột sống
được làm vững tạm thời ngay sau mổ.
Kết quả cho thấy BN đỡ đau lưng ngay
sau mổ do cột sống được cố định vững
chắc. Sử dụng dụng cụ cố định đã được
nhiều tác giả trong và ngoài nước thống
nhất [1]. Tuy nhiên, để làm vững cột sống
lâu dài thì cố định chưa đủ, cần phải ghép
xương. Ghép xương có vai trò quan trọng
trong việc điều trị thành công TĐS. Có
nhiều loại xương có thể sử dụng như
xương tự thân (cung sau, gai sau cắt nhỏ,
xương chậu,), xương đồng loại, xương
nhân tạo Nhiều nghiên cứu gần đây
chứng minh ghép xương tự thân cho kết
quả liền xương tốt nhất, chúng tôi sử
dụng nguồn xương ghép là gai sau và
cung sau cắt nhỏ, cho tỷ lệ liền xương
cao (94,1%). Có nhiều kỹ thuật ghép
xương, chúng tôi áp dụng kỹ thuật ghép
xương sau bên vào diện khớp và phần
còn lại của cung sau, kỹ thuật này có
nhiều lợi điểm: Đơn giản, ít chảy máu,
không phải bộc lộ quá nhiều ra ngoài gai
ngang và tủy sống nên hạn chế phá vỡ
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 8-2020
86
cấu trúc xung quanh, ít nguy cơ tổn thương
thần kinh và sẹo dính sau mổ. Điểm quan
trọng của kỹ thuật này là phải bảo tồn
được vùng liên mấu khớp của đốt sống
trong khi tiến hành cắt cung sau giải chèn
ép, nếu phá vỡ cấu trúc này, việc ghép
xương liên mấu không còn ý nghĩa. Từ
thực tế có 2 trường hợp không can
xương, chúng tôi nhất trí với nhận xét cho
rằng việc chuẩn bị xương ghép rất quan
trọng, do vậy phải làm sạch tổ chức sụn
giữa 2 mặt khớp đồng thời dọn sạch tổ
chức phần mềm ở cung sau. Theo kinh
nghiệm của chúng tôi, nên sử dụng
khoan mài, sau đó dùng đục tăng cường
để chuẩn bị nền ghép thật tốt.
93,2% BN có kết quả điều trị tốt và rất
tốt, tỷ lệ phục hồi trung bình 82,44 ±
21,2%. Mức độ cải thiện VAS lưng, VAS
chân và chức năng cột sống (ODI) cải
thiện rõ rệt so với trước mổ. Kết quả phẫu
thuật cho thấy phẫu thuật cố định cột
sống, giải chèn ép, ghép xương sau bên
điều trị TĐS do thoái hóa rất hiệu quả.
KẾT LUẬN
Điều trị TĐS thắt lưng do thoái hóa
bằng kỹ thuật giải chèn ép, cố định cột
sống qua cuống, ghép xương sau bên
cho kết quả tốt, ít biến chứng. Tuy nhiên,
cần theo dõi dài hơn để đánh giá kết quả xa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phan Trọng Hậu. Nghiên cứu chẩn đoán
và điều trị phẫu thuật bệnh trượt đốt sống thắt
lưng do hở eo ở người trưởng thành. Luận án
Tiến sĩ Y học. Học viện Quân y 2006.
2. Nguyễn Vũ. Nghiên cứu điều trị trượt
đốt sống thắt lưng bằng phương pháp cố định
cột sống qua cuống kết hợp hàn xương liên
thân đốt. Luận án Tiến sĩ Y học. Trường Đại
học Y Hà Nội 2015.
3. W Sears. Posterior lumbar interbody
fusion for degenerative spondylolisthesis:
Restoration of sagittal balance using insert-
and-rotate interbody spacers. Spine J 2005;
5 (2):170-179.
4. SV Kushchayev, et al. ABCs of the
degenerative spine Insights Imaging. 2018;
9(2):253-274.
5. L Cheng, L Nie, L Zhang. Posterior
lumbar interbody fusion versus posterolateral
fusion in spondylolisthesis: A prospective
controlled study in the Han nationality. Int
Orthop 2009; 33(4):1043-1047.
6. S Kato, et al. Comparison of the
Japanese Orthopaedic Association (JOA)
score and modified JOA (mJOA) score for
the assessment of cervical myelopathy:
A multicenter observational study. PloS One
2015; 10 (4):e0123022-e0123022.
7. VK Kho, WC Chen. Posterolateral fusion
using laminectomy bone chips in the treatment
of lumbar spondylolisthesis. Int Orthop 2008;
32(1):115-119.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
danh_gia_ket_qua_phau_thuat_truot_dot_song_that_lung_do_thoa.pdf