Mặc dù là tỉnh có ngành chăn nuôi phát
triển mạnh của cả nước nhưng việc hình thành
chuỗi liên kết trong chăn nuôi ở Đồng Nai còn
rất khó khăn. Nhiều trang trại nhất là các trang
trại của nông hộ vẫn trong tình trạng tự mua
heo giống giá rẻ, kém chất lượng, không có
xuất xứ từ nhiều thương lái khác nhau, khiến
dịch bệnh xuất hiện trên diện rộng, ảnh hưởng
đến sức khỏe con người, gây thiệt hại cho chủ
trại và làm mất uy tín của cả vùng chăn nuôi.
Ngoài ra, việc kết nối các doanh nghiệp tham
gia bao tiêu sản phẩm cho các trang trại gặp
nhiều khó khăn do không có kế hoạch ký kết
bao tiêu sản phẩm với các doanh nghiệp tiêu
thụ từ thời điểm bắt đầu nhập giống; sản phẩm
vẫn chủ yếu được tiêu thụ theo phương thức
bán buôn qua thương lái nên hiệu quả chăn
nuôi chưa cao. Bên cạnh đó, chưa xây dựng
được nhãn hiệu cho sản phẩm nên chưa tạo
được dấu hiệu nhận biết sản phẩm đối với
người tiêu dùng dẫn đến sản phẩm chăn nuôi
an toàn có nguồn gốc vẫn phải cạnh tranh thiếu
lành mạnh với sản phẩm không đảm bảo chất
lượng, sản lượng tiêu thụ còn thấp, chưa tác
động mạnh đến người chăn nuôi để mở rộng
sản xuất. Đặc biệt, người chăn nuôi cũng như
các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực
giết mổ, chế biến, tiêu thụ sản phẩm khó tiếp
cận được với các nguồn vốn vay ưu đãi của
Nhà nước.
Thông qua nội dung phân tích về liên kết
giữa các trang trại chăn nuôi heo ở Đồng Nai
trong quá trình sản xuất kinh doanh cho thấy
giữa các trang trại chăn nuôi heo chưa có sự
liên kết chặt chẽ với nhau nên để tạo nên sức
mạnh và chuỗi liên kết nhằm phát huy hết hiệu
quả trong chăn nuôi. Liên kết chuỗi sản phẩm
là giải pháp quan trọng để hạn chế các khâu
trung gian, hạ giá thành, tạo sản phẩm đảm bảo
chất lượng và an toàn thực phẩm, truy xuất
nguồn gốc, hạn chế nguy cơ dịch bệnh và có
điều kiện khi cần vay vốn ngân hàng. Tuy
nhiên, việc liên kết này của các trang trại chăn
nuôi heo ở Đồng Nai còn hạn chế vì còn gặp
nhiều khó khăn từ liên kết giữa người chăn
nuôi và nhà máy sản xuất thức ăn chăn nuôi;
liên kết khép kín từ chăn nuôi sản xuất thức ăn
nuôi, giết mổ, tiêu thụ. Như vậy, các trang trại
chăn nuôi heo ở Đồng Nai thiếu tính liên kết
theo chuỗi sản phẩm này sẽ hạn chế khả năng
hội nhập của ngành nói chung.
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 2 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá khả năng cạnh tranh của các trang trại chăn nuôi heo trên địa bàn tỉnh Đồng Nai trong quá trình hội nhập quốc tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kinh tế & Chính sách
140 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 1-2017
ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG CẠNH TRANH
CỦA CÁC TRANG TRẠI CHĂN NUÔI HEO TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐỒNG NAI
TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ
Trần Văn Hùng1, Lê Thị Mai Hương 2
1Phân hiệu Trường Đại học Lâm nghiệp
2Trường Cao đẳng Tài chính Hải quan
TÓM TẮT
Trên cơ sở lý thuyết về đánh giá khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong quá trình hội nhập quốc tế,
bài viết đánh giá khả năng cạnh tranh của các trang trại chăn nuôi heo trên địa bàn tỉnh Đồng Nai dựa trên bảy
tiêu chí đánh giá. Với nguồn dữ liệu thứ cấp được thu thập từ các cơ quan ban ngành và nguồn dữ liệu sơ cấp
được thu thập thông qua việc khảo sát trực tiếp các trang trại chăn nuôi heo trên địa bàn nghiên cứu. Kết quả
nghiên cứu cho thấy, các trang trại chăn nuôi heo trên địa bàn tỉnh Đồng Nai có khả năng cạnh tranh còn thấp
trước yêu cầu hội nhập quốc tế. Do đó, đòi hỏi các trang trại chăn nuôi heo phải phát huy những thế mạnh vốn
có nhằm gia tăng khả năng cạnh tranh.
Từ khóa: Đồng Nai, hội nhập quốc tế, năng lực cạnh tranh, trang trại chăn nuôi heo.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hội nhập quốc tế đang là xu thế tất yếu
trong giai đoạn hiện nay. Đây là cơ hội để các
quốc gia có thể tận dụng và phát huy những lợi
thế so sánh vốn có của mình nhằm duy trì và
thúc đẩy sự tăng trưởng bền vững của nền kinh
tế. Tuy nhiên, hội nhập quốc tế cũng tạo ra sự
cạnh tranh gay gắt do những cam kết giữa các
quốc gia. Điều này cho thấy tăng cường khả
năng cạnh tranh là việc mà mỗi doanh nghiệp
đều cố gắng thực hiện. Trong cơ chế thị trường
hiện nay tăng khả năng cạnh tranh là một đòi
hỏi khách quan đặc biệt trong bối cảnh với sự
phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật.
Thực chất tăng khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp là việc doanh nghiệp cố gắng tạo ra
ngày càng nhiều hơn các ưu thế trên tất cả các
mặt để có thể chiếm lĩnh được thị trường như:
giá cả, chất lượng, nhãn hiệu, uy tín Khi đó,
doanh nghiệp phải áp dụng tổng hợp các biện
pháp khác nhau như cắt giảm chi phí sản xuất
để hạ giá thành sản phẩm, hạ giá bán sản
phẩm, áp dụng công nghệ tiên tiến hiện đại
trong sản xuất sản phẩm để nâng cao chất
lượng, nâng cao trình độ đội ngũ lao động
Hay có thể nói rộng hơn là việc tăng cường
khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là sự
thay đổi mối tương quan về thế và lực của
doanh nghiệp trên tất cả các mặt của quá trình
sản xuất kinh doanh nhằm đạt được lợi thế cao
nhất trong kinh doanh. Trong đó, các trang trại
chăn nuôi heo ở Việt Nam nói chung và của
tỉnh Đồng Nai nói riêng cũng không nằm ngoài
quy luật cạnh tranh này.
Dựa trên khung lý thuyết về đánh giá khả
năng cạnh tranh đáp ứng yêu cầu hội nhập của
các trang trại, bài viết đánh giá khả năng cạnh
của các trang trại chăn nuôi heo ở Đồng Nai
theo hướng hội nhập theo bảy tiêu chí. Qua đó,
đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao năng
lực cạnh tranh, đáp ứng được những yêu cầu
đặt ra của quá trình hội nhập quốc tế đối với
các trang trại chăn nuôi trên địa bàn tỉnh
Đồng Nai.
II. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là khả năng đáp ứng
yêu cầu hội nhập của các trang trại chăn nuôi
heo trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
2.2. Cơ sở lý thuyết về đánh giá khả năng
cạnh tranh đáp ứng yêu cầu hội nhập
Theo Michael E. Porter cho rằng lợi thế
cạnh tranh được hiểu là những nguồn lực, lợi
thế của ngành, quốc gia mà nhờ có chúng các
Kinh tế & Chính sách
141TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 1-2017
doanh nghiệp kinh doanh trên thị trường quốc
tế tạo ra một số ưu việt vượt trội hơn so với các
đối thủ cạnh tranh trực tiếp. Bốn yếu tố tạo nên
năng lực cạnh tranh: hiệu quả, chất lượng, sự
cải tiến và sự đáp ứng khách hàng. Randall cho
rằng khả năng cạnh tranh là khả năng giành
được và duy trì thị phần trên thị trường với lợi
nhận nhất định. Trong khi đó thì Dunning có ý
kiến cho rằng khả năng cạnh tranh là khả năng
cung ứng sản phẩm của chính doanh nghiệp trên
các thị trường khác nhau mà không phân biệt
nơi bố trí sản xuất của chính doanh nghiệp đó.
Tác giả Lê Xuân Bá (2007) nghiên cứu khả
năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt
Nam trong quá trình hội nhập quốc tế và
Nguyễn Thị Huyền Trâm (2015) nghiên cứu
nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp Việt Nam trong thời kỳ hội nhập đã nêu
các tiêu chí phản ánh khả năng cạnh tranh của
các doanh nghiệp trong quá trình hội nhập
quốc tế bao gồm: (1) Khả năng duy trì và mở
rộng thị phần; (2) Khả năng cạnh tranh của sản
phẩm; (3) Khả năng duy trì và nâng cao hiệu
quả kinh doanh; (4) Năng suất các yếu tố sản
xuất; (5) Khả năng thích ứng và đổi mới; (6)
Khả năng thu hút nguồn lực và (7) Khả năng
liên kết và hợp tác. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, khả năng duy trì và mở rộng thị
phần: chỉ tiêu này gồm hai thành phần:
(1) Doanh nghiệp nào có thị phần lớn hơn
thì năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp đó
cũng lớn hơn. Tiêu chí này thường được đo
bằng tỷ lệ doanh thu hay số lượng sản phẩm
tiêu thụ trên thị trường.
(2) Tốc độ tăng thị phần của doanh nghiệp:
Chỉ tiêu này phản ánh sự thay đổi đầu ra của
DN theo thời gian.
Thứ hai, khả năng cạnh tranh của sản
phẩm: Đây là chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt
động của doanh nghiệp. Năng lực cạnh tranh
của sản phẩm dựa trên các thành phần:
(1) Chất lượng cao: là một chỉ tiêu tổng hợp
gồm các nhóm chỉ tiêu thành phần: các chỉ tiêu
kinh tế, các chỉ tiêu kỹ thuật, các chỉ tiêu về
thẩm mỹ, tiện dụng
(2) Giá cả hợp lý: Chỉ tiêu này thường được
xác định trên cơ sở so sánh giá của các hàng
hóa cùng loại hoặc tương đương. Nếu có sự
khác biệt về chất lượng thì giá cả được đặt
trong sự so sánh với lợi ích do hàng hóa mang
lại, độ bền, thẫm mỹ
(3) Mẫu mã hợp thời.
(4) Đáp ứng nhu cầu khách hàng: chỉ tiêu
thể hiện việc cung cấp cho khách hàng đúng
hàng hóa, đúng thời điểm với mức giá hợp lý.
Nó là một chỉ tiêu định tính phản ánh khả năng
kinh doanh, uy tín của doanh nghiệp.
(5) Dịch vụ đi kèm: bao gồm việc hướng
dẫn sử dụng, các dịch vụ hậu mãi (bảo trì, bảo
hành).
Thứ ba, khả năng duy trì và nâng cao hiệu
quả kinh doanh: Tiêu chí này thể hiện qua một
số chỉ tiêu như:
(1) Tỷ suất lợi nhuận: là một chỉ tiêu tổng
hợp được tính bằng trị số tuyệt đối;
(2) Chi phí trên một đơn vị sản phẩm.
Thứ tư, năng suất các yếu tố sản xuất: Các
chỉ tiêu liên quan đến năng suất gồm có: năng
suất lao động, hiệu suất sử dụng vốn, năng suất
yếu tố tổng hợp Năng suất phản ánh lượng
sản phẩm đầu ra so với đơn vị yếu tố đầu vào,
là chỉ tiêu phản ánh năng lực khai thác, sử
dụng các yếu tố sản xuất của doanh nghiệp.
Đồng thời, chỉ tiêu này còn phản ánh năng lực
đáp ứng yêu cầu của khách hàng, chi phí trên
đơn vị sản phẩm và đơn vị thời gian.
Thứ năm, khả năng thích ứng và đổi mới:
Doanh nghiệp phải thích ứng với sự thay đổi
của thị trường trong nước và quốc tế (sở thích,
nhu cầu, chất lượng, mẫu mã) và môi trường
kinh doanh như chính sách của Nhà nước, sự
thay đổi của đối tác kinh doanh, đối thủ cạnh
tranh. Chỉ tiêu này được xác định bởi một số
chỉ tiêu thành phần như: số lượng cải tiến, sáng
tạo sản phẩm, cải tiến quy trình sản xuất, cải
tiến kỹ thuật
Thứ sáu, khả năng thu hút nguồn lực: Khả
Kinh tế & Chính sách
142 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 1-2017
năng thu hút nguồn lực không chỉ nhằm đảm
bảo cho điều kiện để hoạt động sản xuất kinh
doanh được tiến hành bình thường mà còn thể
hiện năng lực cạnh tranh thu hút đầu vào của
doanh nghiệp. Đây là điều kiện để đảm bảo
năng lực cạnh tranh trong dài hạn.
Thứ bảy, khả năng liên kết và hợp tác: Khả
năng liên kết hợp tác là tiền đề cho hoạt động
kinh doanh hiệu quả, đồng thời đây cũng là
một tiêu chí định tính của năng lực của doanh
nghiệp. Tiêu chí này thể hiện qua chất lượng
và số lượng các mối quan hệ với đối tác, các
liên doanh, hệ thống mạng lưới kinh doanh
theo lãnh thổ.
Do đó, dựa trên khung lý thuyết về đánh giá
khả năng cạnh tranh đáp ứng yêu cầu hội nhập,
trước những yêu cầu đặt ra của quá trình hội
nhập quốc tế đối với các trang trại chăn nuôi
heo của tỉnh Đồng Nai, nhằm đánh giá khả
năng cạnh tranh của các trang trại có thể đáp
ứng được những yêu cầu này hay không dựa
theo các tiêu chí cụ thể như sau: khả năng duy
trì và mở rộng thị phần; khả năng cạnh tranh
của sản phẩm; khả năng duy trì và nâng cao
hiệu quả kinh doanh; năng suất các yếu tố sản
xuất; khả năng thích ứng và đổi mới; khả
năng thu hút nguồn lực; khả năng liên kết và
hợp tác.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Phương pháp thu thập dữ liệu
nghiên cứu
Các dữ liệu thứ cấp sẽ được thu thập từ các
báo cáo tổng kết, điều tra thống kê của các cơ
quan khác nhau như Chi cục Thống kê tỉnh
Đồng Nai, số liệu thống kê các huyện, thị trong
tỉnh, các số liệu nghiên cứu tạp chí chuyên
ngành và từ các website.
Số liệu sơ cấp sẽ được thu thập thông qua
điều tra, phỏng vấn các chủ trang trại chăn
nuôi heo theo bảng câu hỏi được chuẩn bị sẵn.
Phạm vi điều tra là các trang trại chăn nuôi heo
trên phạm vi toàn tỉnh Đồng Nai. Với số phiếu
điều tra là 220 trang trại (tổng số 1.388 trang
trại có 1.260 trại kiểu chuồng hở và 126 trại
kiểu chuồng kín) chăn nuôi heo ở Đồng Nai
được tiến hành thu thập theo phương pháp điều
tra chọn mẫu, sau đó số mẫu được chọn ngẫu
nhiên theo tỷ lệ đại diện cho các mô hình trang
trại chăn nuôi. Với cách thức điều tra là phỏng
vấn trực tiếp các trang trại chăn nuôi nhằm thu
thập thông tin theo bảng hỏi thiết kế sẵn bao
gồm thông tin về đặc điểm của hộ nông dân
như giới tính, kinh nghiệm chăn nuôi, trình độ
văn hóa, kiến thức nông nghiệp Các đầu vào
bao gồm: lao động, con giống, vốn, số lượng
thức ăn, thuốc thú y, diện tích nuôi, mô hình
chăn nuôi (chuồng kín, chuồng hở), đầu ra bao
gồm: sản lượng chăn nuôi heo, lượng tăng
trọng heo hơi/tháng nuôi/đầu heo, thu nhập
trang trại, giá bán heo
2.3.2. Phương pháp xử lý và phân tích số liệu
Sử dụng phần mềm Excel để xử lý số liệu, kết
hợp với các bảng biểu đồ thị nhằm phân tích
đánh giá đối tượng nghiên cứu.
Các phương pháp chủ yếu được sử dụng
trong nghiên cứu này là phương pháp điều tra
khảo sát, phương pháp thống kê mô tả kết hợp
phương pháp so sánh đối chiếu, phương pháp
phân tích và tổng hợp.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Trên địa bàn tỉnh Đồng Nai hiện có 4 loại
hình đơn vị tham gia đầu tư vào sản xuất chăn
nuôi heo theo mô hình trang trại, đó là các
công ty có vốn FDI, các hợp tác xã, các công
ty cổ phần và hộ gia đình. Các trang trại chăn
nuôi heo của các công ty có vốn FDI được đầu
tư theo quy trình chăn nuôi hiện đại khép kín
nên có nhiều ưu thế hơn các đơn vị khác. Các
trang trại chăn nuôi của hợp tác xã, của các
công ty cổ phần và đặc biệt là của các hộ gia
đình (chiếm số lượng lớn) còn gặp nhiều khó
khăn từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm. Do đó,
trước những yêu cầu đặt ra của quá trình hội
nhập quốc tế thì liệu các trang trại chăn nuôi
heo của Đồng Nai có thể đáp ứng được những
yêu cầu này hay không xét theo các tiêu chí cụ
Kinh tế & Chính sách
143TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 1-2017
thể như sau:
Thứ nhất, khả năng duy trì và mở rộng thị
phần:
Cùng với sự tăng trưởng về mặt số lượng và
quy mô, các trang trại chăn nuôi heo của tỉnh
Đồng Nai đã duy trì và mở rộng thị trường tiêu
thụ trong và ngoài tỉnh, sản phẩm chăn nuôi
của các trang trại được tiêu thụ rộng rãi với số
lượng lớn ở các thị trường ngoài tỉnh như
thành phố Hồ Chí Minh, Bà Rịa Vũng Tàu,
Bình Dương. Thị phần tiêu thụ ngoài tỉnh
chiếm tỷ trọng hơn 78% trong tổng số sản
lượng thịt heo tiêu thụ của các trang trại. Với
những lợi thế vốn có, các trang trại chăn nuôi
heo của Tỉnh tiếp tục duy trì và mở rộng thị
phần tiêu thụ trong và ngoài tỉnh nhưng chủ
yếu vẫn chỉ cung cấp cho thị trường trong
nước. Tiềm năng xuất khẩu sản phẩm của các
trang trại chăn nuôi heo thấp, phần lớn các sản
phẩm thịt của các trang trại chăn nuôi heo ở
Đồng Nai được tiêu thụ trên thị trường nội địa,
chỉ có một lượng nhỏ được xuất khẩu, hoàn
toàn là sản phẩm thịt lợn. Tuy nhiên, xuất khẩu
thịt của Đồng Nai còn rất bấp bênh, không ổn
định và phụ thuộc chủ yếu vào thị trường các
nước. Do đó, khả năng mở rộng thị phần tiêu
thụ sản phẩm ở nước ngoài đối với các trang
trại chăn nuôi heo của Tỉnh là rất thấp và gặp
nhiều khó khăn.
Thứ hai, khả năng cạnh tranh của sản
phẩm:
Thông qua việc so sánh một số chỉ tiêu
trong chăn nuôi heo giữa Việt Nam nói chung
và Đồng Nai nói riêng như bảng 1 cho thấy
khả năng cạnh tranh của các trang trại chăn
nuôi heo ở Đồng Nai so với các nước trong
khu vực còn thấp, cụ thể là giá thành sản xuất
trong chăn nuôi heo của Việt Nam khá cao,
điều này sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh của
sản phẩm và chưa đáp ứng được yêu cầu của
quá trình hội nhập quốc tế.
Bảng 1. So sánh một số chỉ tiêu trong chăn nuôi heo giữa
Việt Nam và Thái Lan
Nội dung Việt Nam Thái Lan
Con giống chăn nuôi
Giống cao sản chủ yếu nhập khẩu từ nước
ngoài
Chủ động
Năng suất sinh sản heo mẹ bình
quân 1 năm
16 con 26 con
Nguyên liệu thức ăn chăn nuôi
Nhập khẩu 90% từ nước ngoài (năm 2014
nhập khẩu 11,7 triệu tấn thức ăn chăn nuôi
tương đương với kim ngạch nhập khẩu 4,8 tỷ
USD
Chủ động
Số lượng lao động làm việc tại trang
trại chăn nuôi heo nái quy mô 1.000
con
15 - 20 người 1 người
Giá thành sản xuất 1 kg thịt heo
bình quân (USD)
2,08 1,41
( Nguồn: Đoàn Xuân Trúc, 2015)
Việc sử dụng thức ăn công nghiệp và thuốc
thú y trong chăn nuôi của các trang trại đã làm
cho nền chăn nuôi Việt Nam nói chung và
Đồng Nai nói riêng phụ thuộc quá lớn vào
nguồn nguyên liệu thức ăn và nguồn dược liệu
nước ngoài. Hàng năm giá trị nhập khẩu
nguyên liệu thức ăn chăn nuôi và thuốc thú y
lên tới hàng tỷ đô la, trong khi đó giá trị xuất
khẩu sản phẩm chăn nuôi lợn, bò, gà hầu như
không đáng kể. Điều này làm tăng chi phí
trong chăn nuôi, tăng giá thành sản xuất heo
nên khả năng cạnh tranh với các nước khác
trong khu vực là khó khăn. Ngoài ra, khi chính
sách bảo hộ bị dỡ bỏ, sản phẩm thịt heo của
Thái Lan, Indonesia hay Malaysia có thể xuất
khẩu tự do vào thị trường Việt Nam mà không
Kinh tế & Chính sách
144 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 1-2017
qua bất cứ rào cản nào thì sản phẩm của các
trang trại chăn nuôi heo của Đồng Nai khó có
thể cạnh tranh với các sản phẩm ngoại nhập
này. Cụ thể, trên cơ sở các thỏa thuận đã ký kết
khi Việt Nam gia nhập AEC, tính đến hết năm
2014, Việt Nam đã thực hiện cắt giảm thuế
nhập khẩu về 0% cho gần 6.900 dòng thuế có
xuất xứ ASEAN, chiếm khoảng 72% trong
tổng số 9.558 dòng thuế nhập khẩu. Thông tư
165/2014/TT-BTC cũng quy định cụ thể lộ
trình cắt giảm thuế đối với 7% số mặt hàng
nhạy cảm trong giai đoạn từ năm 2016 đến
năm 2018. Qua đó, đã đảm bảo rằng, đến năm
2018, ngoại trừ danh mục 3% dòng thuế trong
danh mục loại trừ, toàn bộ số dòng thuế còn lại
được thực hiện cắt giảm đúng cam kết ATIGA.
Từ đó cho thấy, khi Việt Nam thực hiện các
cam kết gia nhập vào các tổ chức kinh tế thế
giới thì sẽ tạo ra sự cạnh tranh gay gắt cho các
trang trại chăn nuôi của Đồng Nai.
Thứ ba, khả năng duy trì và nâng cao hiệu
quả kinh doanh:
Hiệu quả kinh doanh của các trang trại chăn
nuôi heo trên địa bàn nghiên cứu được thể hiện
qua bảng 2.
Bảng 2. Hiệu quả chăn nuôi heo giữa các trang trại trên địa bàn tỉnh Đồng Nai
tại thời điểm tháng 8/2015
Chỉ tiêu ĐVT FDI HTX
Công ty
Cổ phần
Hộ gia
đình
Năng suất heo bq Kg/con 95 94 94 93,5
Giá bán bq đồng/kg 45.000 45.000 45.000 44.123
Doanh thu đồng/con 4.275.000 4.230.000 4.230.000 4.125.501
Chi phí đồng/con 3.792.050 3.825.205 3.838.353 3.909.732
Lợi nhuận đồng/con 482.950 404.795 391.647 215.769
Phụ thu đồng/con 6.432 6.118 6.213 4.852
Thu nhập đồng/con 489.382 410.913 397.860 220.621
Lợi nhuận/Chi phí sản xuất lần 0,13 0,11 0,10 0,06
Lợi nhuận/Doanh Thu lần 0,11 0,10 0,09 0,05
Doanh thu/Chi phí lần 1,13 1,11 1,10 1,06
Thu nhập/Chi phí sản xuất lần 0,13 0,11 0,10 0,06
(Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên khảo sát thực tế, 2015)
Lợi nhuận của các trang trại chăn nuôi heo
của công ty FDI cao nhất trong các trang trại
chăn nuôi heo, trung bình đạt 482.950
đồng/con. Các trang trại chăn nuôi heo của
công ty FDI có đầu ra ổn định nên hầu hết đều
có lợi nhuận. Ngoài ra, các trang trại chăn nuôi
nói chung còn có nguồn phụ thu từ biogas hoặc
bán phân heo. Các trang trại chăn nuôi của hợp
tác xã và của công ty cổ phần cũng có đầu ra
tương đối ổn định nên nguồn thu nhập của các
trang trại này ổn định. Riêng lợi nhuận của các
trang trại chăn nuôi heo của hộ gia đình phụ
thuộc rất lớn vào giá bán sản phẩm và giá bán
này biến động thường xuyên theo thị trường và
còn phụ thuộc vào thương lái. Tại thời điểm
tháng 8/2015 chúng tôi khảo sát thực tế giá bán
heo trên thị trường dao động 44.000 – 45.000
đồng/kg, với mức giá bán này thì các trang trại
có lợi nhuận bình quân 220.621 đồng/kg nhưng
có điểm giá bán thấp ở mức dưới 39.000
đồng/kg dẫn đến các trang trại chăn nuôi heo
của hộ gia đình sẽ bị lỗ. Qua bảng 2 còn cho
Kinh tế & Chính sách
145TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 1-2017
thấy các trang trại chăn nuôi của các công ty
FDI có hiệu quả hơn với tỷ suất lợi nhuận và tỷ
suất thu nhập là 0,13 lần, trong khi đó các
trang trại chăn nuôi heo của hộ gia đình có tỷ
suất lợi nhuận và tỷ suất thu nhập là 0,06 lần.
Như vậy, khi bỏ ra 1 đồng chi phí thì lợi nhuận
của các trang trại chăn nuôi heo FDI đạt 0,13
đồng lợi nhuận, trong khi các trang trại của
nông hộ chỉ đạt 0,06 đồng lợi nhuận với điều
kiện giá bán trên thị trường cao hơn chi phí
như tại thời điểm nghiên cứu.
Thông qua việc tính toán các chỉ tiêu về
hiệu quả sản xuất kinh doanh giữa các loại
hình trang trại chăn nuôi heo như trên cho thấy
các trang trại chăn nuôi heo của các công ty có
vốn đầu tư FDI có lợi nhuận, các tỷ suất lợi
nhuận cao nhất. Đây là mô hình chăn nuôi có
hiệu quả chăn nuôi cao nhất trong các nhóm. Các
trang trại chăn nuôi heo còn lại đặc biệt là của hộ
gia đình có các chỉ tiêu về lợi nhuận và tỷ suất
lợi nhuận là thấp nhất. Điều này cho thấy các
trang trại này khó có khả năng đáp ứng được yêu
cầu đặt ra của quá trình hội nhập quốc tế.
Thứ tư, năng suất các yếu tố sản xuất:
Năng suất lao động: Tham gia trong quá
trình hoạt động sản xuất kinh doanh của các
trang trại chăn nuôi heo của tỉnh Đồng Nai
giúp cho người lao động nâng cao năng suất.
Đây là nhân tố quan trọng góp phần làm cho
giá thành sản phẩm giảm vì tiết kiệm được chi
phí tiền lương cho một đơn vị sản phẩm; Năng
suất lao động tăng tạo điều kiện cho việc mở
rộng quy mô sản xuất, tăng tốc độ của tổng sản
phẩm và thu nhập của người lao động đang
làm việc tại các trang trại. Theo số liệu tính
toán từ Cục Thống kê Đồng Nai cho thấy năng
suất lao động của các trang trại chăn nuôi heo
trên địa bàn tỉnh trong năm 2015 đạt 76,11
triệu đồng/lao động. Trong khi đó năng suất
lao động của ngành chăn nuôi của tỉnh trong
năm 2015 đạt 68,1 triệu đồng/lao động và năng
suất lao động của ngành nông nghiệp tỉnh đạt
56,74 triệu đồng/lao động. So với năm 2010,
năng suất lao động làm việc tại các trang trại
chăn nuôi heo của tỉnh tăng 29,58 triệu
đồng/lao động, tức tăng 77%.
(Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu của Cục Thống kê Đồng Nai)
Hình 1. Năng suất lao động của trang trại chăn nuôi heo, của ngành chăn nuôi và
của ngành Nông nghiệp Đồng Nai
Mặc dù NSLĐ của các trang trại chăn nuôi
heo cao hơn so NSLĐ của ngành Chăn nuôi và
của ngành Nông nghiệp Tỉnh nhưng so với
Thái Lan như ở bảng 1 thì năng suất lao động
Kinh tế & Chính sách
146 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 1-2017
của các trang trại chăn nuôi vẫn còn thấp.
Thứ năm, khả năng thích ứng và đổi mới:
Trước những yêu cầu về sự thay đổi của thị
trường trong nước và quốc tế (sở thích, nhu
cầu, chất lượng, mẫu mã) và môi trường
kinh doanh như chính sách của Nhà nước, sự
thay đổi của đối tác kinh doanh, đối thủ cạnh
tranh thì các trang trại chăn nuôi heo phải cải
tiến, sáng tạo sản phẩm, cải tiến quy trình sản
xuất, cải tiến kỹ thuật Trên cơ sở phân tích
thực trạng sản xuất của các trang trại chăn nuôi
heo ở Đồng Nai ở các nội dung trên cho thấy
các trang trại chăn nuôi heo của các công ty có
vốn FDI có quy trình chăn nuôi công nghiệp
hiện đại, tiên tiến, đáp ứng được những yêu
cầu của thị trường. Trong khi đó, các trang trại
chăn nuôi heo của hộ gia đình chủ yếu sản xuất
theo mô hình bình thường, chưa áp dụng quy
trình chăn nuôi tiên tiến, hiện đại, chưa áp
dụng quy trình chăn nuôi nghiêm ngặt, sản
phẩm chưa đáp ứng yêu cầu về chất lượng nên
khả năng đáp ứng được yêu cầu của thị trường
nước ngoài là khó khăn và ngay cả thị trường
thành phố Hồ Chí Minh đang đặt ra yêu cầu về
chất lượng sản phẩm thịt heo nhập từ các tỉnh
trong đó có Đồng Nai. Nhìn chung, các trang
trại chăn heo của Đồng Nai vẫn đang ở trong
tình trạng manh mún, nhỏ lẻ; chủ trang trại,
doanh nghiệp chủ yếu vẫn áp dụng khoa học
kỹ thuật và công nghệ chăn nuôi lạc hậu; chịu
sự chi phối về nguồn nguyên liệu thức ăn chăn
nuôi từ nước ngoài nên khi Việt Nam ngày
càng hội nhập sâu vào nền kinh tế khu vực và
thế giới, nhất là trong bối cảnh Hiệp định Kinh
tế đối tác chiến lược xuyên Thái Bình Dương
(TPP) đang tiến gần hơn đến ký kết và Cộng
đồng kinh tế ASEAN đã được thành lập thì các
trang trại chăn nuôi này sẽ chịu nhiều tác động
tiêu cực. Ngoài ra, các trang trại chăn nuôi heo
của Tỉnh vẫn còn thiếu kiến thức về hội nhập,
thiếu năng động và linh hoạt với thị trường,
thiếu khả năng tìm kiếm thị trường tiêu thụ
ngoài nước để gia tăng giá trị của sản phẩm.
Thứ sáu, khả năng thu hút nguồn lực:
Khả năng thu hút nguồn lực không chỉ
nhằm đảm bảo cho điều kiện để hoạt động sản
xuất kinh doanh được tiến hành bình thường
mà còn thể hiện năng lực cạnh tranh thu hútđầu
vào của doanh nghiệp. Các trang trang trại
chăn nuôi heo ở Đồng Nai đều có khả năng thu
hút nguồn lực như đất đai, vốn, lao động, công
nghệ vào trong quá trình sản xuất. Đây là điều
kiện để đảm bảo năng lực cạnh tranh trong dài
hạn của các trang trại.
Để đánh giá quy mô sử dụng các nguồn lực
sản xuất, chúng tôi sử dụng các chỉ tiêu về quy
mô vốn, diện tích, lao động được sử dụng
trong các loại hình trang trại. Từ số liệu điều
tra khảo sát, chúng tôi tổng hợp và tính toán
một số chỉ tiêu kinh tế cơ bản nêu trên của
các mô hình trang trại chăn nuôi heo ở Đồng
Nai, trên cơ đó có sự đánh giá, so sánh các
chỉ tiêu kinh tế giữa các mô hình trang trại
chăn nuôi này.
Bảng 3. Một số chỉ tiêu kinh tế cơ bản của các trang trại chăn nuôi heo tỉnh Đồng Nai
tính bình quân cho 1 trang trại
TT Chỉ tiêu ĐVT FDI
Hợp tác
xã
Công ty cổ
phần
Hộ gia
đình
1 Lao động Lđ 9 3 12 2
2 Diện tích chăn nuôi ha 4,2 3,8 4,4 0,58
3 Số lượng heo con 13.011 456 7.802 247
4 Vốn đầu tư Tr.đ 169.143 2.736 53.053 1.284
5 Tổng thu nhập Tr.đ 58.679,61 2.052,91 35.140,21 1.111,50
6 Thu nhập bq /1 con heo Tr.đ 4,51 4,502 4,504 4,5
(Nguồn: Tính toán từ khảo sát thực tế của tác giả, 2015)
Kinh tế & Chính sách
147TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 1-2017
Từ bảng 3 cho thấy các trang trại chăn nuôi
heo của các công ty có vốn FDI có các chỉ tiêu
về vốn đầu tư, số lượng heo, diện tích chăn
nuôi bình quân 1 trang trại cao hơn các trang
trại chăn nuôi của các đơn vị khác, vì đầu tư
chăn nuôi theo mô hình khép kín nên chi phí
của các trang trại chăn nuôi của mô hình này
cao. Tuy nhiên, với mô hình chăn nuôi khép
kín này giúp giảm lượng thức ăn chăn nuôi,
tăng năng suất vật nuôi do nhiệt độ chăn nuôi
thấp và hạn chế ô nhiễm môi trường. Điều này
phản ánh trình độ sản xuất kinh doanh của các
trang trại chăn nuôi heo của các công ty FDI ở
mức cao và theo mô hình chăn nuôi công
nghiệp hiện đại. Quy mô về vốn, lao động, thu
nhập và số lượng heo của các trang trại chăn
nuôi hộ gia đình có số lượng thấp nhất kể cả
chỉ tiêu về thu nhập. Các trang trại chăn nuôi
này chủ yếu dựa vào mô hình chăn nuôi cũ,
theo kinh nghiệm từ trước tới nay, quy trình
chăn nuôi từ con giống, nguồn thức ăn, thuốc
thú y chưa được chuẩn bị tốt và hạn chế về
nguồn vốn đầu tư cho chăn nuôi. Ngoài ra do
có nhiều biến động về thị trường tiêu thụ đầu
ra cho sản phẩm nên quy mô chăn nuôi ít được
mở rộng. Từ đó cho thấy trình độ sản xuất kinh
doanh của các trang trại chăn nuôi này còn
thấp kém so với các trang trại khác.
Thứ bảy, khả năng liên kết và hợp tác:
Hiện nay ở Đồng Nai có hai hình thức liên
kết đặc trưng trong chăn nuôi hiện nay. Đó là
liên kết theo đường đi của sản phẩm từ người
sản xuất đến người tiêu dùng (liên kết dọc) và
liên kết các đối tượng cùng tham gia trong quá
trình sản xuất kinh doanh (liên kết ngang). Đối
với mô hình liên kết dọc, doanh nghiệp đóng
vai trò nhà đầu tư, người tổ chức sản xuất, ứng
dụng tiến bộ kỹ thuật, đảm bảo thị trường tiêu
thụ. Người chăn nuôi nhận khoán theo định
mức chi phí và được hỗ trợ một phần chi phí
xây dựng cơ bản ban đầu, chi phí lao động và
sản xuất trên đất đai của họ. Hình thức này chủ
yếu được các doanh nghiệp chăn nuôi có vốn
đầu tư nước ngoài FDI đầu tư cho các trang
trại. Hình thức này hiện nay phát triển mạnh ở
Đồng Nai với 19,45% trang trại chăn nuôi heo
trên địa bàn tỉnh chuyển sang nuôi gia công
cho các công ty FDI. Các doanh nghiệp FDI có
tiềm năng về vốn, cách đầu tư bài bản, chủ
động từ giống đến thức ăn, thuốc thú y, kỹ
thuật nên năng suất cao, giá thành hạ hơn
nhiều so với các trang trại khác. Trong khi đó,
các trang trại chăn nuôi heo của nông hộ không
đủ vốn để đầu tư và cũng không chịu nổi sự
biến động lớn của thị trường chăn nuôi (biến
động giá thức ăn, giá thịt heo hơi...). Đối với
hình thức liên kết này các trang trại chăn nuôi
heo phụ thuộc hoàn toàn vào các doanh nghiệp
FDI từ đầu vào cho đến đầu ra, không có cơ
quan chức năng giám sát chủ yếu là thỏa thuận
giữa hai bên nên các trang trại sẽ gặp rủi ro nếu
các doanh nghiệp FDI thay đổi chính sách chăn
nuôi hoặc rút vốn đầu tư. Thứ hai, hình thức
liên kết ngang, người sản xuất và đơn vị kinh
doanh (điển hình là các tổ hợp tác, hợp tác
xã) liên kết lại nhằm hỗ trợ nhau đưa hoạt
động sản xuất kinh doanh hiệu quả hơn. Điển
hình như Hợp tác xã (HTX) dịch vụ chăn nuôi
Đồng Hiệp (huyện Thống Nhất) với 25 trang
trại chăn nuôi heo tại huyện Thống Nhất vừa
ký văn bản ghi nhớ cung cấp sản phẩm thịt lợn,
gà cho Công ty TNHH một thành viên Việt
Nam kỹ nghệ súc sản (VISSAN). Hiện hai bên
đang thống nhất số lượng cung cấp lợn hàng
ngày cho phía VISSAN. Mục tiêu của việc ký
kết nhằm tạo ra chuỗi liên kết sản xuất, tiêu thụ
sản phẩm thịt lợn sạch cho thị trường phía
Nam. Hiện lượng thịt heo của các thành viên
của HTX cung cấp ra thị trường từ 500 - 700
con lợn thịt/ngày.
Mặc dù là tỉnh có ngành chăn nuôi phát
triển mạnh của cả nước nhưng việc hình thành
chuỗi liên kết trong chăn nuôi ở Đồng Nai còn
Kinh tế & Chính sách
148 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 1-2017
rất khó khăn. Nhiều trang trại nhất là các trang
trại của nông hộ vẫn trong tình trạng tự mua
heo giống giá rẻ, kém chất lượng, không có
xuất xứ từ nhiều thương lái khác nhau, khiến
dịch bệnh xuất hiện trên diện rộng, ảnh hưởng
đến sức khỏe con người, gây thiệt hại cho chủ
trại và làm mất uy tín của cả vùng chăn nuôi.
Ngoài ra, việc kết nối các doanh nghiệp tham
gia bao tiêu sản phẩm cho các trang trại gặp
nhiều khó khăn do không có kế hoạch ký kết
bao tiêu sản phẩm với các doanh nghiệp tiêu
thụ từ thời điểm bắt đầu nhập giống; sản phẩm
vẫn chủ yếu được tiêu thụ theo phương thức
bán buôn qua thương lái nên hiệu quả chăn
nuôi chưa cao. Bên cạnh đó, chưa xây dựng
được nhãn hiệu cho sản phẩm nên chưa tạo
được dấu hiệu nhận biết sản phẩm đối với
người tiêu dùng dẫn đến sản phẩm chăn nuôi
an toàn có nguồn gốc vẫn phải cạnh tranh thiếu
lành mạnh với sản phẩm không đảm bảo chất
lượng, sản lượng tiêu thụ còn thấp, chưa tác
động mạnh đến người chăn nuôi để mở rộng
sản xuất. Đặc biệt, người chăn nuôi cũng như
các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực
giết mổ, chế biến, tiêu thụ sản phẩm khó tiếp
cận được với các nguồn vốn vay ưu đãi của
Nhà nước.
Thông qua nội dung phân tích về liên kết
giữa các trang trại chăn nuôi heo ở Đồng Nai
trong quá trình sản xuất kinh doanh cho thấy
giữa các trang trại chăn nuôi heo chưa có sự
liên kết chặt chẽ với nhau nên để tạo nên sức
mạnh và chuỗi liên kết nhằm phát huy hết hiệu
quả trong chăn nuôi. Liên kết chuỗi sản phẩm
là giải pháp quan trọng để hạn chế các khâu
trung gian, hạ giá thành, tạo sản phẩm đảm bảo
chất lượng và an toàn thực phẩm, truy xuất
nguồn gốc, hạn chế nguy cơ dịch bệnh và có
điều kiện khi cần vay vốn ngân hàng. Tuy
nhiên, việc liên kết này của các trang trại chăn
nuôi heo ở Đồng Nai còn hạn chế vì còn gặp
nhiều khó khăn từ liên kết giữa người chăn
nuôi và nhà máy sản xuất thức ăn chăn nuôi;
liên kết khép kín từ chăn nuôi sản xuất thức ăn
nuôi, giết mổ, tiêu thụ. Như vậy, các trang trại
chăn nuôi heo ở Đồng Nai thiếu tính liên kết
theo chuỗi sản phẩm này sẽ hạn chế khả năng
hội nhập của ngành nói chung.
IV. KẾT LUẬN
Thông qua việc phân tích một số tiêu chí
đánh giá khả năng cạnh tranh của các trang trại
chăn nuôi heo trên địa bàn tỉnh Đồng Nai cho
thấy khả năng cạnh tranh của các trang trại
chăn nuôi heo trên địa bàn Tỉnh còn thấp. Do
đó, trước yêu cầu hội nhập quốc tế, các trang
trại chăn nuôi heo của Tỉnh cần nâng cao năng
lực sản xuất thông qua một số biện pháp như
hạ giá thành, nâng chất lượng sản phẩm; nâng
cao năng lực tiếp cận thị trường, mở rộng thị
trường tiêu thụ ở nước ngoài, xác định rõ thị
trường mục tiêu chiến lược; nâng cao khả năng
liên kết theo chuỗi sản phẩm và khả năng thu
hút các nguồn lực vào trong quá trình sản xuất
nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, đáp ứng
được những yêu cầu đặt ra của quá trình hội
nhập quốc tế.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Xuân Bá (2007). Khả năng cạnh tranh của các
doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc
tế. Tạp chí quản lý kinh tế, số 12/2007.
2. Michael E. Porter. Chiến lược cạnh tranh, lợi thế
cạnh tranh & lợi thế cạnh tranh quốc gia. Nhà xuất bản
DT Books & NXB Trẻ.
3. Phạm Tất Thắng (2012). Nâng cao sức cạnh tranh
của các doanh nghiệp Việt Nam trong hội nhập quốc tế.
Tạp chí Cộng Sản, số tháng 3/2012.
4. Nguyễn Thị Huyền Trâm (2015). Nâng cao năng
lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong
thời kì hội nhập (truy cập điện tử).
5. Đoàn Xuân Trúc (2015). Hội chăn nuôi Việt Nam.
(truy cập điện tử).
Kinh tế & Chính sách
149TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 1-2017
ASSESS COMPETITIVENESS OF PIG BREEDING FARMS IN DONG NAI
PROVINCE IN THE PROCESS OF INTERNATIONAL INTEGRATION
Tran Van Hung1, Le Thi Mai Hương2
1VietNam National University of Forestry – Southern Campus
2College of Financial and Customs
SUMMARY
On the basis of the theory of assess competitiveness of enterprise in the process of international integration, the
article assess competitiveness of pig breeding farms in Dong Nai province is based on seven criteria. With the
secondary data which was collected from organs and the primary data which was collect by directly
investigating of pig farms in the study area. Research results show that, pig breeding farms in Dong Nai
province with low competitiveness before international integration requirements. Therefore, the pig farms are
required to promote the inherent strengths in order to increase competitiveness.
Keywords: Competitiveness, Dong Nai, international integration, pig breeding farm.
Ngày nhận bài : 06/12/2016
Ngày phản biện : 10/01/2017
Ngày quyết định đăng : 16/01/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
danh_gia_kha_nang_canh_tranh_cua_cac_trang_trai_chan_nuoi_he.pdf