3.2. Khả năng nuôi con của trâu cái Thái Lan
Theo dõi khả năng nuôi con của trâu cái Thái
Lan thể hiện ở bảng 5.
Khả năng nuôi con của trâu cái Thái Lan
được thể hiện qua: khối lượng nghé sơ sinh ở
con đực là 28,75 kg, ở nghé cái là 30,1 kg.
Khối lượng nghé cai sữa lúc 6 tháng tuổi ở
con đực là 78,12 kg, ở nghé cái là 83 kg.
Về tỷ lệ nghé còn sống sau sinh là: số nghé còn
sống sau sinh 24 giờ là 100%, số nghé còn
sống sau sinh 1 tháng là 97,67%, số nghé còn
sống sau sinh 1 năm chiếm 94,44%, số nghé
còn sống sau sinh 24 tháng chiếm 87,5%.
4. Kết luận
Trâu cái Thái Lan có tuổi xuất hiện động dục
lần đầu 28,64 tháng tuổi. Tuổi phối giống lần
đầu vào 31,40 tháng tuổi. Thời gian mang thai
là 314,96 ngày, tuổi đẻ lứa đầu 41,44 tháng
tuổi.Thời gian động dục trở lại sau đẻ 89,00
ngày. Khoảng cách lứa đẻ là 17,40 tháng tuổi.
Trâu Thái Lan động dục có các biểu hiện đặc
trưng, nhưng thường vào ban đêm. Số trâu
phối giống lần đầu có chửa chiếm tỷ lệ 72%,
số trâu phối giống có chửa qua các lần phối
chiếm tỷ lệ 20%, số trâu đẻ chiếm 88%, 60%
trâu động dục trở lại sau đẻ 2-3 tháng.
Khối lượng nghé sơ sinh đạt từ 28-30 kg.
Khối lượng nghé cai sữa lúc 6 tháng tuổi từ
78,12 – 83 kg. Tỷ lệ nghé còn sống sau sinh
24 giờ là 100%, sau 24 tháng là 87,5%.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 2 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá khả năng sinh sản của trâu cái Thái Lan, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TNU Journal of Science and Technology 225(16): 27 - 32
Email: jst@tnu.edu.vn 27
ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG SINH SẢN CỦA TRÂU CÁI THÁI LAN
Nguyễn Mạnh Hà1*, Nguyễn Văn Đại2, Tẩn Thị Pói1
1Phân hiệu Đại học Thái Nguyên tại tỉnh Lào Cai,
2Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển chăn nuôi Miền núi
TÓM TẮT
Nghiên cứu được tiến hành trên 25 trâu cái Thái Lan nuôi tại Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển
chăn nuôi Miền núi nhằm mục đích đánh giá một số chỉ tiêu về khả năng sinh sản. Đánh giá khả
năng sinh trưởng của nghé bằng phương pháp cân khối lượng nghé ở các thời điểm: sơ sinh, 3, 6,
9, 12, 18, 24 tháng tuổi; theo dõi biểu hiện động dục và thời điểm động dục ở trâu cái bằng phương
pháp quan sát triệu chứng lâm sàng vào các khoảng thời gian 6-8 giờ sáng, 17-18 giờ chiều, 21-22
giờ đêm; xác định trâu cái có thai sau phối giống bằng cách theo dõi động dục trở lại kết hợp với
khám thai qua trực tràng sau phối giống 90 ngày. Kết quả khảo sát cho thấy: trâu cái Thái Lan có
tuổi xuất hiện động dục lần đầu 28,64 tháng tuổi. Tuổi phối giống lần đầu vào 31,40 tháng tuổi.
Thời gian mang thai là 314,96 ngày. Tuổi đẻ lứa đầu 41,44 tháng tuổi. Thời gian động dục trở lại
sau đẻ 89,00 ngày. Khoảng cách lứa đẻ là 17,40 tháng. Trâu Thái Lan thường động dục ban đêm
với các biểu hiện đặc trưng. Tỷ lệ trâu phối giống lần đầu có chửa đạt 72%, tỷ lệ đẻ đạt 88%, tỷ lệ
động dục trở lại sau đẻ 2-3 tháng đạt 60%.
Từ khoá: Trâu cái Thái Lan; khả năng sinh sản; động dục lần đầu; phối giống lần đầu; khoảng
cách lứa đẻ
Ngày nhận bài: 26/11/2020; Ngày hoàn thiện: 19/12/2020; Ngày đăng: 21/12/2020
EVALUATE REPRODUCTION CAPARCITY
OF THAILAND FEMALE BUFFALOW
Nguyen Manh Ha1*, Tan Thi Poi1, Nguyen Van Dai2
1Thai Nguyen University – Lao Cai Campus,
2The Animal Husbandry Research and Development Center for Mountainous Zone
ABSTRACT
Research war carried out on 25 Thailand female buffalo in the Animal Husbandry Research and
Development Center for Mountainous Zone in order to evaluate some index of reproductive
capacity. Evaluate the growing caparcity of calf by weigh the body weight at: newborn,
3,6,9,12,18 and 24 year month; keep track of manifestation and time of oestrus in female buffalo
by clinical symptoms suvey method at time: 6-8 am, 17-18 pm and 21-22 at nigh; determine
pregnant of female buffalo after service by keep track to re-oestrus combine antenatal through
rectum at day 90 after service. The result shows that: the first estrus cycle is 28.64 year months.
The first service is 31.4 year months. The time of pregnant is 314.96 days. The first time to give
birth is 41.44 months. The post-partum re-estrus is 89 days. The farrowing interval is 17.4 months.
The female Thailand buffalow ussualy estrous at night with clear characteristics. The conceve rate
in first service is 72%, the rate of giving birth is 88% and the rate of re-estrus of 2 to 3 month post
partum is 60%.
Keywords: Thailand female buffalo; reproductive capacity; first estrus cycle; first service;
farrowing interval
Received: 26/11/2020; Revised: 19/12/2020; Published: 21/12/2020
* Corresponding author. Email: nguyenmanhha@tnu.edu.vn
Nguyễn Mạnh Hà và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(16): 27 - 32
Email: jst@tnu.edu.vn 28
1. Đặt vấn đề
Hiện nay đàn trâu của Việt Nam đang có xu
hướng giảm cả về số lượng lẫn chất lượng.
Một trong những nguyên nhân của sự sụt
giảm là do trâu không còn đóng vai trò quan
trọng trong cung cấp sức kéo cho sản xuất
nông nghiệp. Trâu chủ yếu được nuôi tại hộ
gia đình, chăn thả tự nhiên, công tác giống
không được chú ý, trâu giao phối trong quần
thể hẹp, cận huyết thống cũng làm cho số
lượng và chất lượng đàn trâu giảm. Khả năng
sinh sản của trâu thấp ảnh hưởng lớn đến khả
năng tăng đàn.
Đã có một số tác giả và công trình nghiên cứu
nhằm nâng cao khả năng sinh sản của đàn
trâu. Tạ Văn Cần và cộng sự (2018)[1] nghiên
cứu cải tiến kỹ thuật thụ tinh nhân tạo nhằm
nâng cao khả năng sinh sản của đàn trâu. Sử
Thanh Long và cộng sự (2018)[2] nghiên cứu
khả năng sinh sản của trâu đầm lầy vùng đồi
núi huyện Thạch Thất- Hà Nội. Mai Thị
Thơm và cộng sự (2003)[3] tiến hành khảo
sát khả năng sinh sản của trâu ở thị xã Sông
Công tỉnh Thái Nguyên. Nguyễn Bình
Trường và cộng sự (2018)[4] nghiên cứu
năng suất sinh sản của trâu nuôi tại An Giang.
Tuy nhiên các nghiên cứu chưa nhiều và chủ
yếu tập tiến hành trên đàn trâu nội.
Để góp phần cải tạo đàn trâu nội cũng như
tăng đàn, một trong những giải pháp đang
được chú trọng là nhập các giống trâu ngoại
nuôi thích nghi trong đó chủ yếu là trâu cái
sinh sản. Trong thời gian qua, Trung tâm
Nghiên cứu và Phát triển chăn nuôi Miền núi
– Viện Chăn nuôi đã nhập giống trâu Thái
Lan với mục đích nuôi thích nghi và sinh sản.
Để có cơ sở khoa học giúp cho việc nhập nội
và phát triển giống trâu Thái Lan tại Việt
Nam, việc nghiên cứu “Đánh giá khả năng
sinh sản của trâu cái Thái Lan” là cần thiết,
làm cơ sở để nhân giống và phát triển đàn trâu
phục vụ sản xuất.
2. Đối tượng, nội dung và phương pháp
nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu: 25 trâu cái Thái
Lan nhập nội nuôi tại Trung tâm nghiên cứu
và Phát triển Chăn nuôi Miền núi – Viện
Chăn nuôi.
2.2. Nội dung nghiên cứu
- Nghiên cứu khả năng sinh sản của trâu cái
Thái Lan;
- Nghiên cứu khả năng nuôi con của trâu mẹ
sau sinh đến khi cai sữa.
2.3. Các chỉ tiêu theo dõi
Tuổi xuất hiện động dục lần đầu (tháng tuổi);
biểu hiện động dục bên ngoài của trâu cái;
tuổi phối giống lần đầu (tháng tuổi); tuổi đẻ
lứa đầu (tháng tuổi); thời gian mang thai
(ngày); thời gian động dục lại sau đẻ (ngày);
tỷ lệ thụ thai của trâu cái (%); khoảng cách
lứa đẻ của trâu cái (tháng); tỷ lệ đẻ của đàn
trâu cái sinh sản (%); khối lượng sơ sinh và
khối lượng cai sữa (kg/con); số nghé còn sống
sau sinh 24 giờ (con); số nghé còn sống đến 1
tháng tuổi (con); số nghé còn sống đến 12
tháng tuổi (con); số nghé còn sống đến 24
tháng tuổi (con).
2.4. Phương pháp nghiên cứu
Kế thừa số liệu + Quan sát và trực tiếp ghi
chép các số liệu liên quan đến chỉ tiêu sinh
sản của trâu cái.
Cân khối lượng nghé lúc sơ sinh, 3, 6, 9, 12,
18, 24 tháng tuổi; khối lượng cơ thể được cân
vào ngày đầu tiên của mỗi tháng thời điểm
cân bằng cân điện tử trước khi nghé ăn hay đi
chăn thả.
Theo dõi biểu hiện động dục và thời điểm
động dục ở 25 trâu cái. Sử dụng phương pháp
quan sát lâm sàng bằng mắt thường để xác
định thời điểm động dục vào các khoảng thời
gian 6-8 giờ sáng, 17-18 giờ chiều, 21-22 giờ
đêm và các biểu hiện động dục, gồm sự tiết
dịch ra ngoài âm hộ, độ đục, độ keo dính,
mầu sắc của dịch tiết, mức độ xung huyết của
cơ quan sinh dục, trạng thái thần kinh, hiện
tượng đái giắt, kêu rống, nhảy lên lưng trâu
khác, tập tính ăn, uống của trâu.
Xác định trâu có thai sau phối giống bằng
cách theo dõi động dục trở lại kết hợp với
khám thai qua trực tràng sau phối 90 ngày.
2.5. Phương pháp xử lý số liệu
Nguyễn Mạnh Hà và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(16): 27 - 32
Email: jst@tnu.edu.vn 29
Số liệu thu được xử lý theo phương pháp
thống kê sinh vật học của Nguyễn Văn Thiện
(2002) [5]; Tất cả các số liệu được mã hóa,
quản lý bằng phần mềm Microsoft Office
Excel. Các tham số thông kê trình bày trong các
bảng kết quả bao gồm: Dung lượng mẫu (n),
trung bình cộng (Mean), sai số của số trung
bình (SE). So sánh giá trị trung bình theo cặp
bằng phép so sánh Tukey với mức P = 0,05.
3. Kết quả và thảo luận
3.1. Khả năng sinh sản của trâu cái Thái Lan
3.1.1. Một số chỉ tiêu thành thục, phối giống
và mang thai của trâu cái hậu bị
Kết quả nghiên cứu về một số chỉ tiêu thành
thục, tuổi phối giống và mang thai của trâu
cái hậu bị thể hiện ở bảng 1.
Kết quả ở bảng 1 cho thấy: Trâu cái Thái Lan
có tuổi xuất hiện động dục lần đầu sớm, chỉ
có 28,64 tháng tuổi. Tuổi phối giống lần đầu
vào 31,40 tháng tuổi. Trong đó thời gian
mang thai là 314,96 ngày, tuổi đẻ lứa đầu
41,44 tháng tuổi. Thời gian động dục trở lại
sau đẻ nhanh 89,00 ngày. Khoảng cách lứa đẻ
là 17,40 tháng tuổi.
Theo kết quả nghiên cứu của Mai Thị Thơm
(2003) [3] khi khảo sát khả năng sinh sản của
đàn trâu ở thị xã Sông Công, Thái Nguyên
cho thấy tuổi đẻ lứa đầu của trâu chủ yếu là
3–4 năm tuổi chiếm 46,72% và 4 - 5 tuổi
chiếm 29,51%. Mai Văn Sánh và cs. (2008)
[6], khảo sát hiện trạng đàn trâu ở một số địa
phương cho thấy tuổi đẻ lứa đầu tập trung vào
độ tuổi 3 – 4 tuổi với tỷ lệ các tỉnh miền Bắc,
miền Trung và miền Nam lần lượt là 50,60%;
48,87% và 52,24%. Sử Thanh Long và cs.
(2018) [2] cho biết tuổi đẻ lứa đầu của trâu
vùng đồi núi Thạch Thất, Hà Nội tập trung
chủ yếu vào lúc trên 48 tháng chiếm tỷ lệ
55,15% và nằm trong khoảng 36 - 48 tháng
chiếm 33,11%. Nguyễn Bình Trường và cs
(2018) [4] cho thấy tuổi đẻ lứa đầu của trâu
nuôi tại tỉnh An Giang tập trung nhiều vào
giai đoạn 36-48 tháng chiếm tỷ lệ rất cao
89,9% và tỷ lệ có tuổi đẻ lứa đầu dưới 36
tháng chiếm tỷ lệ 8,12%. Những đặc điểm
khác biệt về môi trường, phương thức chăn
nuôi, điều kiện tự nhiên, tỷ lệ đực cái, chế độ
dinh dưỡng đã ảnh hưởng và là nguyên
nhân của sự sai khác này.
Theo nghiên cứu của Mai Thị Thơm (2003)
[3], cho biết khoảng cách giữa hai lứa đẻ của
trâu cái ở thị xã Sông Công tập trung chủ yếu
vào trong khoảng 16–24 tháng (48,98%). Mai
Văn Sánh và cs (2008) [6], khảo sát hiện
trạng đàn trâu ở một số địa phương cho thấy
khoảng cách giữa hai lứa đẻ của đàn trâu điều
tra từ 18 - 24 tháng là 49,86%, từ 24 - 30
tháng là 23,44%, từ 15 - 18 tháng chỉ chiếm
18,14% và trên 30 tháng chiếm 8,56%.
Nguyễn Bình Trường và cs, (2018) [4] cho
thấy khoảng cách lứa đẻ của trâu nuôi tại tỉnh
An Giang tập trung nhiều vào giai đoạn 12 - 14
tháng chiếm tỷ lệ rất cao 83,4% và tỷ lệ có
khoảng cách lứa đẻ giai đoạn 15 - 18 tháng
chiếm tỷ lệ 16,2%. Sử Thanh Long và cs.
(2018) [2] cho biết khoảng cách lứa đẻ của trâu
vùng đồi núi Thạch Thất, Hà Nội tập trung chủ
yếu trên 500 ngày chiếm tỷ lệ 49,38% và nằm
trong khoảng 400 - 500 ngày chiếm 28,20% còn
lại là dưới 400 ngày chiếm 22,22%.
Bảng 1. Một số chỉ tiêu sinh sản của trâu cái hậu bị (n= 25)
STT Chỉ tiêu theo dõi ĐVT
Kết quả
CV (%)
1 Tuổi xuất hiện động dục lần đầu Tháng tuổi 28,64 ± 1,68 0,07
2 Tuổi phối giống lần đầu Tháng tuổi 31,40 ± 1,10 0,04
3 Thời gian mang thai Ngày 314,96 ± 4,59 0,02
4 Tuổi đẻ lứa đầu Tháng tuổi 41,44 ± 1,06 0,03
5 Thời gian động dục trở lại sau đẻ Ngày 89,00 ± 3,06 0,02
6 Khoảng cách lứa đẻ Tháng 17,40 ±1,15 0,13
Nguyễn Mạnh Hà và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(16): 27 - 32
Email: jst@tnu.edu.vn 30
3.1.2. Thời gian xuất hiện động dục của trâu
cái Thái Lan
Kết quả theo dõi thời gian xuất hiện động dục
của trâu Thái Lan thể hiện ở bảng 2.
Trâu cái Thái Lan có thời gian xuất hiện động
dục trong ngày chủ yếu là vào khoảng từ 18
giờ đến 24 giờ với tỷ lệ 72%. Trong khoảng
từ 0 giờ đến 6 giờ có tỷ lệ xuất hiện động dục
thấp chỉ có 20% và từ 12 giờ đến 18 giờ chỉ
28%. Trong khi đó từ 6 giờ đến 12 giờ chỉ
chiếm 36%.
Từ tỷ lệ như trên ta thấy trâu cái Thái Lan
động dục nhiều nhất là vào ban đêm, một số ít
động dục vào sáng sớm và ít động dục vào
buổi chiều.
Với thời gian như vậy cán bộ kỹ thuật có thể
theo dõi thời gian động dục của trâu và lên kế
hoạch phối giống thích hợp.
3.1.3. Biểu hiện động dục của trâu Thái Lan
Theo dõi biểu hiện động dục của trâu cái Thái
Lan thể hiện ở bảng 3.
Theo kết quả ở bảng 3, trâu cái Thái Lan có
một số biểu hiện động dục bên ngoài như tìm
kiếm trâu khác, thường kêu rống lên và nhảy
lên lưng con khác. Về biểu hiện ăn uống, trâu
ít ăn, ngơ ngác và hay bỏ đàn. Và một số biểu
hiện về âm hộ như âm hộ ướt, niêm mạc âm
đạo xung huyết, đỏ hồng và căng mọng; dịch
nhờn tiết ra từ âm đạo có màu trong. Biểu
hiện đi tiểu là đuôi cong, đi tiểu nhiều lần.
Trong đó có một số biểu hiện dễ nhận thấy là
nhảy lên lưng trâu khác và sự thay đổi của âm
hộ và dịch tiết.
Chính vì những biểu hiện ra bên ngoài của
trâu không rõ ràng như một số loại gia súc
khác, nên người chăn nuôi trâu phát hiện trâu
động dục khó hơn một số loại gia súc khác.
Chỉ khi dùng đực thí tình cho kết quả phát
hiện động dục 100%.
Bảng 2. Thời gian xuất hiện động dục trong ngày của trâu cái Thái Lan
STT Thời gian trong ngày Số con theo dõi (con) Số con xuất hiện (con) Tỷ lệ (%)
1 6h – 12h 25 9 36
2 12h – 18h 25 7 28
3 18h – 24h 25 18 72
4 0h – 6h 25 5 20
Bảng 3. Một số biểu hiện động dục đặc trưng bên ngoài của trâu cái Thái Lan
STT Vị trí, hành vi quan sát
Số con
quan sát
Số con có
biểu hiện
Biểu hiện đặc trưng
1 Hành vi 25 9 Tìm kiếm trâu khác
2 Mũi 25 10 Ngửi
3 Tiếng kêu 25 5 Kêu rống
4 Biểu hiện đi lại 25 8 Nhảy lên lưng con khác
5 Biểu hiện ăn uống 25 4 Trâu ít ăn, ngơ ngác, bỏ đàn
6 Biểu hiện của âm hộ 25 6
Âm hộ ướt, niêm mạc âm đạo xung huyết,
đỏ hồng, căng mọng
7 Dịch tiết của âm hộ 25 5 Dịch nhờn tiết ra từ âm đạo có màu trong
8 Biểu hiện đi tiểu 25 7 Đuôi cong, đi tiểu nhiều lần
Bảng 4. Kết quả phối giống, mang thai và động dục trở lại sau đẻ của trâu cái Thái Lan
STT Chỉ tiêu theo dõi ĐVT
Số trâu theo dõi
(con)
Số trâu có biểu
hiện (con)
Tỷ lệ đạt
(%)
1 Số trâu phối giống lần đầu có chửa Con 25 18 72
2
Số trâu phối giống có chửa qua các
lần phối
Con 25 5 20
3 Số trâu đẻ Con 25 22 88
4
Số trâu động dục trở lại sau đẻ 2-3
tháng
Con 25 15 60
Nguyễn Mạnh Hà và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(16): 27 - 32
Email: jst@tnu.edu.vn 31
Bảng 5. Khả năng nuôi con của trâu cái Thái Lan
STT
Chỉ tiêu theo dõi ĐVT Nghé đực Nghé cái
n Kết quả n Kết quả
1 Khối lượng nghé sơ sinh ) Kg 4 28,75±1,63 5 30,1±3,52
2 Khối lượng nghé cai sữa Kg 4 78,12±6,17 5 83±7,41
3 Số nghé còn sống sau 24 h sau sinh Con 21 21 22 22
4 Số nghé còn sống 1 tháng sau sinh Con 21 21 22 21
5 Số nghé còn sống 1 năm sau sinh Con 8 8 10 9
6 Số nghé còn sống đến 24 tháng sau sinh Con 4 4 4 3
Theo Tạ Văn Cần và cs (2018) [1], trâu có
biểu hiện động dục khá thầm lặng, do vậy
ngoài các biểu hiện đặc trưng như dịch nhờn
từ âm hộ, tìm kiếm và nhảy lên trâu khác,
biếng ăn, ngơ ngác, bỏ đàn... thì có thể sử
dụng phương pháp đo điện trở âm đạo để xác
định chính xác hơn.
Nghiên cứu về dấu hiệu động dục trên trâu
cái, Mai Văn Sánh và Mai Thị Thơm (2005)
[7] cho rằng dấu hiệu bên ngoài đáng tin cậy
nhất là niêm mạc âm đạo xung huyết. Các dấu
hiệu khác như nhảy lên con khác, đái rắt, kêu
rống, thải dịch không đáng tin cậy vì chỉ có
chưa tới 50% trâu cái động dục có dấu hiệu này
(kiểm chứng động dục thông qua đực thí tình).
Như vậy biểu hiện động dục đa số thầm lặng,
ít có biểu hiện ra bên ngoài, nên việc theo dõi
cũng khó khăn.
3.1.4. Kết quả phối giống và mang thai của
trâu cái Thái Lan
Kết quả phối giống, mang thai và động dục
trở lại sau đẻ của trâu cái Thái Lan được thể
hiện ở bảng 4: Số trâu phối giống lần đầu có
chửa chiếm tỷ lệ 72%, số trâu phối giống có
chửa qua các lần phối chiếm tỷ lệ 20%, số
trâu đẻ chiếm 88%. Trong đó có 60% số trâu
đều động dục trở lại sau đẻ 2 - 3 tháng.
3.2. Khả năng nuôi con của trâu cái Thái Lan
Theo dõi khả năng nuôi con của trâu cái Thái
Lan thể hiện ở bảng 5.
Khả năng nuôi con của trâu cái Thái Lan
được thể hiện qua: khối lượng nghé sơ sinh ở
con đực là 28,75 kg, ở nghé cái là 30,1 kg.
Khối lượng nghé cai sữa lúc 6 tháng tuổi ở
con đực là 78,12 kg, ở nghé cái là 83 kg.
Về tỷ lệ nghé còn sống sau sinh là: số nghé còn
sống sau sinh 24 giờ là 100%, số nghé còn
sống sau sinh 1 tháng là 97,67%, số nghé còn
sống sau sinh 1 năm chiếm 94,44%, số nghé
còn sống sau sinh 24 tháng chiếm 87,5%.
4. Kết luận
Trâu cái Thái Lan có tuổi xuất hiện động dục
lần đầu 28,64 tháng tuổi. Tuổi phối giống lần
đầu vào 31,40 tháng tuổi. Thời gian mang thai
là 314,96 ngày, tuổi đẻ lứa đầu 41,44 tháng
tuổi.Thời gian động dục trở lại sau đẻ 89,00
ngày. Khoảng cách lứa đẻ là 17,40 tháng tuổi.
Trâu Thái Lan động dục có các biểu hiện đặc
trưng, nhưng thường vào ban đêm. Số trâu
phối giống lần đầu có chửa chiếm tỷ lệ 72%,
số trâu phối giống có chửa qua các lần phối
chiếm tỷ lệ 20%, số trâu đẻ chiếm 88%, 60%
trâu động dục trở lại sau đẻ 2-3 tháng.
Khối lượng nghé sơ sinh đạt từ 28-30 kg.
Khối lượng nghé cai sữa lúc 6 tháng tuổi từ
78,12 – 83 kg. Tỷ lệ nghé còn sống sau sinh
24 giờ là 100%, sau 24 tháng là 87,5%.
TÀI LIỆU THAM KHẢO/ REFERENCES
[1]. C. V. Ta, D. V. Nguyen, N. D. Vu, C. D.
Nguyen, H. H. Nguyen, D. C. Nguyen, T. T.
Tran, and C. K. Ngo, “The results of improving
artificial insemination techniques to improve
buffalo fertility,” (in Vietnamese), Journal of
animal science and technology, no. 85, pp. 73-
78, 2018.
[2]. L. T. Su, G. V. Pham, S. T. Nguyen, H. T. T.
Le, and M. H. Nguyen, “Fertility of swamp
buffalo in hilly and moutainous district of
Thach That – HaNoi,” Journal of animal
science and technology, no. 229, pp. 16-21,
2018.
Nguyễn Mạnh Hà và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(16): 27 - 32
Email: jst@tnu.edu.vn 32
[3]. T. T. Mai, “Surveying buffalo fertility in Song
Cong town, Thai Nguyen Province,” (in
Vietnamese), Journal of agricultural science
and technology – Ha Noi Agricultural
University I, no. 3, pp. 213-215, 2003.
[4]. T. B. Nguyen, L. Y. Duong, and T. K. H.
Pham (2018), “Reproductive productivity of
bufaloes in An Giang,” (in Vietnamese),
Journal of animal science and technology, no.
232, pp. 7-13, May 2018.
[5]. T. V. Nguyen, Q. K. Nguyen, and H. D.
Nguyen, Research methods in animal
husbandry. Agricultural Publisher, Ha Noi,
2002.
[6]. S. V. Mai, “The status of buffalo breeding in
some localities represents large buffalo
regions in the country,” (in Vietnamese),
Journal of Animal Science and Technology,
National Institute of Animal Husbandry, no.
15, pp. 1-7, 2008.
[7]. S. V. Mai, and T. T. Mai (2005), “Study on
reproductive characteristics and some
measures to improve the fertility of buffaloes
in MeLinh district – Vinh Phuc,” 2005.
[Online]. Available:
nghien-cuu-dac-diem-sinh-san-va-mot-so-
bien-phap-nang-cao-kha-nang-sinh-san-cua-
trau-o-huyen-me-linh-vinh-phuc.htm.
[Accessed Sept. 2019].
Các file đính kèm theo tài liệu này:
danh_gia_kha_nang_sinh_san_cua_trau_cai_thai_lan.pdf