Internal erosion is one of the main causes of instabilities within hydraulic earth structures such as:
dam, dike using soils. Internal erosion process was distinguished into four types: concentrated leak
erosion, backward erosion, contact erosion and suffusion. This paper deals with suffusion, this
erosion process can cause the change of grain size, porosity and hydraulic conductivity in dam,
dike. Assessing of stability of dam, dike caused by suffusion process, was very complex and had not
researched yet perfectly. The choice of property methods, criteria which assesses the stability for
hydraulic earth structure, was very important. Geometric criteria were one of the important criteria
to assess the safety of earth dam, dike and apply for all soils. This assessing based on grain size
distribution of soils from dams, dikes. One MATLAB program to assess suffusion susceptibility of
soils was given. The assessing results of suffusion susceptibility of dam, dike soils from Canada,
France, Vietnam and cohesionless soils were given
6 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 595 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá khả năng xói hạt mịn của một số đất đắp đập, đê dựa vào những tiêu chuẩn cỡ hạt - Lê Văn Thảo, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KHOA HC K THUT THuhoahoiY LI VÀ MÔI TRuchoaNG uhoahoiuhoahoiuhoahoi - S 60 (3/2018) 27
BÀI BÁO KHOA H
C
ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG XÓI HẠT MỊN CỦA MỘT SỐ ĐẤT ĐẮP ĐẬP, ĐÊ
DỰA VÀO NHỮNG TIÊU CHUẨN CỠ HẠT
Lê Văn Thảo1, Vũ Huy Công1
Tóm tắt: Xói ngầm là một trong những nguyên nhân chính gây nên hiện tượng mất ổn định trong
các công trình như đập, đê sử dụng vật liệu đất đắp. Tiến trình xói ngầm có thể phân ra thành bốn
loại: xói rò rỉ, xói kéo theo, xói tiếp xúc và xói hạt mịn. Bài báo này liên quan đến xói hạt mịn, xói
này có thể gây ra sự thay đổi về thành phần cỡ hạt, độ rỗng, và độ dẫn thủy lực trong đập, đê. Việc
đánh giá ổn định của đập, đê do xói hạt mịn gây ra rất phức tạp và chưa được nghiên cứu hoàn
hảo. Việc lựa chọn phương pháp, tiêu chuẩn phù hợp để đánh giá ổn định cho những công trình rất
quan trọng. Một trong những tiêu chuẩn quan trọng được lựa chọn để đánh giá sự an toàn của đập
đất là tiêu chuẩn về cỡ hạt và áp dụng cho tất cả các loại đất. Sự đánh giá này dựa vào những
đường cong thành phần hạt của một số loại đất đắp đập, đê đã thu thập. Một chương trình Matlab
để đánh giá khả năng xói hạt mịn của một số loại đất được lựa chọn từ các đập, đê cụ thể được đưa
ra. Bài báo chỉ ra kết quả đánh giá khả năng xói hạt mịn cho một số loại đất đắp đập, đê từ
Canada, Pháp và Việt Nam và một số loại đất rời thiết kế.
Từ khoá: Xói ngầm, xói hạt mịn, ổn định, tiêu chuẩn cỡ hạt.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ1
Những kết cấu thủy lực đóng một vai trò
quan trọng trong cuộc sống hằng ngày của
chúng ta như cung cấp năng lượng, cung cấp
nước, kiểm soát lũ lụtTheo Foster nnk.
(2000), xói ngầm là một trong những nguyên
nhân chính gây nên sự mất ổn định của những
công trình nền đắp như đập, đê Bốn kiểu của
xói ngầm được hai tác giả (Fell and Fry, 2013)
phân loại gồm: Xói rò rỉ, xói kéo theo, xói tiếp
xúc và xói hạt mịn. Hiện tượng xói hạt mịn
tương ứng với tiến trình tách và sau đó vận
chuyển những hạt mịn nhất vào không gian lỗ
rỗng của những hạt có đường kính lớn hơn.
Garner and Fannin (2010) cho thấy xói bị gây ra
bởi 3 yếu tố: độ nhạy vật liệu (material
susceptibility), tải trọng thủy lực tới hạn (critical
hydraulic load) và điều kiện ứng suất tới hạn.
Xói của vật liệu liên quan đến sự tách và vận
1Khoa Xây dựng Thủy lợi –Thủy điện, Trường Đại học
Bách Khoa-Đại học Đà Nẵng
chuyển hạt đất nhỏ hơn trong lỗ rỗng của đất. Sự
tách và vận chuyển này liên quan đến đường
cong thành phần hạt, hình dạng của hạt, độ rỗng,
tiêu chuẩn ứng suất và tiêu chuẩn thủy lực. Một
trong ba tiêu chuẩn được sử dụng nhiều nhất để
đánh giá ổn định của công trình là tiêu chuẩn về
cỡ hạt và được nghiên cứu bởi rất nhiều tác giả.
Vì vậy việc tổng hợp và lựa chọn tiêu chuẩn phù
hợp để đánh giá khả năng xói hạt mịn cho những
loại đất đắp đập cụ thể là rất quan trọng và cần
thiết. Bài báo sẽ phân tích chi tiết kết quả đánh
giá của một số đất đã chọn lựa từ các đập, đê và
một số loại đất rời và ít dính khác với thành phần
hạt mịn từ 15.25% đến 61%.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Các tiêu chuẩn đánh giá
Lafleur nnk. (1989) đã phân ra 3 dạng đường
cong thành phần hạt (Hình 1): cấp phối tuyến
tính (đường cong 1 và 2) bao gồm các cấp phối
đất với những hạt phân bố đồng đều (đường
cong 1) hoặc cho những cấp phối đất có thành
phần hạt mịn phân bố đồng đều (đường cong 2),
đối với đường cong này phần trăm hạt thô xấp
KHOA HC K THUT THuhoahoiY LI VÀ MÔI TRuchoaNG uhoahoiuhoahoiuhoahoi - S 60 (3/2018) 28
xỉ 20% theo khối lượng. Đường cong 3 tương
ứng với những cấp phối đất có những cỡ hạt bị
thiếu, và đường cong 4 tương ứng với những
cấp phối đất không tốt.
Hình 1. Các dạng đường cong thành phần
hạt (Lafleur nnk. 1989)
Istomina (1957) đã phát triển một phương
pháp đơn giản để đánh giá sự ổn định bên trong
của cấp phối cát, sỏi dựa trên hệ số đồng đều
(Cu) của đường cong thành phần hạt. Cấp phối
đất với Cu <10 được phân loại là cấp phối tốt,
Cu >20 cấp phối không tốt và 10 ≤ Cu ≤ 20 nằm
trong khu vực chuyển tiếp. Kezdi (1979) đã đề
xuất tiêu chuẩn để đánh giá khả năng xói hạt
mịn dựa vào thành phần hạt thô và hạt mịn. Nếu
tỉ lệ d15c/d85f >4, đất được đánh giá dễ bị xói,
trong đó d15c là đường kính tương ứng với 15%
lọt sàng của thành phần hạt thô, d85f là đường
kính tương ứng 85% lọt sàng của thành phần hạt
mịn. Phương pháp của Kenney và Lau (1985,
1986) dựa trên những cỡ hạt có đường kính nhỏ
hơn d (được đặt tên là F) và những cỡ hạt từ d
đến 4d (ký hiệu là H) để đánh giá khả năng xói
hạt mịn. Đất được đánh giá ổn định với xói hạt
mịn nếu tỉ lệ H/F > 1 và H/F < 1 đất dễ bị xói.
Li và Fannin (2008) đã đưa ra sự so sánh
giữa tiêu chuẩn của Kezdi (1979) và của
Kenney và Lau (1985). Nếu d15c/d85f > 4
(F>15%, H=15%) và (H/F<1, F<15%), đất được
đánh giá ổn định với xói. Wan và Fell (2008) đã
đưa ra một phương pháp đánh giá sự ổn định do
xói ngầm của những loại đất có cấp phối tốt.
Phương pháp này dựa vào hai tỉ lệ: d90/d60 và
d20/d5 và kết quả được phân thành 3 khu vực:
khu vực ổn định, không ổn định và khu chuyển
tiếp (Hình 2).
Hình 2. Phương pháp đánh giá sự không ổn
định bên trong của loại đất “broadly graded
silt-sand-gravel soils” (Wan và Fell, 2008)
Tuy nhiên hai tác giả Wan và Fell cho thấy
phương pháp này không phù hợp cho những loại
đất có thành phần hạt mịn ít hơn 15%.
Một tiêu chuẩn khác được đề xuất bởi Chang
và Zhang (2013), tiêu chuẩn này áp dụng cho tất
cả các loại đất. Đối với loại đất có cấp phối
“widely graded soil”: với P <5% (P là phần trăm
của hạt mịn có đường kính nhỏ hơn 0.063mm),
đất ổn định với xói nếu (H/F)min>1. Với 5 ≤ P ≤
20 và (H/F)min > - (1/15)P + 4/3- đất ổn định xói
và những loại đất có P >20 đất dường như ổn
định với xói. Đối với những loại đất “gap-
graded soil” là những loại đất có một số cỡ hạt
bị thiếu: với P < 10 một loại đất không bị xói
nếu Gr < 3 (trong đó Gr = dmax/dmin, dmax, dmin là
đường kính lớn nhất của thành phần hạt mịn và
đường kính nhỏ nhất của thành phần hạt thô),
với 10 ≤ P ≤ 35 đất ổn định xói nếu Gr <0.3P.
Với P >35 đất dường như không bị xói.
Marot nnk. (2016) đã so sánh một vài tiêu
chuẩn của Kenney và Lau (1985, 1986), Chang
và Zhang (2013) và của Wan và Fell (2008) và
họ đã xác định tiêu chuẩn phù hợp nhất để đánh
giá khả năng xói hạt mịn của những loại đất:
trong trường hợp những loại đất “gap-graded
soil”, nếu phần trăm hạt mịn cao hơn 35% đất
dường như ổn định xói. Đối với những loại đất
có hàm lượng hạt mịn ít hơn 35%, tiêu chuẩn
của Chang và Zhang dường như ít phù hợp. Đối
với những loại đất có cấp phối “widely graded
soil”, thành phần hạt mịn được xác định bởi giá
trị tối thiểu của tỉ lệ (H/F)min. Nếu phần trăm hạt
KHOA HC K THUT THuhoahoiY LI VÀ MÔI TRuchoaNG uhoahoiuhoahoiuhoahoi - S 60 (3/2018) 29
mịn ít hơn 15%, đánh giá khả năng ổn định có
thể theo tiêu chuẩn của Kenney và Lau, phần
trăm hạt mịn lớn hơn 15% sự đánh giá ổn định
đất dựa theo tiêu chuẩn của Wan và Fell.
Với những tiêu chuẩn được đưa ra ở trên,
chúng ta có thể sử dụng những tiêu chuẩn này
để đánh giá ổn định cho các công trình đập, đê.
Tuy nhiên bởi vì một vài tiêu chuẩn, phạm vi áp
dụng các loại đất bị giới hạn nên cần tập hợp đủ
tiêu chuẩn để đánh giá các loại đất trên phạm vi
rộng và đặc biệt cần phải quan tâm hơn đến tiêu
chuẩn đã so sánh các tiêu chuẩn trước như tiêu
chuẩn của Marot nnk. (2016).
2.2 Thuật toán đánh giá xói hạt mịn dựa
vào các tiêu chuẩn
Để đánh giá hai kiểu đường cong thành phần
hạt “gap-graded soil” và “widely graded soil”,
tiêu chuẩn ít bảo thủ có thể được chọn lựa giữa
những tiêu chuẩn từ Chang và Zhang, Kenney
và Lau hoặc Wan và Fell (Marot nnk. 2016).
Hai thuật toán mới được viết trên ngôn ngữ
Matlab để phân biệt “ổn định với xói” hoặc
“không ổn định với xói” của những loại đất
“gap-graded soil” và “widely graded soil” (Hình
(3a) và (3b)). Đầu vào của thuật toán là những
giá trị của đường cong thành phần hạt, kết quả
đầu ra đánh giá được khả năng xói hạt mịn hoặc
không xói của những loại đất.
Hình 3 Hai thuật toán mới đánh giá ổn định xói hạt mịn
a) “gap-graded soils”; b) “widely graded soils”
2.3 Áp dụng cho một số loại đất đắp đập, đê
và một số loại đất rời khác
Những loại đất được chọn lựa với những đường
cong cấp phối khác nhau và những hình dạng cỡ
hạt khác nhau được lấy từ các đập, đê, hoặc mẫu
thiết kế. Bốn loại đất từ đập và đê bao gồm: một
loại từ đập đất của hồ chứa ở tỉnh Đak nông , ký
hiệu là “Dam-DakNong”, một loại đất từ đập của
Pháp được ký hiệu “Dam-F”, một loại đất từ đê của
Pháp “Dike-F”, một loại đất từ đập ở Canada. Hai
loại đất được thiết kế từ những loại đất thiên nhiên
bao gồm: một loại được tạo ra từ cát, bùn và sỏi ký
hiệu là “Sand-Silt-Gravel”, một loại đất được trộn
từ cát và thành phần hạt thô của 1 đập “DR+Sand”.
Đường cong thành phần hạt của những loại đất kể
trên được thể hiện trong hình 4. Trong số 6 loại đất
kể trên, 4 loại “Dam-Dak-Nong”, “Dike-F”, “Dam-
C”, “DR-sand” được xem là những loại đất
“widely graded soil” và hai loại đất “Sand-Silt-
Gravel”, “Dam-F” là “gap graded soil”.
(a)
(b)
KHOA HC K THUT THuhoahoiY LI VÀ MÔI TRuchoaNG uhoahoiuhoahoiuhoahoi - S 60 (3/2018) 30
Hình 4. Đường cong thành phần hạt của những loại đất
Bảng 1 chi tiết những đường kính khác nhau của đất bao gồm: d5, d10, d15, d20, d30, d50, d60, d90, Cu, P
Bảng 1. Đặc tính của một số loại đất
Grain size
distributions
d5
(mm)
d10
(mm)
d15
(mm)
d20
(mm)
d30
(mm)
d50
(mm)
d60
(mm)
d90
(mm)
Cu
(-)
P
(%)
Dam-DakNong 0.006 0.01 0.02 0.031 0.055 0.208 0.448 4.600 44.8 32.31
Dam-F 0.101 0.313 0.447 0.568 3.834 10.263 13.938 37.524 44.53 1
Dam-C 0.010 0.026 0.050 0.078 0.160 0.630 1.875 80.000 72.12 1
Dike-F 0.186 0.246 0.301 0.368 0.503 1.381 3.178 8.354 12.92 1
DR-Sand 0.145 0.231 0.315 0.603 2.220 2.627 3.029 4.483 13.11 0.59
Sand-Silt-
Gravel
0.08 0.104 0.126 0.150 2.900 4.120 4.550 5.860 27.41 1.6
Trong đó: d5, d10, d15, d20, d30, d50, d60, d90: những đường kính cỡ hạt tương ứng với 5, 10, 15, 20,
30, 50, 60 và 90%; Cu: hệ số đồng đều; P: phần trăm hạt mịn ứng với đường kính nhỏ hơn
0.063mm theo tiêu chuẩn Chang và Zhang.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Kết quả đánh giá khả năng xói hạt mịn của
một số loại đất kể trên được thể hiện trong Bảng
2. Năm tiêu chuẩn của các tác giả khác nhau
được sử dụng để đánh giá bao gồm: Istomina
(1957), Kenney và Lau (1985, 1986), Wan và
Fell (2008), Chang và Zhang (2013), Marot nnk.
(2016). Đối với tiêu chuẩn của Istomina (1957)
chỉ áp dụng cho những cấp phối “cát + sỏi”. Vì
vậy đối với tiêu chuẩn này hai loại đất được
đánh giá: “DR+Sand” và “Sand-Silt-Gravel” với
kết quả đánh giá như sau: cấp phối “DR+Sand”
nằm trong vùng chuyển tiếp giữa ổn định và
không ổn định, loại đất “Sand-Silt-Gravel” được
đánh giá không ổn định với xói. Bốn loại đất
còn lại không được đánh giá theo tiêu chuẩn
này. Dựa vào tiêu chuẩn của Kenney và Lau
(1985, 1986), cả 6 loại đất được đánh giá là
KHOA HC K THUT THuhoahoiY LI VÀ MÔI TRuchoaNG uhoahoiuhoahoiuhoahoi - S 60 (3/2018) 31
không ổn định với xói ngầm. Đối với tiêu chuẩn
này, sự đánh giá khả năng xói hạt mịn có sự
thiên về không an toàn. Đánh giá dựa vào tiêu
chuẩn Wan và Fell (2008) được áp dụng cho 4
loại đất “Dam-DakNong”, “Dike-F”, “Dam-C”
và “DR-sand” với kết quả là cả 4 cấp phối đất
được đánh giá là không ổn định với xói. Tiêu
chuẩn này chỉ áp dụng cho những loại đất
“widely graded soil”, vì vậy hai loại đất “Dam-
F” và “Sand-Silt-Gravel” không được đánh giá.
Dựa vào tiêu chuẩn của hai tác giả Chang và
Zhang (2013), 3 loại đất: “Dam-DakNong”,
“Dam-F”, “Dam-C” được đánh giá ổn định
với xói hạt mịn, 3 loại đất: “Dike-F”, “DR-
sand”, “Sand-Silt-Gravel” được đánh giá xảy
ra xói hạt mịn.
Dựa vào tiêu chuẩn của Kenney và Lau
(1985, 1986) thì những loại đất thiên về
không an toàn, trong khi đó theo tiêu chuẩn
của Wan và Fell (2008) thì các loại đất thiên
về an toàn, còn đối với tiêu chuẩn Chang và
Zhang (2013), các loại đất có được kết quả
đánh giá khá khác so với hai tiêu chuẩn kia.
Bảng 2. Khả năng xói hạt mịn
Soil
Istomina
(1957)
Kenney và Lau
(1985, 1986)
Wan và Fell
(2008)
Chang và
Zhang (2013)
Marot nnk.
(2016)
Dam-
DakNong - Unstable Stable Stable Stable
Dam-F - Unstable - Stable Unstable
Dam-C - Unstable Stable Stable Stable
Dike-F - Unstable Stable Unstable Stable
DR-Sand Transitional Unstable Stable Unstable Unstable
Sand-Silt-
Gravel
Unstable Unstable - Unstable Unstable
Vì phạm vi đánh giá chỉ dựa vào cỡ hạt nên
dựa vào tiêu chuẩn của Marot nnk. (2016), kết
quả đánh giá của những loại đất được đưa ra
như sau: 3 loại đất “Dam-DakNong”, “Dam-
C”, “Dike-F” đánh giá là ổn định với xói hạt
mịn, 3 loại còn lại không ổn định.
Với những kết quả đánh giá ở bảng trên một
sự đề xuất để thay đổi cấp phối khác cho 3 loại
đất của những đập, đê khác nhau: “Dam-F”,
“DR-sand”, “Sand-Silt-Gravel” nhằm mục đích
tăng cường khả năng kháng xói.
4. KẾT LUẬN
Trong nghiên cứu này tác giả đã sử dụng các
tiêu chuẩn để đánh giá khả năng xói hạt mịn của
6 loại đất cụ thể được thu thập từ các đập, đê,
hoặc là những mẫu đất rời thiết kế. Với 5 tiêu
chuẩn kể trên, theo quan điểm của tác giả thì
tiêu chuẩn của Marot nnk. (2016) các kết quả
đánh giá có tính khả quan hơn và thể hiện chi
tiết hơn. Kết quả đánh giá này giúp ích rất lớn
trong quá trình quản lý rủi ro.
Với những kết quả nghiên cứu của các tác giả
trên thế giới, chúng ta có thể áp dụng những tiêu
chuẩn này để đánh giá khả năng xói hạt mịn và
tiến tới kiểm định an toàn cho những đập và đê
khác ở Việt Nam.
Lời cảm ơn: Bài báo này được tài trợ bởi
trường Đại học Bách Khoa, ĐHĐN với đề tài có
mã số T2018-02-26
KHOA HC K THUT THuhoahoiY LI VÀ MÔI TRuchoaNG uhoahoiuhoahoiuhoahoi - S 60 (3/2018) 32
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Chang, D. S., & Zhang, L. M. (2013). Extended internal stability criteria for soils under seepage.
Soils and Foundations, 53(4):569-583.
Fell, R., & Fry, J. J. (2013). Erosion in geomechanics applied to dams and levees. Bonelli S. Editor.
ISTE-Wiley. pp.1-99.
Foster, M., Fell, R., & Spanagle, M. (2000). The statistics of embankment dam failures and
accidents. Canadien Geotechnical Journal, (37): 1000-1024.
Garner, S.J., and Fannin, R.J. (2010). Understanding internal erosion: a decade of research
following a sinkhole event. The International J. on Hydropower and Dams 17: 93-98.
Istomaina, V. S. (1957). Filtration stability of soils. Gostroizdat, Moscow, Leningrad.
Kenney, T. C., & Lau, D. (1985). Internal stability of granular filters. Canadien Geotechnical
Journal, 22: 215-225.
Kenney, T. C., & Lau, D. (1986). Internal stability of granular filters: Reply. Canadien
Geotechnical Journal, 23(4), 420-423.
Kezdi, A. (1979). Soil physics-selected topics. Elsevier Scientific Publishing Company,
Amsterdam-Oxford-New York, pp.160.
Lafleur, J., Mlynarek, J., & Rollin, A. L. (1989). Filtration of broadly graded cohesionless soils.
Journal of Geotechnocal Engineering, 115(12):1747-1768.
Li, M., & Fannin, R. J. (2008). Comparison of two criteria for internal stability of granular soil.
Canadien Geotechnical Journal, 45(9), 1303-1309.
Marot, D., Rochim, A., Nguyen, H. H., Bendahmane, F., & Sibille, L. (2016). Assessing the
susceptibility of gap graded soils to internal erosion characterization: proposition of a new
experimental methodology. Nat Hazards, 1-24.
Wan, C. F., & Fell, R. (2008). Assessing the potential of internal instability and suffusion in
embankment dams and their foundations. Journal of Geotechnical and Geoenvironmental
Engineering, ASCE, 134(3): 401-407.
Abstract:
ASSESSING SUFFUSION SUSCEPTIBILITY OF SOILS FROM DAM, DIKE BASED ON
GEOMETRIC CRITERIA
Internal erosion is one of the main causes of instabilities within hydraulic earth structures such as:
dam, dike using soils. Internal erosion process was distinguished into four types: concentrated leak
erosion, backward erosion, contact erosion and suffusion. This paper deals with suffusion, this
erosion process can cause the change of grain size, porosity and hydraulic conductivity in dam,
dike. Assessing of stability of dam, dike caused by suffusion process, was very complex and had not
researched yet perfectly. The choice of property methods, criteria which assesses the stability for
hydraulic earth structure, was very important. Geometric criteria were one of the important criteria
to assess the safety of earth dam, dike and apply for all soils. This assessing based on grain size
distribution of soils from dams, dikes. One MATLAB program to assess suffusion susceptibility of
soils was given. The assessing results of suffusion susceptibility of dam, dike soils from Canada,
France, Vietnam and cohesionless soils were given.
Keywords: Internal erosion, suffusion, stability, geometric criteria
Ngày nhận bài: 25/12/2017
Ngày chấp nhận đăng: 20/01/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36219_117438_1_pb_1763_2070323.pdf