Genome của B. pseudomallei mã hóa hệ thống tiết loại
6 (type VI secretion systems; T6SSs), trong đó hcp proteins
là những thành phần của hệ thống tiết loại 6 nằm trên bề
mặt tế bào và thường tìm thấy trong dịch nuôi cấy vi khuẩn
có hệ thống tiết này. Trong số 6 loại hcp thử nghiệm, chỉ
duy nhất hcp1 có phản ứng với kháng thể của bệnh nhân
nhiễm melioidosis khi thử bằng phương pháp western blot.
Kết quả đó minh chứng hcp1 có khả năng biểu hiện in
vivo và có khả năng kích thích tạo đáp ứng miễn dịch. Tuy
nhiên, hcp1 không biểu hiện in vitro khi nuôi cấy vi khuẩn
trong môi trường dịch thể LB [11]. Điều đặc biệt là bệnh
nhân nhiễm melioidosis không có kháng thể kháng các hcp
proteins từ 2 tới 6. Hcp1 có khả năng tạo đáp ứng miễn dịch
để bảo vệ 50% chuột khi tiêm ở liều thử thách gấp 50 lần
so với liều gây chết. Tuy nhiên, hcp proteins không được
khuyến cáo cho chế tạo vaccine vì tính bảo vệ chuột tránh
bệnh và tỷ lệ chuột chết là rất thấp khi lặp lại thử nghiệm.
Vì vậy, nghiên cứu đã đề xuất hcp1 có thể ứng dụng trong
chẩn đoán huyết thanh học [11]. Phân tích transcriptome
cũng chỉ ra rằng, hcp1 biểu hiện mạnh trong quá trình
xâm nhiễm đại thực bào U937 so với các gene khác trong
hệ thống tiết loại 6 và cũng là protein duy nhất trong số
3 protein tái tổ hợp từ các gene BPSS0529, BPSS1498 và
BPSS1499 lựa chọn có phản ứng dương tính với kháng
thể của bệnh nhân melioidosis bằng kỹ thuật ELISA và
western blot [14]. Nghiên cứu đánh giá phương pháp
ELISA sử dụng các kháng nguyên O-polysaccharide (OPS),
6-deoxyheptancapsularpolysaccharide (CPS), whole-cell
(WC) và culture filtrate (CF) trên huyết thanh của bệnh nhân
Thái Lan nhiễm melioidosis thấy rằng, OPS-ELISA cho
kết quả xét nghiệm tốt nhất [15]. Khi so sánh OPS-ELISA
với hcp1-ELISA, Pumpuang và cs [9] đã kiểm chứng trên
141 mẫu huyết thanh thu thập ngay lúc bệnh nhân nhiễm
melioidosis nhập viện, 188 người Thái Lan khỏe mạnh,
90 người Mỹ khỏe mạnh, 20 bệnh nhân lao phổi, 50 bệnh
nhân sốt mò và 50 bệnh nhân nhiễm leptospirosis. Sử dụng
giá trị cut-off tương ứng với độ đặc hiệu 95% thì độ nhạy
của phương pháp ELISA hcp1 là 83%. Độ nhạy và độ đặc
hiệu này tốt hơn so với phương pháp OPS-ELISA. Kết quả
nghiên cứu của chúng tôi sử dụng huyết thanh của người
Việt Nam hoàn toàn tương đồng với các nghiên cứu trước
đó. Kết quả minh chứng phương pháp hcp1-ELISA có độ
nhạy và độ đặc hiệu rất cao, lần lượt là 93,7 và 98,4%.
Nghiên cứu theo dõi độ nhạy của phương pháp hcp1-
ELISA tại các tuần 0, tuần 12 và tuần 52 cho thấy, độ nhạy
lần lượt là 81,5 (163/200), 82,3 (93/113) và 81,8% (90/110).
So sánh hiệu giá kháng thể kháng hcp1 tại tuần 0 và tuần 12
không khác nhau nhiều nhưng có sự giảm đáng kể hiệu giá
kháng thể ở tuần thứ 52 [9]. Điều đó cho thấy, hcp1-ELISA
có khả năng chẩn đoán phân biệt người đã từng phơi nhiễm
và người mới phơi nhiễm với vi khuẩn B. pseudomallei. Kết
quả đó minh chứng tiềm năng sử dụng hcp1-ELISA như
một phương pháp mới trong chẩn đoán huyết thanh bệnh
nhân nhiễm melioidosis tại Việt Nam, đặc biệt ứng dụng
trong chẩn đoán sàng lọc bệnh nhân nhiễm melioidosis trên
các đối tượng bệnh nhân sốt kéo dài chưa rõ nguyên nhân,
do sự hạn chế về độ nhạy của phương pháp xét nghiệm nuôi
cấy vi sinh.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 19 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá kháng nguyên tái tổ hợp hemolysin co-Regulated protein 1 (hcp1) trong chẩn đoán nhanh bệnh nhân nhiễm melioidosis (bệnh Whitmore) bằng kỹ thuật ELISA, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
2662(9) 9.2020
Khoa học Y - Dược
Đặt vấn đề
Melioidosis (hay còn gọi là bệnh Whitmore) là một
loại bệnh truyền nhiễm nguy hiểm do vi khuẩn Gram âm
B. pseudomallei sống ở trong đất gây nên. Melioidosis có
bệnh cảnh lâm sàng đa dạng, có thể diễn tiến ở thể mạn tính,
cấp tính và tối cấp tính kèm viêm phổi, nhiễm khuẩn huyết,
sốc nhiễm khuẩn huyết và tử vong với tỷ lệ cao (>40%)
nếu bệnh nhân không được chẩn đoán sớm và điều trị đúng
kháng sinh theo phác đồ khuyến cáo [1]. Người có nguy cơ
nhiễm bệnh cao là người có hoạt động thường ngày tiếp xúc
với đất và nước nhiễm khuẩn, có độ tuổi trong khoảng từ 40
đến 70 tuổi (mặc dù bệnh vẫn gặp ở trẻ sơ sinh, trẻ em và
người trưởng thành), người có các bệnh nền như tiểu đường,
bệnh phổi và thận mạn tính, người nghiện rượu hoặc người
thường xuyên sử dụng corticoid [1-3].
Con đường lây truyền chính của bệnh là tiếp xúc trực
tiếp vết thương hở với đất và nước nhiễm vi khuẩn. Ngoài
ra, bệnh có thể lây truyền qua con đường ăn uống khi ăn
thực phẩm tươi sống và uống nước chưa đun sôi nhiễm vi
khuẩn. Bệnh cũng có thể lây truyền qua con đường hô hấp
khi hít phải các hạt bụi hoặc hạt sol khí tạo ra trước cơn mưa
lớn. Vì vậy, tỷ lệ nhiễm melioidosis thường tăng cao vào
mùa mưa [1, 2].
Do dấu hiệu và triệu chứng lâm sàng đa dạng, có thể
nhầm lẫn với các bệnh truyền nhiễm khác nên chẩn đoán
melioidosis phải phụ thuộc chính vào xét nghiệm nuôi cấy
và định danh vi khuẩn B. pseudomallei trong các mẫu bệnh
phẩm lâm sàng. Tuy nhiên, xét nghiệm vi sinh có một số hạn
chế nhất định là: (i) thời gian nuôi cấy và trả kết quả của xét
nghiệm kéo dài từ 3-5 ngày; (ii) nhiều cán bộ xét nghiệm vi
sinh chưa có kỹ năng nhận diện khuẩn lạc B. pseudomallei
mọc trên môi trường nuôi cấy; (iii) nhiều mẫu bệnh phẩm
tạp nhiễm như đờm, ngoáy họng và nước tiểu cần phải sử
dụng môi trường chọn lọc để nuôi cấy tăng sinh và làm
giàu vi khuẩn B. pseudomallei trước khi phân lập; (iv) các
phương pháp định danh sinh hóa API 20NE hoặc máy định
Đánh giá kháng nguyên tái tổ hợp hemolysin co-regulated protein 1
(hcp1) trong chẩn đoán nhanh bệnh nhân nhiễm melioidosis
(bệnh Whitmore) bằng kỹ thuật ELISA
Trần Thị Lệ Quyên1, Nguyễn Thị Tình1, Bùi Nguyễn Hải Linh1, Đỗ Quốc Tuấn2, Trần Anh Đào3,
Phạm Thị Huyền4, Trịnh Hồ Tình5, Quế Anh Trâm3, Hoàng Quang Trung4, Trịnh Thành Trung1*
1Viện Vi sinh vật và Công nghệ sinh học, Đại học Quốc gia Hà Nội
2Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bắc Giang
3Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nghệ An
4Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hà Tĩnh
5Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bình Định
Ngày nhận bài 8/4/2020; ngày gửi phản biện 21/4/2020; ngày nhận phản biện 16/6/2020; ngày chấp nhận đăng 6/7/2020
Tóm tắt:
Melioidosis (hay còn gọi là bệnh Whitmore) là một loại bệnh truyền nhiễm nguy hiểm do vi khuẩn Burkholderia
pseudomallei (B. pseudomallei) gây nên. Bệnh có biểu hiện lâm sàng đa dạng. Vì vậy, chẩn đoán khẳng định ca nhiễm
bệnh phải dựa trên bằng chứng xét nghiệm vi sinh lâm sàng. Tuy nhiên, độ nhạy của phương pháp xét nghiệm nuôi
cấy thường phụ thuộc vào nhiều yếu tố, dẫn đến nguy cơ bỏ sót ca bệnh trong quá trình xét nghiệm. Trong nghiên
cứu này, các tác giả xác định gene BPSS1498 mã hóa hemolysin co-regulated protein 1 (hcp1), tạo dòng và biểu hiện
protein bằng tế bào E. coli BL21(DE3) pLysS. Protein hcp1 có kích thước 18,7 kDa được tinh sạch. Western blot
chứng minh hcp1 gắn kết đặc hiệu với kháng thể IgG của bệnh nhân nhiễm melioidosis. Phương pháp hcp1-ELISA
được thiết lập và đánh giá trên 94 mẫu huyết thanh (32 mẫu từ nhóm bệnh nhân melioidosis, 32 mẫu từ nhóm bệnh
nhân nhiễm khuẩn huyết khác và 30 mẫu từ nhóm người khỏe mạnh). Sử dụng giá trị cut-off là 0,595, kỹ thuật hcp1-
ELISA đạt độ nhạy 93,7% và độ đặc hiệu 98,4%. Kết quả nghiên cứu này mở ra hướng chẩn đoán mới trong xét
nghiệm sàng lọc bệnh nhân nhiễm melioidosis tại Việt Nam, trên đối tượng bệnh nhân sốt kéo dài chưa rõ nguyên
nhân do những hạn chế khi nuôi cấy vi khuẩn B. pseudomallei từ mẫu bệnh phẩm lâm sàng.
Từ khóa: Burkholderia pseudomallei, ELISA, hcp1 protein, kháng nguyên protein tái tổ hợp, melioidosis, Whitmore.
Chỉ số phân loại: 3.5
*Tác giả liên hệ: Email: tttrung@vnu.edu.vn
2762(9) 9.2020
Khoa học Y - Dược
danh vi khuẩn tự động như Vitek 2 và Phoenix 100 trong
các phòng xét nghiệm vi sinh thường định danh sai vi khuẩn
B. pseudomallei thành những loài vi khuẩn khác [4]. Những
hạn chế của phương pháp xét nghiệm nuôi cấy vi sinh có
thể là nguyên nhân dẫn đến bỏ sót các ca nhiễm melioidosis.
Bên cạnh đó, nghiên cứu trên bệnh nhân melioidosis [5] cho
thấy, số lượng B. pseudomallei trong máu bệnh nhân nhiễm
khuẩn huyết là khá thấp, dao động trong khoảng từ 0,2-7,7
CFU/ml. Điều đó cũng ảnh hưởng đến độ nhạy của phương
pháp xét nghiệm nuôi cấy vi sinh.
Một số kỹ thuật khác cũng đã được sử dụng để phát hiện
trực tiếp căn nguyên B. pseudomallei từ mẫu bệnh phẩm
lâm sàng như kỹ thuật real-time PCR nhưng độ nhạy của
phương pháp đối với mẫu máu thử nghiệm vẫn còn thấp
[6]. Năm 2009, Felgner và cs [7] đã ứng dụng kỹ thuật
microarray sàng lọc được 49 protein kháng nguyên có khả
năng ứng dụng trong chẩn đoán huyết thanh bệnh nhân
nhiễm melioidosis. Gần đây, một số nghiên cứu [8, 9] cũng
đã tiến hành thử nghiệm các protein kháng nguyên trong
chẩn đoán bệnh như 60 kDa molecular chaperone GroEL,
hydroperoxide reductase, và hemolysis co-regulated protein
(hcp1). Trong nghiên cứu này, chúng tôi tiến hành tạo dòng,
biểu hiện, tinh sạch và đánh giá khả năng ứng dụng protein
kháng nguyên tái tổ hợp hcp1 bằng kỹ thuật ELISA để chẩn
đoán bệnh nhân đã được xác định nhiễm melioidosis tại một
số vùng của Việt Nam.
Đối tượng và phương pháp
Mẫu huyết thanh
Từ 2018-2019, chúng tôi đã thu thập 94 mẫu huyết thanh
tại 4 bệnh viện đa khoa tỉnh gồm Bắc Giang, Nghệ An, Hà
Tĩnh và Bình Định. Các mẫu huyết thanh thu được bao gồm
32 mẫu từ nhóm bệnh nhân melioidosis [2], 32 mẫu từ nhóm
bệnh nhân nhiễm khuẩn khác và 30 mẫu từ nhóm người
khỏe mạnh. Huyết thanh của bệnh nhân nhiễm melioidosis
được lấy sau khi có kết quả nuôi cấy vi sinh khẳng định
phân lập được vi khuẩn B. pseudomallei từ mẫu bệnh phẩm
lâm sàng (sau 3 đến 10 ngày nhập viện). Huyết thanh của
bệnh nhân nhiễm khuẩn khác được thu thập sau khi có kết
quả định danh vi khuẩn bằng máy Phoenix hoặc máy Vitek
2 và các vi khuẩn được định danh là Staphylococcus aureus
(n=6), Escherichia coli (n=9), Klebsiella pneumoniae
(n=6), Enterococus spp. (n=2), Acinetobacter spp. (n=1),
Pseudomonas spp. (n=4), Streptococcus spp. (n=3), và
Salmonella spp. (n=1). Tỷ lệ giới tính nam/nữ của nhóm
nhiễm melioidosis là 3,6; nhóm nhiễm khuẩn khác là 3,3;
nhóm khỏe mạnh là 3,3. Độ tuổi trung bình của các nhóm
lần lượt là 55±17, 54±17 và 47±20. Huyết thanh sau khi thu
thập được bảo quản ở -20oC trước khi tiến hành thử nghiệm.
Tạo dòng và biểu hiện protein kháng nguyên hcp1
DNA vi khuẩn được tách chiết từ chủng B. pseudomallei
Evaluation of recombinant hemolysin
co-regulated protein 1 (hcp1) for rapid
diagnosis of melioidosis (Whitmore’s disease)
using ELISA assay
Thi Le Quyen Tran1, Thi Tinh Nguyen1,
Nguyen Hai Linh Bui1, Quoc Tuan Do2, Anh Đao Tran3,
Thi Huyen Pham4, Ho Tinh Trinh5, Anh Tram Que3,
Quang Trung Hoang4, Thanh Trung Trinh1*
1Institute of Microbiology and Biotechnology, Vietnam National
University, Hanoi
2Bac Giang Provincial General Hospital
3Nghe An Provincial General Hospital
4Ha Tinh Provincial General Hospital
5Binh Dinh Provincial General Hospital
Received 8 April 2020; accepted 6 July 2020
Abstract:
Melioidosis (also called Whitmore’s disease) is a fatal
infectious disease caused by a Gram-negative soil-
dwelling bacterium Burkholderia pseudomallei. Due to
the diverse clinical manifestations, final diagnosis of
the disease mostly relies on the examination of bacterial
culture. However, the sensitivity of the culture method
depends on various factors, leading to the misdiagnosis
of the disease in the clinical setting. In this study, the
authors amplified BPSS1498 gene coding hemolysin
co-regulated protein 1 (hcp1), cloned and expressed the
recombinant protein using E. coli BL21(DE3) pLysS.
The recombinant hcp1 protein antigen with 18.7 kDa
was then purified and demonstrated a highly specific
binding with human IgG of the culture-confirmed patient
with melioidosis using Western blot. Hcp1-ELISA was
established and evaluated on 94 sera collected from 32
culture-confirmed patients with melioidosis, 32 patients
infected with other bacteria, and 30 healthy persons.
Using a cut-off value of 0.595, hcp1-ELISA showed a
sensitivity of 93.7% and a specificity of 98.4%. Those
results lead to a potential application of hcp1-ELISA
in the diagnosis of melioidosis in Vietnam, especially
on the diagnosis of the disease in patients with fever
of unknown origin due to the limitation of the routine
culture methods.
Keywords: Burkholderia pseudomallei, ELISA, hcp1
protein, melioidosis, recombinant protein antigen,
Whitmore.
Classification number: 3.5
2862(9) 9.2020
Khoa học Y - Dược
NA23 sử dụng chloroform: isoamyl alcohol. Chủng B.
pseudomallei NA23 được phân lập từ bệnh nhân meliodosis
nam 49 tuổi nhiễm khuẩn huyết kèm viêm phổi tại Nghệ An
năm 2015. Trình tự kiểu gene của chủng vi khuẩn này được
xác định là sequence type (ST) 46 và đã được đăng ký trên
cơ sở dữ liệu multilocus sequence typing (MLST; https://
pubmlst.org/bpseudomallei/). ST 46 là kiểu trình tự gene
thường gặp trong lâm sàng và ngoài môi trường Việt Nam
[3, 10]. Nồng độ và mức độ tinh sạch của DNA được kiểm
tra trên máy NanoDrop 2000 (Thermo Fisher Scientific,
Mỹ).
PCR khuếch đại gene BPSS1498 mã hóa protein hcp1
được thực hiện trong phản ứng có tổng thể tích 25 µl sử dụng
Phusion High-Fidelity DNA Polymerase (Thermo Fisher
Scientific, Mỹ) và cặp mồi đặc hiệu đã được mô tả trong
nghiên cứu của Burtnick và cs (2011) [11] và được thiết kế
phù hợp với trình tự nhận biết của enzyme giới hạn Esp3I.
Chu trình nhiệt được thực hiện trên máy Biometra Trio
(Analytik Jena, Đức) với điều kiện phản ứng PCR là 95°C
trong 30 giây; 35 chu kỳ 95°C trong 10 giây; 61°C trong
30 giây; 72°C trong 45 giây; 72°C trong 5 phút. Sản phẩm
PCR có kích thước 534 bp được kiểm tra bằng phương pháp
điện di trên gel agarose 0,8%, sau đó được tinh sạch bằng kít
GeneJET PCR purification (Thermo Fisher Scientific, Mỹ)
trước khi đưa vào vector pPSG-IBA3 (IBA, Đức) và nhân
dòng bằng chủng Escheriachia coli DH5α.
Plasmid pPSG-IBA3:BPSS1498 từ các dòng E. coli
DH5α màu trắng trên môi trường thạch LB chứa X-gal 20
mg/ml tiếp tục được tách chiết bằng chloroform: isoamyl
alcohol trước khi biến nạp vào vi khuẩn E. coli BL21(DE3)
pLysS. Để biểu hiện protein kháng nguyên tái tổ hợp hcp1,
các dòng vi khuẩn E. coli BL21(DE3) pLysS mang plasmid
pPSG-IBA3:BPSS1498 được nuôi cấy trên 20 ml môi
trường LB lỏng chứa ampicillin 100 μg/ml và 10 μl chất
cảm ứng IPTG 1 M (Thermo Fisher Scientific, Mỹ). Sau 4
giờ nuôi cấy ở 37°C và tốc độ lắc 160 vòng/phút, tế bào vi
khuẩn được thu bằng cách ly tâm 8000 vòng/phút trong 5
phút và được lưu giữ ở -20oC cho các bước thí nghiệm tiếp
theo.
Tinh sạch protein kháng nguyên hcp1
Tế bào vi khuẩn biểu hiện protein tái tổ hợp được hòa
vào đệm W chứa 6 M urea. Sau 3 giờ ủ ở nhiệt độ phòng,
hỗn hợp tế bào được ly tâm ở 8000 vòng/phút trong 30 phút.
Phần huyền phù được tải lên cột Strep-tactin XT (IBA,
Đức). Quy trình rửa và thu hồi protein kháng nguyên tái tổ
hợp hcp1 được thực hiện theo hướng dẫn của nhà sản xuất.
Kỹ thuật SDS-PAGE
Các phân đoạn tải mẫu, rửa cột và thu hồi protein tái
tổ hợp trên cột Strep-tactin XT, cùng thang chuẩn protein
(PageRuler™ Unstained Protein Ladder 10 to 200 kDa,
Thermo Fisher Scientific, Mỹ) được điện di trên gel SDS-
PAGE nồng độ polyacrylamide 15% (Sigma, Mỹ) ở hiệu
điện thế 120 V và thời gian điện di 2 giờ. Bản gel sau khi
điện di được nhuộm với Comassie Brilliant Blue 0,1% (Bio
Basic, Canada) trong 30 phút, sau đó tẩy gel bằng dung dịch
tẩy màu (methanol 40% và acetic acid 10%; Thermo Fisher
Scientific, Mỹ) trong 45 phút và thay dịch tẩy màu sau mỗi
15 phút.
Kỹ thuật western blot
Protein trên gel SDS-PAGE sau điện di được thấm lên
màng polyvinylidene difluoride (PVDF, Thermo Fisher
Scientific, Mỹ) bằng máy chuyển màng (SD10, Cleaver
Scientific, Anh) ở hiệu điện thế 30 V trong 1 giờ. Màng
PVDF sau đó được ngâm với đệm PBS chứa 5% BSA và
0,05% Tween 20, rửa 3 lần với đệm PBS và ủ với kháng
thể dê kháng kháng thể người IgG cộng hợp horseradish
peroxidase (pha loãng trong đệm PBS 1:10000; Abcam,
Mỹ). Sau khi rửa với đệm PBS, màng được ủ với dung dịch
cơ chất TMB (PierceTM 1-Step Ultra TMB, Thermo Fisher
Scientific, Mỹ) đến khi xuất hiện màu phản ứng.
Kỹ thuật ELISA
Protein kháng nguyên tái tổ hợp hcp1 ở các phân đoạn
sạch được trộn đều và định lượng bằng phương pháp
Bradford sử dụng chất chuẩn BSA (Bio Basic, Canada) với
dãy pha loãng 10-80 µg/ml trong đệm PBS. Lượng protein
kháng nguyên tái tổ hợp hcp1 (1 µg/giếng) được gắn lên đĩa
ELISA và ủ ở 4ºC qua đêm. Protein dư thừa được loại bỏ và
rửa 3 lần với đệm PBS chứa 0,05% Tween 20 (Bio Basic,
Canada). Sau khi ủ với đệm PBS chứa 1% BSA, huyết thanh
thử nghiệm pha loãng với đệm PBS ở tỷ lệ 1:4000 được
tra vào các giếng ELISA. Sau khi rửa đĩa 3 lần, mỗi giếng
được bổ sung 100 µl kháng thể dê kháng kháng thể người
IgG cộng hợp horseradish peroxidase (pha loãng trong đệm
PBS 1:10000; Abcam, Mỹ) và ủ ở 37ºC trong 1 giờ. Sau
khi đổ bỏ dịch dư thừa và rửa đĩa 3 lần, các giếng tiếp tục
được ủ 30 phút trong tối ở nhiệt độ phòng với 100 µl dung
dịch cơ chất OPD (100 ml dung dịch O-phenylenediamine
dihydrochloride 0,016% (Sigma, Mỹ) chứa 16 µl H
2
O
2
30%
(Merck, Đức)). Phản ứng enzyme-cơ chất được dừng bằng
50 µl dung dịch H
2
SO
4
2 M (Merck, Đức). Cường độ màu
tạo thành được đo ở bước sóng 490 nm trên máy 800 TS
Microplate Reader (BioTek, Mỹ).
Kết quả
PCR gene BPSS1498 mã hóa protein hcp1
DNA khuôn của chủng vi khuẩn B. pseudomallei NA23
được sử dụng để khuếch đại gene BPSS1498 với cặp mồi
2962(9) 9.2020
Khoa học Y - Dược
được thiết kế để đảm bảo phản ứng PCR nhân đặc hiệu gene
đích và có trình tự để enzyme giới hạn Esp3I nhận diện.
Sản phẩm PCR có kích thước 534 bp (bao gồm 507 bp gene
hcp1 và phần dư 27 bp tại 2 đầu 5’ của primers để enzyme
giới hạn nhận diện) được trình bày tại hình 1A.
Tạo dòng và lựa chọn chủng biểu hiện protein kháng
nguyên hcp1
Sản phẩm PCR gene BPSS1498 được tinh sạch và xử lý
với enzyme giới hạn Esp3I. Sau khi gắn vào vector pPSG-
IBA3, plasmid được biến nạp vào tế bào E. coli DH5α. Các
khuẩn lạc E. coli DH5α mang plasmid pPSG-IBA3 chứa gene
BPSS1498 có màu trắng trên môi trường LB có X-gal được
lựa chọn (hình 1B). E. coli DH5α/pPSG-IBA3::BPSS1498
tiếp tục được nuôi cấy trên môi trường LB dịch thể có bổ
sung ampicillin nhằm phục vụ cho việc tách chiết plasmid
pPSG-IBA3:BPSS1498 (hình 2A) và biến nạp vào dòng tế
bào biểu hiện E. coli BL21(DE3) pLysS.
Hình 1. Kết quả PCR và tạo dòng. (A) Giếng 1 là đối chứng âm,
giếng 2 là sản phẩm PCR gene BPSS1498 khuếch đại từ DNA khuôn
của chủng B. pseudomallei NA23. (B) Tạo dòng vi khuẩn E. coli DH5α
màu trắng mang plasmid pPSG-IBA3 chứa gene BPSS1498. (C) Kết
quả PCR gene BPSS1498 khuếch đại trực tiếp từ các khuẩn lạc E.
coli DH5α màu trắng.
Hình 2. Kết quả tách plasmid pPSG-IBA3::BPSS1498 (A), biểu
hiện protein hcp1 sử dụng E. coli BL21(DE3) pLysS (B), tinh sạch
protein hcp1 (C) và chạy western blot protein hcp1 với huyết
thanh bệnh nhân nhiễm melioidosis (D).
Chẩn đoán melioidosis bằng kỹ thuật hcp1-ELISA
ELISA được triển khai trên các mẫu huyết thanh thử
nghiệm. Giá trị trung bình OD
490
của nhóm bệnh nhân
melioidosis là 2,249±1,038 (dao động từ 0,363-3,414), của
nhóm bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết khác là 0,283±0,106
(dao động từ 0,142-0,550), của nhóm người khỏe mạnh là
0,286±0,117 (dao động từ 0,157-0,595). Cường độ OD
490
của nhóm bệnh nhân melioidosis cao hơn cường độ OD
490
của nhóm bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết khác và nhóm
người khỏe mạnh lần lượt là 7,94 và 7,86. Phân tích thống
kê cho thấy, giá trị OD
490
của nhóm bệnh nhân melioidosis
cao hơn có ý nghĩa thống kê so với giá trị OD
490
của nhóm
bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết khác và nhóm người khỏe
mạnh (p<0,001); giá trị OD
490
của nhóm bệnh nhân nhiễm
khuẩn huyết khác và nhóm người khỏe mạnh là tương
đương nhau (p>0,05) (hình 3A). Nếu lấy OD
490
cao nhất
trong nhóm bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết khác và nhóm
người khỏe mạnh làm giá trị cut-off (OD
490
=0,595) thì chỉ
có 2 trên tổng số 32 bệnh nhân melioidosis bị chẩn đoán
nhầm (âm tính giả), 1 trên tổng số 62 người nhiễm khuẩn
huyết khác và người khỏe mạnh bị chẩn đoán nhầm (dương
tính giả). Vì vậy, phương pháp hcp1-ELISA có độ nhạy là
93,7% và độ đặc hiệu là 98,4%.
ME NKK KM
0.0
0.5
1.0
1.5
2.0
2.5
3.0
3.5
4.0 ***
nsO
D
4
9
0
Hình 3. Đồ thị kết quả hcp1-ELISA (A) và hình ảnh đĩa hcp1-ELISA
(B). Nhóm bệnh nhân melioidosis (ME), nhóm bệnh nhân nhiễm khuẩn
huyết khác (NKK) và nhóm người khỏe mạnh (KM).
Bàn luận
Melioidosis là bệnh truyền nhiễm phổ biến ở khu vực
Đông Nam Á và vùng phía Bắc Australia. Tại Việt Nam,
ca bệnh đầu tiên được phát hiện và mô tả năm 1925, sau
đó, hàng trăm ca bệnh đã được phát hiện và công bố trên
binh lính Pháp và Mỹ tham chiến tại Việt Nam. Năm 1969,
melioidosis được liệt kê là 1 trong 6 bệnh truyền nhiễm gây
tử vong cao mà binh lính Mỹ thường mắc phải trong chiến
tranh Việt Nam [12]. Tuy nhiên, sau ngày miền Nam giải
phóng, bệnh đã hoàn toàn bị lãng quên. Trong thời gian
qua, nhóm nghiên cứu của chúng tôi đã tiên phong hướng
dẫn nhiều bệnh viện tuyến tỉnh phương pháp nuôi cấy xét
nghiệm vi khuẩn B. pseudomallei trong mẫu bệnh phẩm lâm
sàng. Chỉ trong thời gian ngắn, hàng trăm ca melioidosis đã
được phát hiện [2, 12] Theo dự báo, mỗi năm ở Việt Nam
có khoảng 10430 ca nhiễm melioidosis và con số tử vong
khoảng 4703 ca [13]. Tuy nhiên, số lượng ca bệnh phát hiện
ở nước ta đang thấp hơn rất nhiều so với các nước láng
giềng và so với con số dự đoán của các chuyên gia quốc
tế. Số lượng thấp đó có thể do sự hạn chế về độ nhạy của
3062(9) 9.2020
Khoa học Y - Dược
phương pháp xét nghiệm nuôi cấy vi sinh dẫn đến bỏ sót ca
bệnh. Trong nghiên cứu này, chúng tôi phát triển kỹ thuật
chẩn đoán ELISA sử dụng protein hcp1 nhằm bổ sung thêm
các phương pháp xét nghiệm melioidosis tại Việt Nam.
Genome của B. pseudomallei mã hóa hệ thống tiết loại
6 (type VI secretion systems; T6SSs), trong đó hcp proteins
là những thành phần của hệ thống tiết loại 6 nằm trên bề
mặt tế bào và thường tìm thấy trong dịch nuôi cấy vi khuẩn
có hệ thống tiết này. Trong số 6 loại hcp thử nghiệm, chỉ
duy nhất hcp1 có phản ứng với kháng thể của bệnh nhân
nhiễm melioidosis khi thử bằng phương pháp western blot.
Kết quả đó minh chứng hcp1 có khả năng biểu hiện in
vivo và có khả năng kích thích tạo đáp ứng miễn dịch. Tuy
nhiên, hcp1 không biểu hiện in vitro khi nuôi cấy vi khuẩn
trong môi trường dịch thể LB [11]. Điều đặc biệt là bệnh
nhân nhiễm melioidosis không có kháng thể kháng các hcp
proteins từ 2 tới 6. Hcp1 có khả năng tạo đáp ứng miễn dịch
để bảo vệ 50% chuột khi tiêm ở liều thử thách gấp 50 lần
so với liều gây chết. Tuy nhiên, hcp proteins không được
khuyến cáo cho chế tạo vaccine vì tính bảo vệ chuột tránh
bệnh và tỷ lệ chuột chết là rất thấp khi lặp lại thử nghiệm.
Vì vậy, nghiên cứu đã đề xuất hcp1 có thể ứng dụng trong
chẩn đoán huyết thanh học [11]. Phân tích transcriptome
cũng chỉ ra rằng, hcp1 biểu hiện mạnh trong quá trình
xâm nhiễm đại thực bào U937 so với các gene khác trong
hệ thống tiết loại 6 và cũng là protein duy nhất trong số
3 protein tái tổ hợp từ các gene BPSS0529, BPSS1498 và
BPSS1499 lựa chọn có phản ứng dương tính với kháng
thể của bệnh nhân melioidosis bằng kỹ thuật ELISA và
western blot [14]. Nghiên cứu đánh giá phương pháp
ELISA sử dụng các kháng nguyên O-polysaccharide (OPS),
6-deoxyheptancapsularpolysaccharide (CPS), whole-cell
(WC) và culture filtrate (CF) trên huyết thanh của bệnh nhân
Thái Lan nhiễm melioidosis thấy rằng, OPS-ELISA cho
kết quả xét nghiệm tốt nhất [15]. Khi so sánh OPS-ELISA
với hcp1-ELISA, Pumpuang và cs [9] đã kiểm chứng trên
141 mẫu huyết thanh thu thập ngay lúc bệnh nhân nhiễm
melioidosis nhập viện, 188 người Thái Lan khỏe mạnh,
90 người Mỹ khỏe mạnh, 20 bệnh nhân lao phổi, 50 bệnh
nhân sốt mò và 50 bệnh nhân nhiễm leptospirosis. Sử dụng
giá trị cut-off tương ứng với độ đặc hiệu 95% thì độ nhạy
của phương pháp ELISA hcp1 là 83%. Độ nhạy và độ đặc
hiệu này tốt hơn so với phương pháp OPS-ELISA. Kết quả
nghiên cứu của chúng tôi sử dụng huyết thanh của người
Việt Nam hoàn toàn tương đồng với các nghiên cứu trước
đó. Kết quả minh chứng phương pháp hcp1-ELISA có độ
nhạy và độ đặc hiệu rất cao, lần lượt là 93,7 và 98,4%.
Nghiên cứu theo dõi độ nhạy của phương pháp hcp1-
ELISA tại các tuần 0, tuần 12 và tuần 52 cho thấy, độ nhạy
lần lượt là 81,5 (163/200), 82,3 (93/113) và 81,8% (90/110).
So sánh hiệu giá kháng thể kháng hcp1 tại tuần 0 và tuần 12
không khác nhau nhiều nhưng có sự giảm đáng kể hiệu giá
kháng thể ở tuần thứ 52 [9]. Điều đó cho thấy, hcp1-ELISA
có khả năng chẩn đoán phân biệt người đã từng phơi nhiễm
và người mới phơi nhiễm với vi khuẩn B. pseudomallei. Kết
quả đó minh chứng tiềm năng sử dụng hcp1-ELISA như
một phương pháp mới trong chẩn đoán huyết thanh bệnh
nhân nhiễm melioidosis tại Việt Nam, đặc biệt ứng dụng
trong chẩn đoán sàng lọc bệnh nhân nhiễm melioidosis trên
các đối tượng bệnh nhân sốt kéo dài chưa rõ nguyên nhân,
do sự hạn chế về độ nhạy của phương pháp xét nghiệm nuôi
cấy vi sinh.
Kết luận
Gene BPSS1498 mã hóa protein hcp1 được phân lập, tạo
dòng và biểu hiện bằng tế bào E. coli BL21(DE3) pLysS.
Phương pháp hcp1-ELISA được triển khai đánh giá trên 94
mẫu huyết thanh (32 mẫu từ nhóm bệnh nhân melioidosis,
32 mẫu từ nhóm bệnh nhân nhiễm khuẩn khác và 30 mẫu
từ nhóm người khỏe mạnh). Sử dụng giá trị cut-off là
0,595, phương pháp hcp1-ELISA đạt độ nhạy là 93,7% và
độ đặc hiệu là 98,4%. Kết quả đạt được tương đồng với
nhiều nghiên cứu trước đó trên thế giới. Phương pháp hcp1-
ELISA được đề xuất ứng dụng trong chẩn đoán sàng lọc
bệnh nhân nhiễm melioidosis tại Việt Nam, đặc biệt trên đối
tượng bệnh nhân sốt kéo dài chưa rõ nguyên nhân do sự hạn
chế của phương pháp xét nghiệm nuôi cấy vi sinh.
LỜI CẢM ƠN
Nghiên cứu này được thực hiện từ nhiệm vụ Quỹ gene
“Nghiên cứu khai thác nguồn gene vi khuẩn Burkholderia
pseudomallei và đánh giá đặc tính sinh học nhằm nâng cao
hiệu quả chẩn đoán, dự phòng và điều trị” (mã số NVQG-
2018/08) do Bộ Khoa học và Công nghệ tài trợ. Các tác giả
xin trân trọng cảm ơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] W.J. Wiersinga, B.J. Currie, S.J. Peacock (2012), “Melioidosis”,
N. Engl. J. Med., 367(11), pp.1035-1044.
[2] T.T. Trinh, et al. (2018), “A simple laboratory algorithm for
diagnosis of melioidosis in resource-constrained areas: a study from
north-central Vietnam”, Clin. Microbiol. Infect., 24(1), pp.84 e1-84
e4.
[3] D.M. Phuong, et al. (2008), “Clinical and microbiological
features of melioidosis in northern Vietnam”, Trans. R. Soc. Trop.
Med. Hyg., 102, Suppl. 1, pp.S30-S36.
[4] A.R. Hoffmaster, et al. (2015), “Melioidosis diagnostic
workshop, 2013”. Emerg. Infect. Dis., 21(2), DOI: 10.3201/
eid2102.141045.
3162(9) 9.2020
Khoa học Y - Dược
[5] V. Wuthiekanun, et al. (2007), “Quantitation of B. pseudomallei
in clinical samples”, Am. J. Trop. Med. Hyg., 77(5), pp.812-813.
[6] E.M. Meumann, et al. (2009), “Clinical evaluation of a type III
secretion system real-time PCR assay for diagnosing melioidosis”, J.
Clin. Microbiol., 44(8), pp.3028-3030.
[7] P.L. Felgner, et al. (2009), “A Burkholderia pseudomallei
protein microarray reveals serodiagnostic and cross-reactive
antigens”, Proc. Natl. Acad. Sci. USA, 106(32), pp.13499-13504.
[8] C. Kohler, et al. (2016), “Rapid and sensitive multiplex
detection of Burkholderia pseudomallei - specific antibodies in
melioidosis patients based on a protein microarray approach”, PLOS
Negl. Trop. Dis., 10(7), DOI: 10.1371/journal.pntd.0004847.
[9] A. Pumpuang, et al. (2017), “Comparison of O-polysaccharide
and hemolysin co-regulated protein as target antigens for serodiagnosis
of melioidosis”, PLOS Negl. Trop. Dis., 11(3), DOI: 10.1371/journal.
pntd.0005499.
[10] T.T. Trinh, et al. (2019), “Erythritol as a single carbon source
improves cultural isolation of Burkholderia pseudomallei from rice
paddy soils”, PLOS Negl. Trop. Dis., 13(10), DOI: 10.1371/journal.
pntd.0007821.
[11] M.N. Burtnick, et al. (2011), “The cluster 1 type VI
secretion system is a major virulence determinant in Burkholderia
pseudomallei”, Infect. Immun., 79(4), pp.1512-1525.
[12] T.T. Trinh, et al. (2018), “Melioidosis in Vietnam: recently
improved recognition but still an uncertain disease burden after
almost a century of reporting”, Trop. Med. Infect. Dis., 3(2), DOI:
10.3390/tropicalmed3020039.
[13] D. Limmathurotsakul, et al. (2016), “Predicted global
distribution of Burkholderia pseudomallei and burden of melioidosis”,
Nat. Microbiol., 1(1), DOI: 10.1038/nmicrobiol.2015.8.
[14] S. Chieng, R. Mohamed, S. Nathan (2015), “Transcriptome
analysis of Burkholderia pseudomallei T6SS identifies Hcp1 as a
potential serodiagnostic marker”, Microb. Pathog., 79, pp.47-56.
[15] V. Suttisunhakul, et al. (2016), “Development of rapid
enzyme-linked immunosorbent assays for detection of antibodies
to Burkholderia pseudomallei”, J. Clin. Microbiol., 54(5), pp.1259-
1268.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
danh_gia_khang_nguyen_tai_to_hop_hemolysin_co_regulated_prot.pdf