Đánh giá mối liên quan giữa nhiễm vi khuẩn Helicobacter Pylori với biểu hiện mày đay mạn tính trên bệnh nhân

Phù mạch không có liên quan có ý nghĩa với nhiễm trùng H. pylori (nồng độ kháng thể IgG và IgM không có liêu quan với tình trạng phù mạch). Các triệu chứng rối loạn tiêu hóa không có ý nghĩa với tình trạng nhiễm H. pylori ở nghiên cứu này. Tương tự, giới tính không ảnh hưởng lên nồng độ kháng thể IgM và IgG trên các bệnh nhân nhiễm H. pylori. Nếu nhiễm H. pylori được điều tra bằng các phương pháp khác như phát hiện kháng nguyên trong phân, test hơi thở, hoặc kháng thể anti‐Lpp20 của H. pylori thì có thể nhiễm H. pylori sẽ cao hơn. Người ta khuyến cáo cần có thêm các nghiên cứu cỡ mẫu lớn hơn, tại đa trung tâm sẽ làm sáng tỏ và khẳng định thêm giữa sự nhiễm H. pylori với tình trạng MĐMT, đồng thời đưa ra khuyến cáo sàng lọc kiểm tra nhiễm vi khuẩn H. pylori trên các đối tượng có MĐMT hay không vì điều này quan trọng liên quan đến kinh tế trong y tế.

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 28/01/2022 | Lượt xem: 42 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá mối liên quan giữa nhiễm vi khuẩn Helicobacter Pylori với biểu hiện mày đay mạn tính trên bệnh nhân, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng  241 ĐÁNH GIÁ MỐI LIÊN QUAN GIỮA NHIỄM VI KHUẨN   HELICOBACTER PYLORI VỚI BIỂU HIỆN MÀY ĐAY MẠN TÍNH   TRÊN BỆNH NHÂN  Huỳnh Hồng Quang*, Nguyễn Văn Chương*  TÓM TẮT  Đặt vấn đề: Mày đay là một trong những triệu chứng phổ biến của bệnh lý da gây ra bởi nhiều tác nhân, kể  cả vi khuẩn. Khoảng 50% dân số thế giới bị nhiễm loại vi khuẩn Helicobacter pylori như một vi khuẩn nhiễm  trùng phổ biến ở người. H. pylori gây nên một loạt các bệnh lý ngoài đường tiêu hóa. Rối loạn da là một ví dụ  qua một  số nghiên  cứu  trước  đây  có  liên quan  đến mày  đay mạn  tính  (MĐMT),  trứng  cá  đỏ, vẩy nến, hội  chứngSjögren, ban xuất huyết Henoch‐Schönlein, xơ hóa hệ thống, viêm da cơ địa, bệnh Behcet, Liken phẳng.   Phương pháp nghiên cứu: Với thiết kế nghiên cứu bệnh chứng nhằm mục tiêu xác định mối liên quan giữa  vi khuẩn H. pylori với MĐMT.   Kết quả: Số liệu chỉ ra trên nhóm bệnh nhân mày đay đơn thuần, kháng thể H.p IgG, H.p IgM và H.p (IgM  + IgG) dương tính lần lượt là 72,1%, 46,5% và 44,8%. Trên nhóm mày đay kèm phù mạch: kháng thể H.p IgG,  H.p IgM và H.p (IgG + IgM) dương tính lần lượt 90%, 60% và 60%. Trên nhóm chứng khỏe mạnh: kháng thể  H.p IgG, H.p IgM và H.p (IgG + IgM) dương tính lần lượt 37,5%, 40% và 27,5%. Các kháng thể H.p IgG và  H.p (IgG + IgM) song hành trên các bệnh nhân mày đay, sự khác biệt so với nhóm chứng, đặc biệt sau khi điều trị  bằng liệu pháp bộ ba diệt khuẩn đã cải thiện các triệu chứng lâm sàng mày đay và rối loạn da khác và chất lượng  cuộc sống.   Kết luận: Có một mối liên quan mạnh giữa MĐMT với nhiễm khuẩn H. pylori và việc tiêu diệt H. pylori có  kết quả tốt trong nghiên cứu này.  Từ khóa: Helicobacter pylori, mày đay mạn tính, anti‐H.pylori.  ABSTRACT  EVALUATING OF ASSOCIATION BETWEEN HELICOBACTER PYLORI INFECTION   AND CHRONIC URTICARIA   Huynh Hong Quang, Nguyen Van Chuong  * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 241  Background: Urticaria is one of the most common clinically diagnosed dermatologic diseases caused by a  variety of agents, including bacteria. About half of the worldʹs population has Helicobacter pylori bacteria making  it  the  most  common  bacterial  infection  in  humans.  H.  pylori  have  been  isolated  in  a  variety  of  extra‐ gastrointestinal diseases. The skin disorders is an example of several studies regarding the following conditions  chronic  urticaria,  rosacea,  psoriasis,  Sjögren  syndrome, Henoch‐Schönlein  purpura,  systemic  sclerosis,  atopic  dermatitis, Behcet disease, lichen planus.  Methods: A case‐control study was conducted to confirm the association between H. pylori  infection and  chronic urticaria.   Results: Among the urticaria alone patients, positive Hp IgG, Hp IgM and Hp (IgM plus IgG) antibodies  were 72.1%, 46.5% and 44.8%, respectively. In chronic and angioedema group: positive Hp IgG, Hp IgM and  * Viện Sốt rét KST‐CT Quy Nhơn  Tác giả liên lạc: Ts. Huỳnh Hồng Quang  ĐT: 0905103496  Email: huynhquangimpe@yahoo.com  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 242  Hp (IgG plus IgM) antibodies were 90%, 60% and 60%, respectively. In control group: positive Hp IgG, HpIgM  and Hp (IgG plus IgM) antibodies were 37.5%, 40% and 27.5%, respectively. There was a significant association  between HpIgG  and Hp  (IgG plus  IgM)  antibodies  and urticaria/ angioedema patients. After  treatment with  triple therapy, patient’s quality of life and clinical urticaria and other skin disorders was improved.   Conclusion: The association between chronic urticaria with H. pylori infection and elimination of H. pylori  was found. The triple therapy (in 21 days) was used in this study improved patient’s quality of life.  Key words: Helicobacter pylori, chronic urticaria, anti‐H. pylori.  ĐẶT VẤN ĐỀ  Trong  những  năm  gần  đây,  nhiều  nhà  nghiên cứu tập  trung nghiên cứu đánh giá mối  liên  quan  giữa  vi  khuẩn  Helicobacter  pylori  (H.  pylori) với bệnh lý MĐMT. Nhiễm trùng H. pylori  là một  nguyên  nhân  quan  trọng  nhất  gây  nên  bệnh  lý  loét tiêu hóa và mô hình  liên quan đến  mày đay với nhiễm  loài  tác nhân này  là có  thể  đưa ra(1,3). Nhiều nghiên cứu vì thế đã tiến hành  tìm hiểu mối  liên quan giữa H. pylori và nhiều  bệnh lý mạn tính khác như mày đay, chậm phát  triển trẻ em, u lympho ở dạ dày và một số ung  thư  trên cơ quan  tiêu hóa(7). Một số nghiên cứu  đã  chứng minh  được  cơ  chế miễn dịch dị  ứng  liên quan đến bệnh  lý MĐMT và  loét  tiêu hóa.  Trên  nhiều  ca  bệnh, mày  đay  và  phản  ứng dị  ứng có  thể do nhiễm  trùng H. pylori và điều  trị  thích hợp nhiễm trùng H. pylori có thể khống chế  tình trạng mạn tính mày đay này. Trong nghiên  cứu này, chúng tôi xác định tỷ lệ các kháng thể  chống  lại H.  pylori bằng  kỹ  thuật  huyết  thanh  học trên các nhóm bệnh nhân MĐMT và người  khỏe mạnh và so sánh với các số liệu nghiên cứu  khác về mối liên quan giữa nhiễm trùng H. pylori  với MĐMT.   ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP  Địa điểm và thời gian  Tại Viện  sốt  rét KST‐CT Quy Nhơn, Trung  tâm Chẩn đoán y khoa Hòa Hảo.  Thời gian từ tháng 3/2013 – 3/2014.  Thiết kế nghiên cứu  Thiết kế là một nghiên cứu bệnh ‐ chứng.  Cỡ mẫu  Nhóm  nghiên  cứu  gồm  80  bệnh  nhân  bị  MĐMT  và  80  ca  đối  chứng  ghép  cặp  giới  và  tuổi, cùng với 20 ca mày đay có phù mạch kèm  theo nhằm đánh giá mối liên quan thuyết phục  hơn  (cỡ mẫu này  thu  thập dựa vào điều kiện  thuận lợi của cơ sở điều trị phòng khám Viện).  Đối tượng nghiên cứu  Các bệnh nhân tuổi từ 15 trở lên.  Bệnh nhân  có MĐMT  (có  triệu  chứng mày  đay kéo dài  từ 6  tuần  trở  lên)  được chẩn  đoán  xác  định bởi  các bác  sĩ ký  sinh  trùng và nhóm  chứng gồm các đối tượng khỏe mạnh đi kiểm tra  sức khỏe, xét nghiệm sàng  lọc (nhóm chứng và  bệnh đều đến khám tại Viện).  Xét  nghiệm  huyết  thanh  có  vi  khuẩn  H.  pylori dương tính nhưng không kèm theo nhiễm  các  loại  giun  sán  sau:  Strongyloides  stercoralis,  Gnathostoma  spinigerum,  Cysticercus  cellulose,  Fasciola gigantica, Toxocara spp.  Một bảng câu hỏi được hoàn chỉnh bởi cả các  đối tượng điều tra hai nhóm gồm 6 phần và 20  câu hỏi mở và đóng.   Thu thập mẫu và phân tích  Các mẫu huyết thanh được thu và phân tích  về nồng độ IgG và IgM anti‐H. pylori (H.p test‐ IgG và H.p test‐IgM).  Số  liệu  thống kê được phân  tích bằng phần  mềm Excel.  KẾT QUẢ  Đặc  điểm  chung về nhóm bệnh nhân nghiên  cứu  Trên  những  bệnh  nhân MĐMT,  tuổi  thấp  nhất  là 15 và cao nhất  là 76 tuổi, số nam và nữ  trong  mỗi  nhóm  là  tương  đương.  Tỷ  lệ  có  MĐMT cao nhất  là nhóm  tuổi  từ 25  ‐ 45  (79%).  Tỷ lệ cao nhất về nhóm tuổi biểu hiện [MĐMT +  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng  243 phù mạch] cao nhất là khoảng dưới 30 ‐ 40 tuổi  (36%). Thời gian mắc bệnh MĐMT trung bình từ  12 tuần tháng đến 48 tháng hay 1 ‐ 4 năm, nhiều  bệnh  lý da khác nhau nhưng có chung điểm  là  MĐMT. Phân tích về giới, trong số các đối tượng  tham gia nghiên cứu (bệnh nhân và nhóm chứng  khỏe mạnh), có 32 nam có kháng thể IgM và IgG  âm tính (19,3%), 20 ca có kháng thể IgG dương  tính nhưng IgM âm tính (12%), 8 ca có kháng thể  IgM  (+) nhưng  IgG âm  tính  (4,8%) và 34  ca  có  [IgM + IgG] đồng thời dương tính (20,5%). Trong  số bệnh nhân nữ, 30 ca (18,1%) có kháng thể [IgG  +  IgM]  âm  tính,  10  ca  có  IgM  âm  tính  và  IgG  dương  tính  (6%),  2  ca  có  IgG  âm  tính  và  IgM  dương  tính  (2,1%),  30  ca  (18,1%)  có  kháng  thể  [IgM +  IgG]  đồng  thời dương  tính. Số  liệu  cho  thấy không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê  giữa giới tính và nồng độ kháng thể IgM và IgG  trong huyết thanh.  Mối liên quan giữa các kháng thể anti‐H. pylori  với MĐMT  Số  liệu kết quả  cho  thấy  kháng  thể  anti‐H.  pylori IgG, IgM và IgG + IgM dương tính trên ba  nhóm (86 bệnh nhân MĐMT, 20 bệnh nhân mày  đay kèm phù mạch và 80 ca chứng).  Bảng 1. Tỷ lệ các kháng thể chống H. pylori dương tính trên ba nhóm đối tượng  Nhóm bệnh nhân/ nhóm chứng Loại kháng thể phát hiện dương tính /huyết thanh IgG (+)n (%) IgM (+)n (%) IgG với IgM (+)n (%) Nhóm có mày đay mạn tính (n = 86) 62 (72,1) 40 (46,5) 38 (44,2) Nhóm có mày đay + phù mạch (n = 20) 12 (60) 18 (90) 12 (60) Nhóm chứng (khỏe mạnh đi kiểm tra sức khỏe) (n = 80) 32 (40) 30 (37,5) 22 (27,5) Trên 86 ca MĐMT, tỷ lệ IgG, IgM và [IgG +  IgM]  dương  lần  lượt  72,1%,  45,6%  và  44,2%.  Trên 20  ca phù mạch kèm mày  đay,  tỷ  lệ  IgG,  IgM  và  [IgG  +  IgM]  (+)  lần  lượt  60%,  (90%  và  60%. Trên 80 ca chứng, tỷ lệ IgG, IgM và [IgG +  IgM] (+) lần lượt 40%, 37,5% và 27,5%.  Bảng 2. Đánh giá tác động liệu pháp bộ ba diệt H. pylori lên việc cải thiện MĐMT  Sử dụng liệu pháp điều trị Số bệnh nhân Mức độ đáp ứng với liệu pháp điều trị Giảm toàn bộ Giảm một phần Đáp ứng chung Không giảm Liệu pháp lần 1 80 40 32 72 (90%) 8 Liệu pháp lần 2 12 1 4 6 6 Nhiễm trùng tồn tại 4 0 0 0 4 Các bệnh nhân có mày đay có huyết  thanh  dương  tính/ hoặc âm  tính với kháng  thể chống  H.  pylori,  điều  trị  bằng  liệu  pháp  gồm  clarithromycine,  lanzoprazole  và  tinidazole  đã  cho thấy 40 ca (50%) giảm triệu chứng mày đay  hoàn  toàn  và  32  ca  có  giảm  một  phần  triệu  chứng,  điều  này  cho  thấy  đáp  ứng  giảm  dấu  mày đay trên lâm sàng lên đến 90%.   Bảng 3. Đánh giá về mặt đáp ứng điều trị ‐ thay đổi chất lượng cuộc sống (QoL questionaire)  Nhóm đối tượng được can thiệp Đánh giá chỉ số chất lượng cuộc sống trên nhóm điều trị Trước điều trị Sau điều trị Thay đổi QoL Giá trị p Mày đay mạn tính có H. pylori (+) 70,24 ± 12,32 41,12 ± 10,21 32,98 ± 12,16 0,001 Mày đay mạn tính có H. pylori (-) 68,47 ± 10,32 55,54 ± 15,21 10,24 ± 9,27 0,62 Dựa  vào  đánh  giá  chất  lượng  cuộc  sống  trước và sau điều trị cho thấy nhóm có mày đay  (± phù mạch) có H. pylori cho đáp ứng và  thay  đổi chất lượng cuộc sống tốt hơn nhóm có triệu  chứng nhưng không có mặt vi khuẩn H. pylori.   BÀN LUẬN  H. pylori là một loại vi khuẩn được tìm thấy  trong dạ dày và  chịu  trách nhiệm  cho hầu hết  các trường hợp loét tiêu hóa. Khoảng 50% dân số  toàn cầu nhiễm vi khuẩn này, điều đó khiến cho  vi  khuẩn  này  rất  phổ  biến  đối  với  con  người.  Nguy cơ nhiễm vi khuẩn H. pylori có  liên quan  đến tình trạng kinh tế và các điều kiện sống chưa  đảm bảo và đặc biệt trẻ em dưới 10 tuổi cũng có  nguy cơ nhiễm. Con đường nhiễm chính xác đến  nay vẫn chưa rõ ràng, song lây truyền từ người  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 244  sang người thông qua con đường miệng – miệng  hay phân miệng  là phổ biến nhất. Điều này có  nghĩa các hoạt động như chia sẻ thức ăn, vệ sinh  đại tiện kém có thể dẫn đến nhiễm H. pylori sang  cá nhân khác. Điểm quan trọng của nhiễm trùng  H. pylori không chỉ đưa đến bệnh lý đường tiêu  hóa, mà còn dẫn đến bệnh  lý da niêm, ung thư  cơ  quan  tiêu  hóa  và  u  dạng  lympho  (MALT_Mucosa  associated  lymphoid  tissue)(3,5,6,8). Việc nhiễm  trùng H. pylori  liên  đới  đến  rối  loạn da, cụ  thể  là mày đay cấp và phù  mạch  hoặc MĐMT. Với  ý  tưởng  xác  định mối  liên  quan  này,  điều  tra  với  86  bệnh  nhân  bị  MĐMT, có 62 (72,1%) ca có IgG (+), 40 ca (46,5%)  có  IgM  (+)  và  38  ca  (44,2%)  đồng  thời  có  [IgG+IgM]  dương  tính.  Ngược  lại,  trên  nhóm  chứng, có 32 ca có IgG dương  tính (40%), 30 ca  có  IgM dương  tính  (37,5%) và  22  ca  có dương  tính đồng thời [IgG+IgM] (27,5%). Kết quả tổng  thể chỉ ra có mối liên quan có ý nghĩa với MĐMT  và nồng độ kháng thể IgG và cả [IgG+IgM] đồng  thời. Điều này  chỉ  ra vai  trò vi khuẩn H. pylori  liên quan đến các triệu chứng MĐMT là có thể.   Đồng  thời  số  liệu  tổng  thể  của nghiên  cứu  phù  hợp  với  các  nghiên  cứu  khác  trước  đây.  Garza Yado Mde và cộng sự (2011) đã phát hiện  trên 30 ca MĐMT, tỷ lệ kháng thể IgG (+) chống  lại H. pylori  là  60% và  trong  số  đó  IgA, kháng  nguyên H.  pylori  trong  phân  và  phân  tích mô  bệnh học  lần  lượt dương  tính  là 33,3%, 60% và  83%. Các tác giả kết luận rằng nhiễm H. pylori có  liên quan ý nghĩa với MĐMT. Hoặc một  số  ca  nhiễm H.  pylori  gây mày  đay  sau  khi  điều  trị  bằng thuốc bộ ba diệt vi khuẩn này đã kiểm soát  tốt tình trạng MĐMT trên lâm sàng(7,9)..  Trong  số  106  bệnh  nhân  có  tình  trạng  MĐMT  tự phát  (có/ không kèm  theo  tình  trạng  phù mạch)  có kết quả huyết  thanh  (+) hoặc  (‐)  với  các  kháng  thể  chống  H.  pylori  đưa  vào  nghiên cứu, song chỉ có 80 ca được điều trị bằng  liệu  pháp  bộ  ba  (Zarnizo‐kít  gồm  clarithromycine,  lanzoprazole  và  tinidazole)  dùng đủ liều thuốc liệu trình 21 ngày(2) vì một số  ca  khác  không  dung  nạp  thuốc  do  tác  dụng  ngoại  ý  của một  trong  các  thành phần  của  kit  thuốc bệnh nhân phải gián đoạn thuốc. Kết quả  cho  thấy  50%  giảm  triệu  chứng MĐMT  hoàn  toàn  và  32  ca  có  giảm một  phần  triệu  chứng  MĐMT, điều này cho  thấy đáp ứng giảm  triệu  chứng mày đay trên lâm sàng lên đến  90% và  khi dùng  đến  lần  2  của  liệu pháp  đã  cho  thấy  thêm một số ca nữa giảm triệu chứng. Số ca còn  tồn tại không giảm rất thấp.   Dựa vào bảng  câu hỏi  để đánh giá về  chất  lượng  cuộc  sống  (QoL  questionaire)  trên  các  bệnh  nhân  đánh  giá  trước  và  sau  điều  trị  liệu  pháp  bộ  ba  Zarnizo‐kít  đã  cho  thấy:  đối  với  nhóm có triệu chứng mày đay (± phù mạch) xét  nghiệm  có  vi  khuẩn H. pylori  cho  đáp  ứng  và  thay đổi chất lượng cuộc sống tốt hơn nhóm có  triệu  chứng  nhưng  không  có mặt  vi  khuẩn H.  pylori, điều này cho thấy vai trò của H. pylori sau  khi bị  tiêu diệt  đã mất  đi  triệu  chứng MĐMT,  hay nói cách khác  là vi khuẩn này có  liên quan  đến việc gây ra các triệu chứng mày đay và phù  mạch trên bệnh nhân MĐMT ở nghiên cứu này.   Nhiều ấn bản đã cho thấy vai trò của nhiễm  vi khuẩn H. pylori gây nên các triệu chứng bệnh  ngoài đường  tiêu hóa. Sự gia  tăng bằng chứng  hỗ  trợ nhiễm H. pylori như 1  tác nhân dẫn đến  thiếu máu và xuất huyết giảm tiểu cầu tự miễn,  bệnh  lý khối u hoặc  các  rối  loạn da niêm khác  như  trứng cá đỏ hoặc vảy nến, viêm miệng áp  tở,  viêm  da  cơ  địa,  xuất  huyết  Schoenlein‐ Henoch, hội  chứng Sjögren  (Szlachcic A và  cs.,  2002), Gần đây, người  ta  lại quan  tâm đến việc  loại  trừ vi khuẩn H. pylori  đi  đôi với quá  trình  phục  hồi  cũng  như  biến mất  các  triệu  chứng  MĐMT trên nhiều nghiên cứu giữa nhóm bệnh  nhân  có H. pylori  (+)  nhưng  không  điều  trị  và  nhóm chứng H. pylori (‐) có ý nghĩa thống kê.   Về cơ chế, nhiễm  trùng H. pylori gây bệnh  lý da đến nay vẫn chưa thấu đáo. Mặc dù các  đề nghị gần đây cho rằng nhiễm H. pylori mạn  tính  có  thể  làm  tăng  tính  thấm  dịch  vị,  xu  hướng tăng phát triển dị ứng thức ăn ở trẻ em,  một  số khác  đã  cho  thấy nhiễm  trùng không  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng  245 ảnh hưởng lên kháng thể IgE đặc hiệu đối với  các  dị  nguyên  thức  ăn  chính  ở  trẻ. Một  giả  thuyết  đặt  ra  cơ  chế  tự  miễn  mà  trong  đó  giống  hệt  cơ  chế  phân  tử  giữa  H.  pylori  lipopolysaccharide  (LPS)  và  kháng  nguyên  nhóm máu Lewis có thể xảy ra viêm dạ dày tự  miễn  loại  B  (autoimmune  type‐B  gastritis).  Điều thú vị, trong một số ‐ không phải là tất cả  bệnh nhân bị MĐMT, thì có test da tự thân trở  nên  âm  tính  sau  khi  loại  khỏi  vi  khuẩn  H.  pylori.  Ngược với nghiên cứu này, xác định nhiễm  H. pylori chỉ bằng phương pháp huyết thanh học,  nên kết quả  sẽ  cao hơn nếu  sử dụng kỹ  thuật  phát  hiện  kháng  nguyên  trong  phân  hoặc  test  hơi thở. Trong nghiên cứu trên 42 bệnh nhân bị  MĐMT không rõ căn nguyên đã được chỉ định  điều trị H. pylori cho thấy các dấu hiệu lâm sàng  về mày đay hồi phục nhanh 88%(4,10). Trong một  nghiên  cứu  khác  8  trong  20  bệnh  nhân  bị  MĐMT, test hơi thở dương tính đến 75% và hiệu  giá kháng thể IgG chống lại H. pylori trên 75% số  ca gia  tăng,  trong khi nhóm chứng  test hơi  thở  chỉ dương tính 55% và kháng thể chỉ dương 20%  (Galdari và Sheriff., 2006). Sự khác biệt này chỉ ra  có mối  liên  quan  ý  nghĩa  giữa MĐMT  và  các  kháng thể chống lại H. pylori.  Fiebiger và cộng sự (2010) đánh giá các triệu  chứng của da sau khi loại bỏ H. pylori trên 55 ca  nhiễm  khuẩn  này  có  triệu  chứng  MĐMT  tự  phát, sự cải thiện hoàn toàn hoặc một phần trên  74,6%  số  ca,  cho  thấy  có  thể  liên  quan  giữa  nhiễm  vi  khuẩn  với MĐMT. Một  nghiên  cứu  khác (Gonzale Morale và cs., 2005) đã phân tích  mối  liên quan giữa MĐMT với nhiễm H. pylori.  Tổng số 20 bệnh nhân MĐMT có test hơi thở (+)  được chọn và sau khi điều  trị tiệt căn vi khuẩn  thì triệu chứng MĐMT đã cải thiện đáng kể trên  11 ca  (55%) và  trên 9 ca  (45%)  trở nên âm  tính  với test hơi thở và 2 ca vẫn còn (+). Cuối cùng có  mối liên quan giữa sự biến mất các triệu chứng  MĐMT với test hơi thở (‐) biểu hiện trên 45% số  ca. Điều này cho thấy có mối liên quan tương tự  như  trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi.  Nghiên  cứu này cho thấy hầu hết các ca MĐMT trong độ  tuổi 20‐40 và phần lớn là nam giới (55,8%).   Mặt khác,  độ nặng và  trầm  trọng  của  triệu  chứng  MĐMT  có  thể  lệ  thuộc  vào  cường  độ  nhiễm H.  pylori  và mức  độ  thâm  nhiễm  viêm  trong các mẫu bệnh phẩm sinh  thiết niêm mạc  dạ dày và việc loại trừ vi khuẩn có thể dẫn đến  cải  thiện triệu chứng. Như  trường hợp ngoại  lệ  của các chủng H. pylori gây độc tế bào có thể sinh  ra các yếu  tố cytokine  tại chỗ kéo dài, hoặc các  chất  hoạt mạch  hoặc  các  chất  tiền  đông máu  thông qua  các  tế bào miễn dịch  ở vật  chủ. Vài  nghiên cứu được thiết kế để đánh giá vai trò của  nhiễm H. pylori trong một số bệnh  lý ngoài tiêu  hóa do vi khuẩn này. Các dữ liệu dịch tễ học sẵn  có đang tranh  luận vì sự có mặt một vài yếu tố  nhiễu (tình trạng kinh tế xã hội, vị trí địa lý, thời  gian nhiễm bệnh, sự có mặt các chủng vi khuẩn  khác nhau, liệu pháp điều trị trước đó, sự nhiễm  trùng các tác nhân khác đồng thời), điều này có  thể ảnh hưởng đến kết quả. Tuy nhiên, loại bỏ vi  khuẩn H. pylori thường dẫn đến sự biến mất/ cải  thiện  triệu  chứng  các  cơ  quan  ngoài  tiêu  hóa.  Các nghiên cứu dịch  tễ học và can  thiệp có đối  chứng,  với  các  tham  chiếu  cagA  của  chủng  vi  khuẩn  nhiễm  là  cần  thiết  để  xác  định  có  hay  không cơ chế phân tử vi khuẩn H. pylori gây nên  các đặc điểm  lâm sàng ngoài ruột như trong ca  bệnh này.   Phù mạch không có liên quan có ý nghĩa với  nhiễm trùng H. pylori (nồng độ kháng thể IgG và  IgM  không  có  liêu  quan  với  tình  trạng  phù  mạch). Các triệu chứng rối  loạn tiêu hóa không  có  ý  nghĩa  với  tình  trạng  nhiễm  H.  pylori  ở  nghiên cứu này. Tương tự, giới tính không ảnh  hưởng  lên nồng độ kháng  thể  IgM và  IgG  trên  các  bệnh  nhân  nhiễm H. pylori. Nếu  nhiễm H.  pylori được điều tra bằng các phương pháp khác  như  phát  hiện  kháng  nguyên  trong  phân,  test  hơi thở, hoặc kháng thể anti‐Lpp20 của H. pylori  thì có  thể nhiễm H. pylori sẽ cao hơn. Người  ta  khuyến cáo cần có thêm các nghiên cứu cỡ mẫu  lớn  hơn,  tại  đa  trung  tâm  sẽ  làm  sáng  tỏ  và  khẳng  định  thêm  giữa  sự  nhiễm H.  pylori  với  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 246  tình trạng MĐMT, đồng thời đưa ra khuyến cáo  sàng  lọc kiểm  tra nhiễm vi khuẩn H. pylori trên  các đối tượng có MĐMT hay không vì điều này  quan trọng liên quan đến kinh tế trong y tế.  KẾT LUẬN   Nhiễm trùng vi khuẩn H. pylori có liên quan  đến tình trạng MĐMT (có hoặc không kèm theo  phù mạch) và các biểu hiện rối loạn da khác qua  các số  liệu minh chứng hiệu  lực mạnh, đặc biệt  sau  khi  điều  trị  bằng  liệu  pháp  bộ  ba  diệt  vi  khuẩn  21  ngày  cũng  như  cải  thiện  chất  lượng  cuộc sống tốt.   TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. Abdou  AG,  Elshayeb  EI,  Farag  AG,  Elnaidany NF  (2009).  Helicobacter pylori infection  in patients with chronic urticaria:  Correlation with pathologic findings  in gastric biopsies. Int J  Dermatol. 48: 464‐469.  2. Chey  WD,  Wong  BC  (2007).  American  College  of  Gastroenterology  guideline  on  the  management  of  Helicobacter pylori infection. Am J Gastroenterol. 102. 1808‐25  3. Engin  B,  Özdemir  M,  Kartal  O,  Mevlitoğlu  I  (2009).  Helicobacter  pylori  in  dermographic  urticaria.  J  Turk  Acad  Dermatol. 3(3)93301a  4. Fiebiger E, Maurer D, Holub H et al  (1995). Serum  IgG auto  antibodies directed  against  the  a  chain of FcεRI:  a  selective  marker and pathogenetic factor for a distinct subset of chronic  urticaria patients? J Clin Invest. 96. 2606‐12.  5. Galadari IH, Sheriff MO (2006). The role of Helicobacter pylori  in urticaria and atopic dermatitis. Skinmed. 5. 172‐6.  6. Hernando‐Harder  AC,  Booken  N,  et  al  (2009).  Helicobacter  pylori infection and dermatologic diseases. Eur J Dermatol. 19:  431‐434.  7. Huỳnh Hồng Quang, Nguyễn Văn Chương (2013). Nhân một  trường  hợp mày  đay mạn  tính  có  liên  quan  đến  vi  khuẩn  Helicobacter pylori: Cập nhật và tổng hợp y văn. Y học TP. Hồ  Chí Minh. 17(1) 160‐165.  8. Shiotani  A,  Kamada  T,  Kusunoki  H,  Hata  J  et  al  (2009)  Helicobacter  pylori  infection  and  allergic  diseases.  Nippon  Rinsho. 67.2352‐2356.  9. Wedi  B,  Raap  U,  Kapp  P  (2009).  Urticaria  and  infections.  Allergy, Asthma & Clinical Immunology. 5(1)10.  10. Yadav MK, Rishi JP, Nijawan S (2008). Chronic urticaria and  Helicobacter pylori. Indian J Med Sci. 62. 157‐162.  Ngày nhận bài báo:       9/5/2014  Ngày phản biện nhận xét bài báo:   16/6/2014  Ngày bài báo được đăng:     14/11/2014 

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdanh_gia_moi_lien_quan_giua_nhiem_vi_khuan_helicobacter_pylo.pdf
Tài liệu liên quan