Đánh giá một số chỉ số sinh hóa, huyết học trên những bệnh nhân nhiễm ấu trùng Toxocara SPP
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
Kết luận
Các trường hợp nhiễm Toxocara spp có 21%
tăng số lượng bạch cầu và có 30% tăng số lượng
bạch cầu ái toan trong máu.
Những trường hợp nhiễm Toxocara spp có
ALT và AST cao hơn bình thường.
Những thay đổi về huyết học và sinh hoá
trên không khác nhau có ý nghĩa thống kê giữa
các hiệu giá kháng thể Toxocara spp.
Đề nghị
Tiếp tục nghiên cứu với số lượng cỡ mẫu
lớn hơn.
Tuy số lượng bạch cầu và bạch cầu ái toan
cũng có giá trị trong chẩn đoán giun đũa
chó/mèo nhưng không nên tin tưởng vào duy
chỉ xét nghiệm bạch cầu ái toan mà đề ra quyết
định bệnh. Bởi lẽ chỉ số bạch cầu ái toan tăng
cao không chỉ do một nguyên nhân mà có thể
cùng lúc đa yếu tố và đa bệnh lý tác động.
Để chẩn đoán chính xác bệnh nhân nhiễm
ấu trùng giun đũa chó mèo cần phải phối hợp
tiêu chuẩn lâm sàng và cận lâm sàng.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 08/02/2022 | Lượt xem: 35 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá một số chỉ số sinh hóa, huyết học trên những bệnh nhân nhiễm ấu trùng Toxocara SPP, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 105
ĐÁNH GIÁ MỘT SỐ CHỈ SỐ SINH HÓA, HUYẾT HỌC
TRÊN NHỮNG BỆNH NHÂN NHIỄM ẤU TRÙNG TOXOCARA SPP
Đỗ Thị Phượng Linh*, Lương Trường Sơn*, Đặng Thị Nga*, Phạm Thị Thu Giang*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Đứng trước tình hình ký sinh trùng từ động vật lây sang người như Toxocara spp. ngày càng
được xã hội quan tâm, nhất là hiện nay chưa có một “tiêu chuẩn vàng” trong việc chẩn đoán bệnh này, từ đó
chúng tôi tiến hành nghiên cứu nhằm mục đích đánh giá được phần nào mối liên quan giữa yếu tố cận lâm sàng
với những bệnh nhân nhiễm ký sinh trùng đường ruột mà ở đây là giun đũa chó/mèo Toxocara spp.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu tiến hành trong năm 2012 tại Viện SR – KST – CT Tp.HCM
theo nghiên cứu cắt ngang trên những bệnh nhân đến khám tại Trung tâm Khám bệnh chuyên ngành thuộc Viện
Sốt rét – KST – CT Thành phố Hồ Chí Minh có dấu hiệu lâm sàng hoặc nghi ngờ nhiễm ấu trùng giun đũa
chó/mèo Toxocara spp có độ tuổi từ 18 tuổi trở lên.
Kết quả: 21% các trường hợp có huyết thanh dương tính với Toxocara sp có tăng số lượng bạch cầu trong
máu, 30% các trường hợp nhiễm Toxocara sp có tăng số lượng bạch cầu ái toan trong máu. Những trường hợp
nhiễm Toxocara sp có AST, ALT cao hơn là trường hợp không nhiễm và những thay đổi về chỉ số huyết học và
sinh hóa không khác nhau có ý nghĩa thống kê giữa các hiệu giá kháng thể.
Kết luận: Số lượng bạch cầu, bạch cầu ái toan, ALT và AST được sử dụng để củng cố thêm cho chẩn đoán
nhiễm Toxocara spp ngoài hiệu giá kháng thể của ELISA.
Từ khóa: Giun đũa chó/mèo, bạch cầu ái toan, ALT, AST.
ABSTRACT
ASSESSMENT OF HEMATOLOGY AND BIOCHEMISTRY VALUES ON PATIENTS AFFECTED
BY TOXOCARA SPP
Do Thi Phuong Linh, Luong Truong Son, Dang Thi Nga, Pham Thi Thu Giang
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 1 - 2013: 105 - 109
Backgrounds: The diagnosis of zoonoses such as toxocariasis is presently more and more being concerned
especially when there is no “gold standard” currently available for the diagnosis. We carry out this study in order
to assess the relationship between paraclinical factors in patients with toxocariasis.
Subjects and methods: This cross-sectional study was conducted in 2012 at the National Institute of
Malarialogy - Parasitology and Entomology HCMC on the patients aged 18 years or older with clinical signs or
suspected Toxocara spp.
Results: Leukocytosis and eosinophilia were observed in 21% and 30% of cases of toxocariasis, respectively.
Higher values of aspartate transaminase (ALT) and alanine transaminase (AST) were seen in toxocariasis
comparing to the non-infected cases. Among different titers of antibodies to toxocara spp, changes in hematology
and biochemistry did not differ significantly.
Conclusions: The number of white blood cells, eosinophils, ALT and AST may reinforce the diagnosis of
toxocariasis besides ELISA antibody titers.
Key words: Toxocara spp, eosinophil, ALT, AST.
* Viện Sốt rét – KST – CT TP.HCM
Tác giả liên lạc: KS. Đỗ Thị Phượng Linh, ĐT: 0935222712, Email: dophuonglinh2712@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 106
ĐẶT VẤN ĐỀ
Với điều kiện khí hậu ở vùng nhiệt đới,
trong đó có Việt Nam thì các bệnh ký sinh trùng,
đặc biệt là ký sinh trùng ký sinh và gây bệnh ở
hệ tiêu hóa lưu hành khá phổ biến ở khu nhiệt
đới và cận nhiệt đới, đồng thời được xem là
bệnh thường gặp tại những nước đang phát
triển hoặc kém phát triển. Các bệnh từ động vật
lây sang người (zoonosis) ngày càng được chú
trọng do con đường phát triển trong người
thường đi vào ngõ cụt nên khó chẩn đoán bằng
các kỹ thuật thường quy như xét nghiệm phân
tìm ký sinh trùng, mà phải nhờ đến các kỹ thuật
miễn dịch (Trần Vinh Hiển và cs., 2008)(1). Các kỹ
thuật này ngày càng hoàn thiện nên phát hiện
bệnh nhiều hơn. Trong các bệnh trên có bệnh do
ấu trùng giun đũa chó, mèo mà bệnh cảnh lâm
sàng ở người nhiều khi không có triệu chứng rõ
ràng và không xét nghiệm tìm ký sinh trùng
trong phân được. Theo điều tra khảo sát tình
hình nhiễm ấu trùng giun đũa chó ở xã Thạnh
Tân, thị xã Tây Ninh năm 2009 cho thấy tỷ lệ
huyết thanh dương tính với Toxocara canis là
20,6%, điều tra tại 2 xã Chư Pả và H‘Bông, tỉnh
Gia Lai cho thấy tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun đũa
chó/mèo là 50% (Nguyễn Thị Khả Ái và cs.,
2009; Phan Anh Tuấn và cs., 2006) (2,3)
Để đánh giá được phần nào mối liên quan
giữa yếu tố cận lâm sàng với những bệnh nhân
nhiễm ký sinh trùng đường ruột mà ở đây là
giun đũa chó/mèo Toxocara sp, chúng tôi thực
hiện đề tài “Đánh giá một số chỉ số sinh hóa,
huyết học trên những bệnh nhân nhiễm ấu
trùng giun đũa chó/mèo Toxocara spp”.
ĐỐI TƯỢNG -PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Địa điểm và thời gian
Trung Tâm Khám Bệnh Chuyên Ngành –
Viện Sốt Rét - KST – CT – TPHCM.
Từ tháng 06/2012 – 10/2012.
Đối tượng nghiên cứu
Bệnh nhân có độ tuổi từ 18 tuổi trở lên đến
khám bệnh tại Trung Tâm Khám Bệnh Chuyên
Ngành thuộc Viện Sốt Rét – KST – CT Thành
phố Hồ Chí Minh được xác định là nhiễm ấu
trùng giun đũa chó/mèo Toxocara spp bằng
phương pháp chẩn đoán huyết thanh miễn dịch
ELISA(8).
Cỡ mẫu: 200 mẫu (gồm 100 bệnh nhân có
huyết thanh được xác định là dương tính với ấu
trùng giun đũa chó/mèo Toxocara spp và 100
bệnh nhân có huyết thanh âm tính với ấu trùng
giun đũa chó/mèo Toxocara spp).
Phương pháp thu thập mẫu
Huyết thanh: Lấy 1ml máu tĩnh mạch cho
vào tube nắp đỏ, quay ly tâm ở tốc độ 3500
vòng/ phút trong 10 phút Hút dịch nổi ở trên
thu được huyết thanh. Huyết thanh sau khi
được ly tâm cho vào tube eppendorf và được
bảo quản ở 00C trong 48 giờ. Tiến hành phương
pháp chẩn đoán huyết thanh miễn dịch ELISA
trong 1 – 48 giờ sau khi tách huyết thanh.
Phương pháp phân tích
Xét nghiệm công thức máu (bằng máy huyết
học 18 thông số Celltac α, Nihon Koden + soi
lam):
Số lượng bạch cầu bình thường: 4,0 – 9,0 ×
103 /µl máu.
Xác định tỷ lệ bạch cầu ái toan (Eosinophil)
bằng cách lấy máu giọt mỏng, nhuộm giêm sa,
soi lam và tính theo công thức:
% Eosinophil = (Số Eosinophil đếm
được/100 bạch cầu) × 100%
Sau khi đếm tỷ lệ bạch cầu ái toan trên giọt
máu mỏng được nhuộm Giemsa, sau đó quy ra
số lượng tuyệt đối dựa vào số lượng bạch cầu.
Tỷ lệ bạch cầu ái toan bình thường: 1–4 %,
Số lượng bạch cầu ái toan bình thường: 40 – 350/
µl máu.
Các mức độ tăng bạch cầu ái toan: nhẹ (350 –
1500/µl máu), trung bình (> 1500 – 5000/µl máu),
cao (> 5000/µl máu) (Franklin và cs., 1998) (7)
Xét nghiệm sinh hóa máu (bằng máy sinh
hóa tự động A15 của Biosystem)
- Giá trị AST bình thường: 0 – 40 U/L
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 107
- Giá trị ALT bình thường: 0 – 41 U/L
Xét nghiệm Toxocara sp bằng kỹ thuật ELISA
gián tiếp
Sử dụng bộ kit 96 giếng chẩn đoán Toxocara
spp của Cty Việt Sinh.
Quy trình thực hiện:
- Kháng nguyên đã được gắn sẵn vào giếng.
- Rửa 5 lần bằng dung dịch rửa.
- Thêm kháng thể (trong huyết thanh bệnh
nhân).
- Ủ ở 450C trong 30 phút, rửa 5 lần dung dịch
rửa.
- Bổ sung thêm kháng kháng thể có gắn
enzyme.
- Ủ ở 450C trong 30 phút, rửa 5 lần dung dịch
rửa.
- Thêm cơ chất tạo màu.
- Cho chất ngừng phản ứng.
- Đọc kết quả sau 5- 30 phút.
Kết luận: Đọc kết quả bằng cách quan sát
màu của giếng bệnh nhân so với màu của giếng
chứng âm và chứng dương.
- Âm tính: Màu giếng bệnh nhân bằng màu
chứng âm.
- Dương tính: Nếu màu giếng bệnh nhân
bằng màu chứng dương Ghi hiệu giá kháng
thể là 1/3200, nếu nhạt hơn màu chứng dương,
ghi hiệu giá kháng thể là 1/1600, nếu nhạt hơn
nữa ghi hiệu giá kháng thể là 1/800.
Xử lý số liệu:
- Sau khi thu thập số liệu, tất cả các số liệu
hợp lệ sẽ được thống kê phân tích để đánh giá.
- Các phép thống kê mô tả sẽ được dùng để
tính các yêu cầu của đề tài.
- Nhập số liệu bằng Epi Data và xử lý số liệu
bằng phần mềm STATA 10.0.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Mối liên quan giữa các chỉ số huyết học với
tình trạng nhiễm Toxocara spp. Số lượng
bạch cầu ở bệnh nhân nhiễm Toxocara spp
Bảng 1. Số lượng bạch cầu ở những bệnh nhân
nhiễm Toxocara spp (N= 100).
Bệnh nhân nhiễm Toxocara spp Tần suất Tỷ lệ (%)
Có số lượng bạch cầu ở mức bình
thường
79 79
Có số lượng bạch cầu tăng 21 21
Nhận xét: Bảng 1 cho thấy, trong 100 bệnh
nhân nhiễm ấu trùng giun đũa chó/mèo
Toxocara spp có 21 trường hợp bệnh nhân có số
lượng bạch cầu tăng (mức tăng cao nhất là
16.800/µl), 79 trường hợp còn lại bạch cầu ở
mức bình thường.
Số lượng bạch cầu ái toan ở bệnh nhân nhiễm
Toxocara spp
Bảng 2. Số lượng bạch cầu ái toan ở bệnh nhân
nhiễm Toxocara spp (N=100).
Bệnh nhân nhiễm Toxocara spp Tần suất Tỷ lệ (%)
Có số lượng bạch cầu ái toan ở mức
bình thường
70 70%
Có số lượng bạch cầu ái toan tăng 30 30%
Bảng 3. Mức tăng bạch cầu ái toan trên những bệnh
nhân nhiễm Toxocara spp.
Bệnh nhân nhiễm Toxocara spp có số
lượng bạch cầu ái toan tăng
Tần
suất
Tỷ lệ (%)
Có số lượng bạch cầu ái toan tăng nhẹ
(350 – 1500/µl)
29 96,67
Có số lượng bạch cầu ái toan tăng trung
bình (>1500 - 5000/µl)
1 3,33
Có số lượng bạch cầu ái toan tăng cao
(>5000/µl)
0 0
Nhận xét: Bảng 2 và 3 cho thấy, trong 100
bệnh nhân nhiễm ấu trùng giun đũa chó/mèo
Toxocara spp có 68 trường hợp còn lại bạch cầu ái
toan ở mức bình thường, Trong 30 trường hợp
bệnh nhân có số lượng bạch cầu ái toan tăng thì
29 trường hợp là tăng ở mức nhẹ. Có 1 trường
hợp mức tăng cao nhất là 2030/ µl nhưng cũng
chỉ ở mức tăng trung bình.
Mối liên quan giữa các số lượng bạch cầu,
bạch cầu ái toan với tình trạng nhiễm
Toxocara spp của bệnh nhân
Bảng 4. Mối liên quan giữa số lượng bạch cầu, bạch
cầu ái toan với tình trạng nhiễm Toxocara spp của
bệnh nhân.
Số lượng bạch
cầu (×103/µl)
Số lượng bạch cầu
ái toan (×103/µl)
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 108
Bệnh nhân nhiễm
Toxocara spp.
7,67 ± 2,44 3,15± 3,94
Bệnh nhân không
nhiễm Toxocara spp.
7,04 ± 1,49 1,37± 2,08
P 0,0015 0.0000
Nhận xét: Bảng 4 trên cho ta thấy số lượng
bạch cầu và bạch cầu ái toan của những bệnh
nhân nhiễm ấu trùng giun đũa chó/mèo và
những bệnh nhân không nhiễm có sự khác biệt
đáng kể về mặt thống kê học (P< 0,05). Số lượng
bạch cầu và bạch cầu ái toan tăng ở những bệnh
nhân nhiễm ấu trùng giun đũa chó mèo.
Mối liên quan giữa bạch cầu ái toan và
hiệu giá kháng thể của những bệnh nhân
nhiễm ấu trùng giun đũa chó/mèo
Toxocara spp.
Bảng 5. Hiệu giá kháng thể trên những bệnh nhân
nhiễm ấu trùng giun đũa chó/mèo Toxocara spp
(N=100).
Mức hiệu giá kháng thể Tần suất Tỷ lệ
1/800 07 07 %
1/1600 24 24%
1/3200 69 69%
Nhận xét: Bảng 5 cho thấy bệnh nhân nhiễm
ấu trùng giun đũa chó, mèo hiệu giá 1/800,
1/1600, 1/3200 lần lượt chiếm tỷ lệ là 7%, 24% và
69%. Điều này cho ta thấy đa số bệnh nhân bị
nhiễm ấu trùng giun đũa chó, mèo ở mức hiệu
giá kháng thể là 1/3200.
Bảng 6. Mối liên quan giữa số lượng bạch cầu, bạch
cầu ái toan Eosinophil và hiệu giá kháng thể của
những bệnh nhân nhiễm ấu trùng giun đũa chó/mèo
Toxocara spp.
Hiệu giá
kháng thể
Số lượng bạch
cầu (×103/µl)
Số lượng bạch cầu ái
toan (×103/ µl)
1/800 6,70 ±1,80 0,18±0,11
1/1600 7,40 ±2,40 0,36± 0,45
1/3200 7,80 ±2,50 0,30± 0,25
P 0.4512 0.3731
Nhận xét: Bảng 6 cho thấy số lượng bạch cầu
và bạch cầu ái toan ở những bệnh nhân nhiễm
ấu trùng giun đũa chó/mèo ở những hiệu giá
kháng thể 1/800, 1/1600 và 1/3200 không có sự
khác biệt về mặt thống kê học (P>0,05).
Mối liên quan giữa các chỉ số sinh hóa với
tình trạng nhiễm Toxocara spp
Bảng 7. Mối liên quan giữa các chỉ số sinh hóa (AST,
ALT) với tình trạng nhiễm Toxocara spp. của bệnh
nhân.
AST (U/L) ALT (U/L)
Bệnh nhân nhiễm
Toxocara spp
25.31±10,88 24.84± 15,91
Bệnh nhân không
nhiễm Toxocara spp
20.95± 6,69 20.34± 9,61
P 0,0004 0,0082
Nhận xét: Bảng 7 cho ta thấy chỉ số AST,
ALT của những bệnh nhân nhiễm ấu trùng giun
đũa chó/mèo và những bệnh nhân không nhiễm
ấu trùng giun đũa chó/mèo có sự khác biệt đáng
kể về mặt thống kê học (P<0,05). Chỉ số AST,
ALT tăng ở những bệnh nhân nhiễm ấu trùng
giun đũa chó mèo. Điều này có thể giải thích
được là ấu trùng giun đũa chó mèo di chuyển
đến gan và gây ra các tổn thương về gan dẫn
đến việc men gan tăng.
BÀN LUẬN
Giới hạn của nghiên cứu này: đây là nghiên
cứu cắt ngang, chưa theo dõi được diễn tiến các
chỉ số bạch cầu, bạch cầu ái toan, AST và ALT
cũng như hiệu giá kháng thể một thời gian sau
khi bệnh nhân được điều trị.
Số lượng bệnh nhân dương tính với ELISA
Toxocara spp còn ít nên có thể các kết quả chưa
phản ánh đúng bệnh cảnh lâm sàng của bệnh do
Toxocara spp.
Triệu chứng lâm sàng của bệnh do Toxocara
không đặc hiệu cho bệnh. Chẩn đoán xác định
thường phải dựa vào test ELISA, nhưng test
ELISA thực hiện một lần không cho biết là đã
mắc hay đang mắc vì test ELISA sử dụng là
phương pháp gián tiếp xác định kháng nguyên
mà cơ thể bị nhiễm thông qua kháng thể IgG
(Chira và cs., 2005)(4).
Do đó phải dựa vào các chỉ số huyết học,
sinh hoá khác như số lượng bạch cầu nói chung
và nhất là bạch cầu ái toan vì thường nhiễm ký
sinh trùng có sự gia tăng bạch cầu ái toan
(Roldan và cs, 2008) (5).
Trong nghiên cứu này 21% trường hợp có
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 109
tăng số lượng bạch cầu trong máu và 30% có
tăng bạch cầu ái toan.
Ngoài ra những trường hợp nhiễm Toxocara
spp có men gan ALT và AST cao hơn những
trường hợp không nhiễm. Do trong chu kỳ phát
triển của ấu trùng Toxocara có giai đoạn ấu
trùng chưa trưởng thành di chuyển đến các mô
do đó nó có thể lâm sàng kinh điển là “hội
chứng ấu trùng di chuyển nội tạng” (VLM) và
tuỳ thuộc vào số lượng ấu trùng, trong hội
chứng VLM người bệnh có thể bị sốt, ho, khò
khè, đau bụng, gan to (Trần Thị Hồng và cs.,
1997) (6).
Như vậy số lượng bạch cầu, bạch cầu ái
toan, ALT và AST có thể củng cố thêm cho chẩn
đoán nhiễm Toxocara spp ngoài hiệu giá kháng
thể của ELISA.
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
Kết luận
Các trường hợp nhiễm Toxocara spp có 21%
tăng số lượng bạch cầu và có 30% tăng số lượng
bạch cầu ái toan trong máu.
Những trường hợp nhiễm Toxocara spp có
ALT và AST cao hơn bình thường.
Những thay đổi về huyết học và sinh hoá
trên không khác nhau có ý nghĩa thống kê giữa
các hiệu giá kháng thể Toxocara spp.
Đề nghị
Tiếp tục nghiên cứu với số lượng cỡ mẫu
lớn hơn.
Tuy số lượng bạch cầu và bạch cầu ái toan
cũng có giá trị trong chẩn đoán giun đũa
chó/mèo nhưng không nên tin tưởng vào duy
chỉ xét nghiệm bạch cầu ái toan mà đề ra quyết
định bệnh. Bởi lẽ chỉ số bạch cầu ái toan tăng
cao không chỉ do một nguyên nhân mà có thể
cùng lúc đa yếu tố và đa bệnh lý tác động.
Để chẩn đoán chính xác bệnh nhân nhiễm
ấu trùng giun đũa chó mèo cần phải phối hợp
tiêu chuẩn lâm sàng và cận lâm sàng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Vinh Hiển, Trần Thị Kim Dung (2008), Ký sinh trùng liên
quan giữa thú và người. Nhà xuất bản Y học, 2008; tr. 92-93..
2. Nguyễn Thị Khả Ái, Nguyễn Thị Thanh Hà và cs (2009), “Khảo
sát tình hình nhiễm ấu trùng giun đũa chó và các yếu tố liên quan
ở cộng đồng xã Thạnh Tân, thị xã Tây Ninh”, Kỷ yếu công trình
nghiên cứu khoa học Viện SR - KST - CT TP. Hồ Chí Minh 2011: tr.
343-347.
3. Phan Anh Tuấn, Trần Thị Kim Dung và cs (2006), Tình hình
nhiễm Toxocara sp của cư dân tại hai xã Chư Pã và H’ Bông tỉnh
Gia Lai. Tạp chí Y học quân sự - Học viện Quân Y 3(2): tr. 89 – 93..
4. Chira O., Badea R., Dumitrascu D., Serban A., Branda H., Hajjar
N., Chiorean E. And Cruciat C (2005), Eosinophilic Ascites In a
Patient with Toxocara Canis Infection. A Case Report. Romanian
Journal of Gastroenterology 14 (4): pp. 397 – 400.
5. Roldan W.H. et al (2008), Frequently of Eosinophilia and Risk
Factors and their Association with Toxocara Infection in Schoolchildren
During A Health Survey in the North of Lima, Peru 50 (5): pp. 273 –
278.
6. Trần Thị Hồng, Trần Vinh Hiển (1997), Biểu hiện lâm sàng bệnh do
ấu trùng giun đũa chó Toxocara canis ở người.Y học Tp Hồ Chí Minh
3 (1): tr. 121 – 124.
7. Franklin H.E (1998), Eosinophilia.The New England Journal of
Medicine 338:1592-1600.
8. Cục Y tế dự phòng, Bộ Y tế (2012), Toxocara, www.vncdc.gov.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_gia_mot_so_chi_so_sinh_hoa_huyet_hoc_tren_nhung_benh_nh.pdf