Miệt vườn vùng đồng bằng sông
Cửu Long được du khách đánh giá ở mức
khá hấp dẫn (3,61 điểm theo thang đo 5
cấp độ, thấp nhất là 1 và cao nhất là 5).
Có thể nói, đây là cơ hội để khai thác hệ
sinh thái nông nghiệp (vườn) phục vụ
nhu cầu tham quan của du khách trong
tương lai. Tuy nhiên, theo kết quả khảo
sát, du khách chỉ cảm thấy dưới mức hài
lòng về chuyến du lịch ở miệt vườn và
điều này bị tác động bởi nhiều yếu tố: (1)
nhà vệ sinh thiếu và không đảm bảo vệ
sinh; đường sá đến điểm tham quan chật
hẹp; (2) phòng ở chưa sạch sẽ, thoáng
mát và đầy đủ tiện nghi; nhân viên chưa
thân thiện, lịch sự và nhiệt tình; (3)
phương tiện tham quan không có đầy đủ
dụng cụ y tế và độ an toàn chưa cao; (4)
điểm tham quan chưa có nhiều hoạt động
vui chơi giải trí và cửa hàng đồ lưu niệm;
(5) vẫn còn tình trạng chèo kéo, thách giá
và trộm cắp ở điểm du lịch; (6) hướng
dẫn viên du lịch chưa nhanh nhẹn, linh
hoạt và kĩ năng giao tiếp, ứng xử chưa
tốt; (7) Giá cả ăn uống, tham quan và
mua sắm chưa hợp lí. Để nâng cao sự hài
lòng của du khách, cần phải cải thiện
những tồn tại này và những giải pháp đề
xuất nêu trên cũng nhằm mục đích đó.
12 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 707 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá mức độ hài lòng của du khách nội địa đối với du lịch miệt vườn vùng đồng bằng sông Cửu Long, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 52 năm 2013
_____________________________________________________________________________________________________________
44
ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ HÀI LÒNG CỦA DU KHÁCH NỘI ĐỊA
ĐỐI VỚI DU LỊCH MIỆT VƯỜN
VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
NGUYỄN TRỌNG NHÂN*
TÓM TẮT
Nghiên cứu này áp dụng mô hình lí thuyết sự cảm nhận - sự mong đợi để đánh giá
mức độ hài lòng của du khách, phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến sự hài lòng, đồng thời
đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao sự hài lòng của du khách đối với du lịch miệt
vườn vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Từ khóa: sự hài lòng, du lịch miệt vườn, vùng đồng bằng sông Cửu Long.
ABSTRACT
Evaluating the level of internal tourists’ satisfaction of fruit farm tourism (Miet vuon
tourism) in the Mekong Delta region of Vietnam
This research applies perception-expectation theoretical model to evaluate the level
of tourist satisfaction, analyses influencing factors of tourist satisfaction and recommends
some solutions to enhance tourist satisfaction of fruit farm tourism (Miet vuon tourism) in
the Mekong Delta region of Vietnam.
Keywords: satisfaction, fruit farm tourism (Miet vuon tourism), the Mekong Delta
region of Vietnam.
1. Giới thiệu
Thuật ngữ “sự hài lòng của du
khách” trong nghiên cứu du lịch bắt
nguồn từ thuật ngữ “sự hài lòng của
khách hàng” trong lĩnh vực tiếp thị [13,
tr.593]. Theo Hà Nam Khánh Giao [4;
tr.4], sự hài lòng của khách hàng tùy
thuộc vào việc vận hành cảm nhận một
sản phẩm so sánh với mong đợi của
khách hàng. Nếu vận hành thấp hơn
mong đợi, người mua không thỏa mãn;
nếu vận hành phù hợp mong đợi, người
mua thỏa mãn; nếu vận hàng vượt quá
mong đợi, người mua cảm thấy thích thú.
Để đo lường sự hài lòng của khách hàng
đối với sản phẩm/ dịch vụ, người ta dựa
* ThS, Trường Đại học Cần Thơ
vào sự so sánh giữa sản phẩm/dịch vụ
cảm nhận với sản phẩm/dịch vụ trông
đợi.
Davidoff cho rằng mức độ hài lòng
của khách hàng về dịch vụ được đo lường
bằng sự so sánh giữa dịch vụ cảm nhận
và dịch vụ trông đợi của bản thân khách
hàng: S = P - E (Satisfaction = Perception
– Expectation). Mối quan hệ giữa ba yếu
tố S, P, E có tính chất quyết định mọi vấn
đề của dịch vụ [2; tr.222-223]. Nếu P >
E: giá trị mà khách hàng nhận được từ
dịch vụ cung cấp cao hơn mức giá trị
mong đợi của khách hàng, chất lượng
dịch vụ được đánh giá là tốt; nếu P = E:
giá trị mà khách hàng nhận được từ thực
tế dịch vụ cung cấp phù hợp với mức
mong đợi của khách hàng, chất lượng
dịch vụ được đánh giá ở mức thỏa mãn;
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Nguyễn Trọng Nhân
_____________________________________________________________________________________________________________
45
nếu P < E: giá trị mà khách hàng nhận
được từ thực tế dịch vụ cung cấp thấp
hơn mức mong đợi của khách hàng, chất
lượng dịch vụ bị coi là kém [5; tr.157].
Theo Chen và cộng sự [13; tr.593],
từ những năm 60 của thế kỉ XX, nhiều
học giả đã có những nghiên cứu hữu ích
về sự hài lòng của du khách. Dựa vào
những nghiên cứu trước, Pizam và cộng
sự (1978) đã tiên phong trong việc áp
dụng lí thuyết về sự hài lòng của khách
hàng để nghiên cứu trong du lịch. Pizam
(1978) và Oliver (1980) cho rằng sự hài
lòng của du khách là “kết quả của sự
tương tác giữa giá trị cảm nhận và mong
đợi của du khách về điểm đến”. Oliver
(1980) cho rằng sự chênh lệch giữa giá trị
kì vọng và giá trị cảm nhận về cách mà
sản phẩm du lịch tác động đến cảm xúc
của du khách sẽ quyết định mức độ hài
lòng của du khách đối với sản phẩm đó
[14; tr.461].
Kozak (2001) kiểm kê được 4 mô
hình lí thuyết về đánh giá mức độ hài
lòng của du khách: mô hình sự kì vọng -
sự thể hiện (expectation - performance
model), mô hình sự quan trọng - sự thể
hiện (importance - performance model),
mô hình sự mong đợi - sự không thừa
nhận (expectancy - disconfirmation
model) và mô hình chỉ sự thể hiện
(performance - only model) [13; tr.595].
Sự nâng cao mức độ hài lòng của
du khách không chỉ có những ảnh hưởng
tích cực đối với nhà cung cấp dịch vụ du
lịch và danh tiếng của điểm đến mà còn
tăng cường lòng trung thành của du
khách, hạ thấp tính đàn hồi (elasticity)
của giá cả, hạ thấp chi phí giao dịch trong
tương lai và gia tăng hiệu quả sản xuất
[13, tr. 594].
Nhận thức tầm quan trọng của sự
hài lòng trong phát triển du lịch, nghiên
cứu áp dụng mô hình lí thuyết sự kì vọng
- sự thể hiện để đánh giá mức độ hài lòng
của du khách; phân tích các nhân tố ảnh
hưởng đến sự hài lòng và đề xuất những
giải pháp nhằm nâng cao sự hài lòng của
du khách đối với du lịch miệt vườn vùng
đồng bằng sông Cửu Long.
2. Phương pháp nghiên cứu
2.1. Phương pháp tiếp cận
Mô hình nghiên cứu của đề tài dựa
vào nhận thức: mức độ hài lòng của du
khách là “kết quả của sự tương tác giữa
giá trị cảm nhận và mong đợi của du
khách về điểm đến” (Pizam et al.,1978;
Oliver,1980). Sự chênh lệch giữa giá trị
mong đợi và giá trị cảm nhận về cách mà
sản phẩm du lịch tác động đến cảm xúc
của du khách sẽ quyết định mức độ hài
lòng của du khách đối với sản phẩm đó
(Oliver, 1980). Để đo khoảng cách giữa
giá trị cảm nhận và giá trị mong đợi, mô
hình sử dụng công thức của Davidoff: S
= P - E ( Satisfaction = Perception –
Expectation). Nếu P > E: giá trị cảm nhận
lớn hơn giá trị mong đợi, du khách cảm
thấy vượt mức hài lòng; nếu P = E: giá trị
cảm nhận bằng giá trị mong đợi, du
khách cảm thấy hài lòng; nếu P < E: giá
trị cảm nhận nhỏ hơn giá trị mong đợi, du
khách cảm thấy dưới mức hài lòng. Để sử
dụng mô hình này hiệu quả cần phải thu
thập thông tin trước và sau khi du khách
đến địa điểm du lịch. Tuy nhiên, điều này
rất khó thực hiện, vì trong thực tế, người
nghiên cứu khó có thể tiếp xúc với một
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 52 năm 2013
_____________________________________________________________________________________________________________
46
khách nhiều lần. Để khắc phục điểm này,
chúng tôi đã thiết kế bảng câu hỏi gồm cả
hai phần: sự kì vọng và sự cảm nhận về
chuyến du lịch của du khách và điều này
được phỏng vấn viên giải thích trước khi
du khách trả lời bảng câu hỏi.
Trên cơ sở tham khảo các tiêu chí
được sử dụng để đo lường mức độ hài
lòng của du khách do Parasuraman đề
xuất năm 1988, Tribe và Snaith đề xuất
năm 1998; những tiêu chí được gợi ý bởi
một số học giả uy tín trong lĩnh vực kinh
tế du lịch (Nguyễn Văn Đính và Trần Thị
Minh Hòa, 2004) [2]; những tiêu chí
thường được sử dụng trong nghiên cứu
địa lí du lịch [Đặng Duy Lợi, 1995; Phạm
Lê Thảo, 2006; Lê Thông và cộng sự,
2010) [9], [11]; cùng thực tế du lịch miệt
vườn vùng đồng bằng sông Cửu Long,
chúng tôi đưa ra các tiêu chí dùng để
đánh giá mức độ hài lòng của du khách
trong mô hình bao gồm: (1) Cơ sở hạ
tầng phục vụ du lịch; (2) Cơ sở lưu trú;
(3) Phương tiện vận chuyển tham quan;
(4) Dịch vụ ăn uống, mua sắm và giải trí;
(5) An ninh trật tự và an toàn; (6) Hướng
dẫn viên du lịch; và (7) Giá cả các loại
dịch vụ. Nhìn chung, các tiêu chí này
phản ánh được 3 chỉ tiêu (sự đảm bảo,
các yếu tố hữu hình, tinh thần trách
nhiệm) trong 5 chỉ tiêu do Parasuraman
đề xuất trong mô hình đánh giá chất
lượng dịch vụ (1988) và phù hợp với
những nội dung gợi ý bởi Nguyễn Văn
Đính và Trần Thị Minh Hòa (2004) [2]:
để đánh giá chất lượng dịch vụ du lịch,
người ta dựa vào một số tiêu thức cơ bản
là sự đa dạng của các loại hình dịch vụ,
chất lượng của các điều kiện thực hiện
dịch vụ, chất lượng của đội ngũ lao động
(chất lượng dịch vụ thể hiện qua sự hài
lòng của khách hàng). Riêng về tiêu chí
sự an toàn và giá cả dịch vụ cần phải đưa
vào vì sự hài lòng của du khách cũng
chịu sự tác động rất lớn của hai tiêu chí
này, hơn nữa lại rất thực tế với điều kiện
ở Việt Nam.
Đối với các biến đo lường, nghiên
cứu sử dụng thang đo 5 cấp độ do Likert
giới thiệu: 1- Hoàn toàn không đồng ý, 2-
Không đồng ý, 3- Trung bình, 4- Đồng ý,
5- Rất đồng ý; hoặc 1- Hoàn toàn không
hài lòng, 2- Không hài lòng, 3- Bình
thường, 4- Hài lòng, 5- Rất hài lòng.
2.2. Phương pháp thu thập dữ liệu sơ
cấp
Nghiên cứu tiến hành phỏng vấn
trực tiếp bằng bảng câu hỏi đối với 160
du khách nội địa đến du lịch tại miệt
vườn vùng đồng bằng sông Cửu Long, cụ
thể: 40 du khách đến du lịch tại làng du
lịch Mỹ Khánh (thành phố Cần Thơ), 40
du khách đến du lịch tại cù lao An Bình
và Bình Hòa Phước (tỉnh Vĩnh Long), 40
du khách đến du lịch tại cồn Thới Sơn
(tỉnh Tiền Giang) và 40 du khách đến du
lịch tại cồn Phụng và làng cây giống Cái
Mơn (tỉnh Bến Tre). Cách thức chọn mẫu
phi xác suất theo kiểu thuận tiện. Sau khi
sàng lọc, tất cả các phiếu thu được đều
đảm bảo yêu cầu, do đó dữ liệu phân tích
bao gồm 160 quan sát. Thời gian lấy mẫu
từ tháng 5 đến tháng 7 năm 2013.
Theo Hair và cộng sự, để sử dụng
phương pháp phân tích nhân tố khám phá
(EFA), kích thước mẫu tốt khi tỉ lệ quan
sát/biến đo lường là 5:1, nghĩa là 1 biến
đo lường cần tối thiểu 5 quan sát [6,
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Nguyễn Trọng Nhân
_____________________________________________________________________________________________________________
47
tr.398]. Theo lí thuyết, nghiên cứu sử
dụng 27 biến đo lường, do đó số mẫu cần
lấy là 27 x 5 = 135. Vậy, nghiên cứu thực
hiện tổng số 160 quan sát, thỏa mãn điều
kiện.
2.2.2. Phương pháp phân tích dữ liệu
Phần mềm SPSS 16.0 for Windows
là công cụ hỗ trợ trực tiếp cho việc xử lí
và phân tích dữ liệu. Các phương pháp
phân tích dữ liệu từ phần mềm được sử
dụng trong nghiên cứu bao gồm: thống
kê mô tả (tần suất và số trung bình), kiểm
định Chi-bình phương (Chi-Square),
kiểm định trị trung bình của hai mẫu phối
hợp từng cặp (Paired-Samples T-Test),
đánh giá độ tin cậy thang đo (Scale
Reliability Analysis), phân tích tương
quan giữa hai biến (sử dụng hệ số tương
quan Pearson) và phương pháp phân tích
nhân tố khám phá (Exploratory Factor
Analysis).
3. Kết quả nghiên cứu
3.1. Khái quát mẫu nghiên cứu
Mẫu nghiên cứu bao gồm 47,5%
nam và 52,5% nữ với cơ cấu độ tuổi dưới
25 (53,8%), từ 25-34 (18,1%), từ 35-44
(11,2%), từ 45-54 (11,9%) và trên 54
(5%). Trình độ của đáp viên phần lớn là
đại học (52,5%) trung cấp (11,9%), trung
học phổ thông (11,9%), trên đại học
(8,1%), cao đẳng (7,5%), trung học cơ sở
(5%), tiểu học (1,9%) và khác (1,2%).
Nghề nghiệp của đối tượng nghiên cứu
cũng rất đa dạng, sinh viên (28,8%), cán
bộ - viên chức (26,9%), kinh doanh
(11,2%), công nhân (10%), nông dân
(5,6%), cán bộ hưu trí (5%), bộ đội -
công an (4,4%) và nghề nghiệp khác
(8,1%).
Du khách đến du lịch ở miệt vườn
vùng đồng bằng sông Cửu Long bởi
những yếu tố: khí hậu trong lành và mát
mẻ (81,9%), phong cảnh đẹp (55%),
mong muốn được tự tay hái trái và
thưởng thức trái cây ngay tại vườn
(48,8%), sự thân thiện và mến khách của
người dân địa phương (36,2%), còn nhiều
nét sơ khai gắn với cuộc sống nông thôn
Nam Bộ (35%), khung cảnh thiên nhiên
thích hợp cho hoạt động dã ngoại
(41,9%), tìm hiểu về làng nghề gắn với
miệt vườn (23,1%) và một số yếu tố khác
(5%).
Các hoạt động du khách tham gia
và trải nghiệm trong chuyến du lịch ở
miệt vườn bao gồm: tham quan cảnh
quan (81,9%), thưởng thức đặc sản địa
phương (60,6%), dã ngoại (38,1%),
thưởng thức đờn ca tài tử (30%), tham
quan làng nghề (26,9%), tìm hiểu đời
sống và sinh hoạt của người dân (14,4%)
và một số hoạt động khác (3,1%) (như tát
mương bắt cá, đuổi bắt gà, xem đua heo,
đua chó, xiết khỉ, câu cá sấu, tham quan
nhà cổ...).
Du khách cho rằng, miệt vườn là
điểm du lịch khá hấp dẫn (đạt 3,6 điểm).
Ở độ tin cậy 95% cho thấy có sự khác
nhau có ý nghĩa thống kê về nghề nghiệp
với sự đánh giá về sức hấp dẫn của miệt
vườn. Nhìn chung, du khách là cán bộ -
viên chức, sinh viên, công nhân đánh giá
cao về loại hình du lịch này hơn.
3.2. Mức độ hài lòng của du khách về
du lịch miệt vườn
Để đánh giá mức độ hài lòng của du
khách, trong nghiên cứu này, chúng tôi
sử dụng phương pháp kiểm định trị trung
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 52 năm 2013
_____________________________________________________________________________________________________________
48
bình của hai mẫu phối hợp từng cặp
(Paired - Samples T-Test) để so sánh số
trung bình giữa giá trị cảm nhận (P) và
giá trị mong đợi (E) của 27 biến đo
lường. Sau khi so sánh, thu được kết quả
như sau:
(i) Về cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch
Du khách cảm thấy dưới mức hài
lòng ở tất cả các biến đo lường về cơ sở
hạ tầng phục vụ du lịch miệt vườn (xem
bảng 1).
Bảng 1. Mức độ hài lòng của du khách về cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch
STT Biến đo lường P – E Biểu hiện Kết luận
1
2
3
4
Đường sá đến điểm tham quan
Bãi đỗ xe nơi tham quan rộng rãi
Bến tàu đến điểm du lịch rộng rãi
Nhà vệ sinh đầy đủ, sạch sẽ
- 0,42**
- 0,35**
- 0,40**
- 0,58**
P < E
P < E
P < E
P < E
Dưới mức hài lòng
Dưới mức hài lòng
Dưới mức hài lòng
Dưới mức hài lòng
Nguồn: Kết quả phân tích số liệu từ điều tra trực tiếp du khách năm 2013, n = 160
Chú thích: **: <=0,01: có ý nghĩa thống kê
ii) Về cơ sở lưu trú
Du khách cảm thấy dưới mức hài lòng ở tất cả các biến đo lường về cơ sở lưu trú
du lịch miệt vườn vùng đồng bằng sông Cửu Long (xem bảng 2).
Bảng 2. Mức độ hài lòng của du khách về cơ sở lưu trú
STT Biến đo lường P – E Biểu hiện Kết luận
1
2
3
Phòng ở sạch sẽ, thoáng mát, tiện nghi
Nhân viên thân thiện, lịch sự, nhiệt tình
Tọa lạc ở vị trí thuận lợi, cảnh quan đẹp
- 0,34**
- 0,29**
- 0,19*
P < E
P < E
P < E
Dưới mức hài lòng
Dưới mức hài lòng
Dưới mức hài lòng
Nguồn: Kết quả phân tích số liệu từ điều tra trực tiếp du khách năm 2013, n = 160
Chú thích: 0,01 < <=0,05: có ý nghĩa thống kê
iii) Về phương tiện vận chuyển tham quan
Trong các biến đo lường về phương tiện vận chuyển tham quan, không có biến
nào được du khách đánh giá cao (xem bảng 3).
Bảng 3. Mức độ hài lòng của du khách về phương tiện vận chuyển tham quan
STT Biến đo lường P – E Biểu hiện Kết luận
1
2
3
4
Có đầy đủ dụng cụ y tế
Độ an toàn cao
Nhân viên thân thiện, lịch sự, nhiệt tình
Nhân viên có tính chuyên nghiệp cao
- 0,38**
- 0,37**
- 0,28**
- 0,27**
P < E
P < E
P < E
P < E
Dưới mức hài lòng
Dưới mức hài lòng
Dưới mức hài lòng
Dưới mức hài lòng
Nguồn: Kết quả phân tích số liệu từ điều tra trực tiếp du khách năm 2013, n = 160
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Nguyễn Trọng Nhân
_____________________________________________________________________________________________________________
49
iv) Về dịch vụ ăn uống, mua sắm và giải trí
Nhìn chung, nhà hàng, cửa hàng đồ lưu niệm, các hoạt động vui chơi giải trí ở các
điểm du lịch vườn còn chưa đa dạng vì du khách chỉ đánh giá các yếu tố này ở mức
dưới sự hài lòng (xem bảng 4).
Bảng 4. Mức độ hài lòng của du khách về dịch vụ ăn uống, mua sắm và giải trí
STT Biến đo lường P – E Biểu hiện Kết luận
1
2
3
Điểm tham quan có nhiều nhà hàng
Có nhiều cửa hàng đồ lưu niệm
Có nhiều hoạt động vui chơi giải trí
- 0,27**
- 0,28**
- 0,36**
P < E
P < E
P < E
Dưới mức hài lòng
Dưới mức hài lòng
Dưới mức hài lòng
Nguồn: Kết quả phân tích số liệu từ điều tra trực tiếp du khách năm 2013, n = 160
v) Về an ninh trật tự và an toàn
Du khách không cảm thấy hài lòng về biến nào trong các biến đo lường về an
ninh trật tự và an toàn ở các điểm du lịch miệt vườn (xem bảng 5).
Bảng 5. Mức độ hài lòng của du khách về an ninh trật tự và an toàn
STT Biến đo lường P – E Biểu hiện Kết luận
1
2
3
Không có tình trạng chèo kéo, thách giá
Không có tình trạng ăn xin
Không có tình trạng trộm cắp
- 0,54**
- 0,37**
- 0,50**
P < E
P < E
P < E
Dưới mức hài lòng
Dưới mức hài lòng
Dưới mức hài lòng
Nguồn: Kết quả phân tích số liệu từ điều tra trực tiếp du khách năm 2013, n = 160
vi) Về hướng dẫn viên du lịch
Hướng dẫn viên du lịch chưa được đánh giá cao khi mà tất cả các biến đo lường
đều ở mức dưới sự hài lòng của du khách (xem bảng 6).
Bảng 6. Mức độ hài lòng của du khách về hướng dẫn viên du lịch miệt vườn
STT Biến đo lường P – E Biểu hiện Kết luận
1
2
3
4
5
Nhanh nhẹn, linh hoạt
Nhiệt tình, tận tụy với công việc
Chân thật, lịch sự và tế nhị
Kiến thức tổng hợp tốt
Kĩ năng giao tiếp, ứng xử tốt
- 0,42**
- 0,23**
- 0,28**
- 0,24**
- 0,32**
P < E
P < E
P < E
P < E
P < E
Dưới mức hài lòng
Dưới mức hài lòng
Dưới mức hài lòng
Dưới mức hài lòng
Dưới mức hài lòng
Nguồn: Kết quả phân tích số liệu từ điều tra trực tiếp du khách năm 2013, n = 160
vii) Về giá cả các loại dịch vụ
Giá cả các loại dịch vụ du lịch miệt vườn chưa hợp lí vì du khách đánh giá tất cả
các biến đều ở dưới mức hài lòng (xem bảng 7).
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 52 năm 2013
_____________________________________________________________________________________________________________
50
Bảng 7. Mức độ hài lòng của du khách về giá cả các loại dịch vụ
STT Biến đo lường P – E Biểu hiện Kết luận
1
2
3
4
5
Giá cả ăn uống rẻ
Giá cả tham quan rẻ
Giá cả giải trí rẻ
Giá cả mua sắm rẻ
Giá cả lưu trú rẻ
- 0,58**
- 0,51**
- 0,50**
- 0,51**
- 0,49**
P < E
P < E
P < E
P < E
P < E
Dưới mức hài lòng
Dưới mức hài lòng
Dưới mức hài lòng
Dưới mức hài lòng
Dưới mức hài lòng
Nguồn: Kết quả phân tích số liệu từ điều tra trực tiếp du khách năm 2013, n = 160
Nhìn chung, du khách cảm thấy dưới mức hài lòng ở tất cả các biến đo lường trên
(xem từ bảng 1 đến bảng 7). Điều này chứng tỏ các nguồn lực, dịch vụ, giá cả các loại
dịch vụ du lịch miệt vườn vùng đồng bằng sông Cửu Long vẫn còn nhiều hạn chế, cần
phải được đầu tư cải thiện.
Dùng phương pháp thống kê mô tả tính giá trị trung bình của 7 tiêu chí, chúng tôi
thu được kết quả như ở bảng 8 dưới đây:
Bảng 8. Mức độ hài lòng của du khách về các khía cạnh liên quan đến du lịch
STT Tiêu chí Số trung bình Đánh giá
1
2
3
4
5
6
7
Cơ sở hạ tầng
Cơ sở lưu trú
Phương tiện vận chuyển tham quan
Dịch vụ ăn uống, mua sắm và giải trí
An ninh trật tự, an toàn
Hướng dẫn viên du lịch
Giá cả các loại dịch vụ
3,57
3,43
3,50
3,61
3,72
3,72
3,44
Khá hài lòng
Bình thường
Khá hài lòng
Khá hài lòng
Khá hài lòng
Khá hài lòng
Bình thường
Nguồn: Kết quả phân tích số liệu từ điều tra trực tiếp du khách năm 2013, n = 160
Bảng 8 cho thấy ở tất cả 7 tiêu chí,
du khách đều đánh giá dưới mức hài lòng
(dưới 4 điểm).
Mức độ hài lòng chung đạt 3,61
điểm, cho thấy du khách chỉ cảm thấy
khá hài lòng (dưới mức hài lòng) về
chuyến du lịch miệt vườn.
Ở mức ý nghĩa = 0,01, độ tin cậy
99%, kiểm định Pearson (2-phía), mức độ
hài lòng của du khách có tương quan
thuận với việc họ dự định sẽ quay lại du
lịch ở những lần tiếp theo. Theo Cao Hào
Thi [9], r < 0,4: tương quan yếu; r =
0,4-0,8: tương quan trung bình; r > 0,8:
tương quan mạnh. Kết quả phân tích cho
thấy, tương quan giữa hai biến mức độ
hài lòng và dự định quay lại du lịch ở
những lần tiếp theo (r = 0,46), tương
quan trung bình.
Ở mức ý nghĩa = 0,01, độ tin cậy
99%, kiểm định Pearson (2-phía), mức độ
hài lòng của du khách có tương quan
thuận với việc họ dự định sẽ giới thiệu du
lịch đến người thân và bạn bè (quảng cáo
bằng truyền miệng). Kết quả phân tích
cho thấy, tương quan giữa hai biến mức
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Nguyễn Trọng Nhân
_____________________________________________________________________________________________________________
51
độ hài lòng và dự định giới thiệu du lịch
đến khách hàng tiềm năng (r = 0,63)
tương quan trung bình.
3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự hài
lòng của du khách
Để phân tích các nhân tố ảnh hưởng
đến sự hài lòng của du khách, chúng tôi
sử dụng 7 biến đo lường: (1) Cơ sở hạ
tầng phục vụ du lịch; (2) Cơ sở lưu trú;
(3) Phương tiện vận chuyển tham quan;
(4) Dịch vụ ăn uống, mua sắm và giải trí;
(5) An ninh trật tự và an toàn; (6) Hướng
dẫn viên du lịch; và (7) Giá cả các loại
dịch vụ.
Sử dụng phương pháp đánh giá độ
tin cậy thang đo (Scale Reliability
Analysis) để loại bỏ những biến có hệ số
tương quan biến - tổng hiệu chỉnh
(corrected item-total correlation) nhỏ hơn
0,3 (do không đủ độ tin cậy) [3; tr.88] và
đảm bảo Cronbach’s Alpha không nhỏ
hơn 0,7 (vì theo Hoàng Trọng và Chu
Nguyễn Mộng Ngọc [7; tr.24],
Cronbach’s Alpha từ 0,8 đến gần 1 thì
thang đo lường là tốt, từ 0,7 đến gần 0,8
thì thang đo lường sử dụng được). Sau
khi đánh giá độ tin cậy của thang đo
(bảng 9) cho thấy, không có biến nào có
hệ số tương quan biến - tổng hiệu chỉnh
nhỏ hơn 0,5 và Cronbach’s Alpha =
0,854. Vậy thang đo lường tốt, do đó tất
cả 7 biến này đều được sử dụng để phân
tích nhân tố khám phá tiếp theo.
Bảng 9. Cronbach’s Alpha
Biến quan sát
Cronbach’s Alpha = 0,854
Tương quan biến-
tổng hiệu chỉnh
Cronbach’s
Alpha nếu loại
biến này
Cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch
Cơ sở lưu trú
Phương tiện vận chuyển tham quan
Dịch vụ ăn uống, mua sắm và giải trí
An ninh trật tự và an toàn
Hướng dẫn viên du lịch
Giá cả các loại dịch vụ
0,544
0,614
0,660
0,639
0,629
0,627
0,630
0,844
0,835
0,829
0,831
0,835
0,833
0,832
Nguồn: Kết quả phân tích số liệu từ điều tra trực tiếp du khách năm 2013, n = 160
Trước khi chính thức tiến hành
phân tích nhân tố khám phá, dùng kiểm
định KMO (Kaiser-Meyer-Olkin
Measure of sampling adequacy) và
Bartlett (Bartlett’s Test of Sphericity) để
kiểm tra mức độ thích hợp của dữ liệu.
Theo Kaiser (1974; 6, tr. 397) KMO ≥
0,9: rất tốt; KMO ≥ 0,8: tốt; KMO ≥ 0,7
được; KMO ≥ 0,6: tạm được; KMO ≥
0,5: xấu và KMO < 0,5: không thể chấp
nhận được. Theo Hoàng Trọng và Chu
Nguyễn Mộng Ngọc (8, tr. 30), nếu kiểm
định Bartlett có giá trị Sig. > 0,05 thì
không nên áp dụng phân tích nhân tố.
Sau khi kiểm định, chỉ số KMO của
dữ liệu = 0,874 và Bartlett có giá trị Sig.
= 0,000 (Sig. < 0,05: có ý nghĩa thống
kê) (xem bảng 10). Vậy dữ liệu thích hợp
để phân tích nhân tố khám phá.
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 52 năm 2013
_____________________________________________________________________________________________________________
52
Bảng 10. Kiểm định KMO và Bartlett
KMO and Bartlett’s Test
Kaiser-Meyer-Olkin Measure of sampling
adequacy.
Bartlett’ Test of Sphericity
Approx. Chi-Square
df
Sig.
.874
393.399
21
.000
Nguồn: Kết quả phân tích số liệu từ điều tra trực tiếp du khách năm 2013, n= 160
Trong phân tích nhân tố, nghiên cứu sử dụng phép trích là Principal Components
với phép quay Varimax.
Dựa vào bảng ma trận nhân tố (bảng 11) ta thấy các biến đo lường đều có phần
chung với một và chỉ một nhân tố.
Bảng 11. Ma trận nhân tố
Nhân tố
Biến đo lường
1
Cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch
Cơ sở lưu trú
Phương tiện vận chuyển tham quan
Dịch vụ ăn uống, mua sắm và giải trí
An ninh trật tự và an toàn
Hướng dẫn viên du lịch
Giá cả các loại dịch vụ
0,671
0,731
0,766
0,744
0,740
0,740
0,740
Nguồn: Kết quả phân tích số liệu từ điều tra trực tiếp du khách năm 2013, n= 160
Để đảm bảo mức ý nghĩa thiết thực
của phân tích nhân tố khám phá, cần loại
những biến đo lường có hệ số tải nhân tố
không đạt tiêu chuẩn ở từng nhân tố.
Theo Hair và cộng sự (1998) [1], hệ số
tải nhân tố là chỉ tiêu để đảm bảo mức ý
nghĩa thiết thực của phân tích nhân tố
khám phá. 0,3 < hệ số tải nhân tố ≤ 0,4
được xem là đạt mức tối thiểu, 0,4 < hệ
số tải nhân tố ≤ 0,5 được xem là quan
trọng, hệ số tải nhân tố > 0,5 được xem là
có ý nghĩa thực tiễn.
Cũng theo Hair và cộng sự (1998)
[1] nếu chọn tiêu chuẩn 0,3 < hệ số tải
nhân tố ≤ 0,4 thì cỡ mẫu ít nhất phải là
350, nếu cỡ mẫu khoảng 100 thì nên chọn
tiêu chuẩn hệ số tải nhân tố > 0,55, nếu
cỡ mẫu khoảng 50 thì chọn hệ số tải nhân
tố > 0,75.
Mẫu nghiên cứu là 160 quan sát, do
đó biến đo lường được chọn khi có hệ số
tải nhân tố > 0,55.
Bảng 11 cho thấy, tất cả các biến
đều có hệ số tải nhân tố lớn hơn 0,55.
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Nguyễn Trọng Nhân
_____________________________________________________________________________________________________________
53
Bảng 12. Ma trận điểm số nhân tố
Nhân tố Biến đo lường
1
Cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch
Cơ sở lưu trú
Phương tiện vận chuyển tham quan
Dịch vụ ăn uống, mua sắm và giải trí
An ninh trật tự và an toàn
Hướng dẫn viên du lịch
Giá cả các loại dịch vụ
0,178
0,194
0,203
0,197
0,197
0,197
0,196
Nguồn: Kết quả phân tích số liệu từ điều tra trực tiếp du khách năm 2013, n = 160
Dựa vào kết quả các hệ số có giá trị
lớn trong bảng ma trận điểm số nhân tố
(bảng 12), ta có phương trình nhân tố như
sau:
F = 0,178 X1 + 0,194 X2 + 0,203 X3
+ 0,197 X4 + 0,197 X5 + 0,197 X6 +
0,196 X7
Sự hài lòng của du khách đối với du
lịch miệt vườn chịu sự tác động của 7
thành phần X1 (cơ sở hạ tầng), X2 (cơ sở
lưu trú), X3 (phương tiện vận chuyển), X4
(dịch vụ ăn uống, mua sắm và giải trí),
X5 (an ninh trật tự và an toàn), X6 (hướng
dẫn viên du lịch) và X7 (giá cả các loại
dịch vụ). Trong 7 thành phần, X3, X4, X5
và X6 tác động mạnh nhất đến sự hài lòng
của du khách vì có điểm số nhân tố lớn
nhất lần lượt là: 0,203; 0,197; 0,197 và
0,197.
3.4. Giải pháp nâng cao sự hài lòng
của du khách
Căn cứ vào kết quả đánh giá mức
độ hài lòng của du khách cùng với các
nhân tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của du
khách, chúng tôi đề xuất một số giải pháp
nhằm nâng cao sự hài lòng của du khách
về du lịch miệt vườn như sau:
i) Đối với cơ sở hạ tầng
Cần mở rộng và nâng cấp đường sá
đến điểm tham quan (nhất là ở cù lao An
Bình và cồn Thới Sơn); quy hoạch bãi đỗ
xe, bến tàu du lịch tham quan miệt vườn
rộng rãi và giữ gìn sạch sẽ (ở An Bình,
Bình Hòa Phước và Thới Sơn); xây dựng
thêm nhà vệ sinh và phải đảm bảo vấn đề
vệ sinh (nhất là ở cù lao An Bình, Bình
Hòa Phước và cồn Thới Sơn).
ii) Đối với cơ sở lưu trú
Phòng nghỉ cần phải sạch sẽ,
thoáng mát và đầy đủ tiện nghi; nhân
viên phục vụ cần thân thiện, lịch sự và
nhiệt tình hơn; việc xây dựng cơ sở lưu
trú nơi có vị trí thuận lợi và cảnh quan
đẹp cũng góp phần gia tăng sự hài lòng
của du khách.
iii) Đối với phương tiện vận chuyển
tham quan
Cần phải được trang bị dụng cụ y tế
và phải đảm bảo sự an toàn cho du
khách; nhân viên phục vụ mảng dịch vụ
này cần phải được đào tạo, tập huấn để
có thái độ, tác phong phục vụ tốt hơn và
thể hiện được tính chuyên nghiệp.
iv) Đối với dịch vụ ăn uống, mua sắm
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 52 năm 2013
_____________________________________________________________________________________________________________
54
và giải trí
Các điểm du lịch cần phải được đầu
tư phát triển thêm nhiều loại hình vui
chơi giải trí, cửa hàng đồ lưu niệm và nhà
hàng để du khách vừa “có gì đó để làm
khi không phải làm cái gì” đồng thời đáp
ứng được tối đa nhu cầu của du khách và
hạn chế được sự “độc quyền” trong du
lịch.
v) Đối với vấn đề an ninh trật tự và an
toàn
Các điểm du lịch cần thiết lập đội
bảo vệ để tránh tình trạng chèo kéo, thách
giá và trộm cắp ở điểm du lịch. Bên cạnh
đó, công tác quy hoạch du lịch cần phải
được thực hiện để hoạt động du lịch đi
vào nề nếp.
vi) Đối với hướng dẫn viên du lịch
Hướng dẫn viên du lịch cần nhanh
nhẹn, linh hoạt, nhiệt tình, thật thà, lịch
sự, tế nhị; chú ý đến kĩ năng giao tiếp,
ứng xử và học tập, trau dồi để có kiến
thức tổng hợp cũng như khả năng diễn
đạt tốt.
vii) Đối với giá cả các loại dịch vụ
Giá cả các loại dịch vụ du lịch miệt
vườn như ăn uống, tham quan và mua
sắm cần phải được điều tiết hợp lí hơn, vì
thực tế có rất nhiều du khách tỏ thái độ
không hài lòng về chỉ tiêu này.
4. Kết luận
Miệt vườn vùng đồng bằng sông
Cửu Long được du khách đánh giá ở mức
khá hấp dẫn (3,61 điểm theo thang đo 5
cấp độ, thấp nhất là 1 và cao nhất là 5).
Có thể nói, đây là cơ hội để khai thác hệ
sinh thái nông nghiệp (vườn) phục vụ
nhu cầu tham quan của du khách trong
tương lai. Tuy nhiên, theo kết quả khảo
sát, du khách chỉ cảm thấy dưới mức hài
lòng về chuyến du lịch ở miệt vườn và
điều này bị tác động bởi nhiều yếu tố: (1)
nhà vệ sinh thiếu và không đảm bảo vệ
sinh; đường sá đến điểm tham quan chật
hẹp; (2) phòng ở chưa sạch sẽ, thoáng
mát và đầy đủ tiện nghi; nhân viên chưa
thân thiện, lịch sự và nhiệt tình; (3)
phương tiện tham quan không có đầy đủ
dụng cụ y tế và độ an toàn chưa cao; (4)
điểm tham quan chưa có nhiều hoạt động
vui chơi giải trí và cửa hàng đồ lưu niệm;
(5) vẫn còn tình trạng chèo kéo, thách giá
và trộm cắp ở điểm du lịch; (6) hướng
dẫn viên du lịch chưa nhanh nhẹn, linh
hoạt và kĩ năng giao tiếp, ứng xử chưa
tốt; (7) Giá cả ăn uống, tham quan và
mua sắm chưa hợp lí. Để nâng cao sự hài
lòng của du khách, cần phải cải thiện
những tồn tại này và những giải pháp đề
xuất nêu trên cũng nhằm mục đích đó.
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy,
sự hài lòng của du khách càng cao thì khả
năng quay lại du lịch ở những lần tiếp
theo càng lớn, đồng thời cũng kích thích
việc quảng cáo du lịch bằng hình thức
truyền miệng (mouth-to-mouth).
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Nguyễn Trọng Nhân
_____________________________________________________________________________________________________________
55
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Khánh Duy (2013), “Phân tích nhân tố khám phá (Exploratory Factor Analysis) bằng
SPSS”, Chương trình giảng kinh tế Fulbright,
L11V.pdf, truy cập ngày 27-6-2013, 24 trang.
2. Nguyễn Văn Đính, Trần Thị Minh Hòa (2004), Giáo trình kinh tế du lịch, Nxb Lao
động - Xã hội.
3. Nguyễn Hồng Giang, Lưu Thanh Đức Hải (2011), “Phân tích các nhân tố ảnh hưởng
đến sự hài lòng của du khách khi đến du lịch ở Kiên Giang”, Tạp chí khoa học
Trường Đại học Cần Thơ, 19b, tr.85-96.
4. Hà Nam Khánh Giao (2011), Giáo trình marketing du lịch, Nxb Tổng hợp Thành
phố Hồ Chí Minh.
5. Trần Thị Mai (chủ biên), Vũ Hoài Phương, La Anh Hương, Nguyễn Khắc Toàn
(2006), Giáo trình Tổng quan du lịch, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.
6. Nguyễn Đình Thọ (2011), Phương pháp nghiên cứu khoa học trong kinh doanh -
Thiết kế và thực hiện, Nxb Lao động - Xã hội.
7. Hoàng Trọng, Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2008), Phân tích dữ liệu nghiên cứu với
SPSS (tập 1), Nxb Hồng Đức.
8. Hoàng Trọng, Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2008), Phân tích dữ liệu nghiên cứu với
SPSS (tập 2), Nxb Hồng Đức.
9. Phạm Lê Thảo (2006), Tổ chức lãnh thổ du lịch Hòa Bình trên quan điểm phát triển
bền vững, Luận án Tiến sĩ Địa lí, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
10. Cao Hào Thi (2012), “Tương quan và hồi quy tuyến tính”,
9
trang, truy cập ngày 2-11-2012.
11. Lê Thông, Nguyễn Minh Tuệ, Lê Mỹ Dung, Trần Ngọc Điệp, Nguyễn Trọng Đức,
Vũ Đình Hòa, Lê Văn Tin (2010), Địa lí du lịch Việt Nam, Nxb Giáo dục Việt Nam.
12. Bùi Thị Hải Yến (2006), Quy hoạch du lịch, Nxb Giáo dục.
13. Chen Y., Zhang H., Qiu L. (2012), A Review on Tourist Satisfaction of Tourism
Destinations, Proceedings of 2nd International Conference on Logistics, Informatics
and Service Science, DOI 10.1007/978-3-642-32054-5-83, 593-604.
14. Oliver L., R. (1980), A Cognitive Model of the Antecedents and Consequences of
Satisfaction Decisions, Journal of Marketing Research, Vol. 17, No. 4, pp. 460-469.
15. Tribe J., Snaith T. (1998), From SERVQUAL to HOLSAT: holiday satisfaction in
Varadero, Cuba, Tourism Management, 19 (1), 25-34.
(Ngày Tòa soạn nhận được bài: 27-9-2013; ngày phản biện đánh giá: 27-10-2013;
ngày chấp nhận đăng: 22-11-2013)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 05_938.pdf