Đánh giá nguy cơ viêm phổi và thực trạng công tác chăm sóc sau mổ trên người bệnh gây mê nội khí quản tại khoa điều trị 1C bệnh viện Việt Đức

Có tới 15,8% người bệnh cảm thấy đau rát họng sau gây mê và 24,2% người bệnh thấy ngứa họng. Điều này có lẽ là do những người bệnh gây mê phải đặt ống nội khí quản nên có thể bị tổn thương khí quản dẫn đến sau mổ người bệnh có cảm giác đau họng. So với kết quả của Dương Anh Khoa tỷ lệ người bệnh đau họng nhẹ là 36,7% và không đau là 63,3% thì tỷ lệ đau họng của hung tôi thấp hơn nhưng chúng tôi còn đưa ra số người bệnh cảm thấy ngứa họng và có cảm giác khó chịu họng sau gây mê. Những người bệnh sau mổ ho nhiều chiếm 28,4% và ho ít chiếm 31,2% nguyên nhân là do hầu hết các đối tượng nghiên cứu đều trên 50 tuổi, những người bệnh này đều là những người bệnh mổ bụng nên sau mổ nằm lâu và có lưu sonde dạ dày nên dễ gây ho và khó chịu. Đi cùng với ho thì những người bệnh thường kèm theo đờm dãi nhiều và khi những người bệnh có các triệu chứng này thì đều được các bác sỹ và điều dưỡng vỗ ho và cho người bệnh ngồi dậy và khí dung sau mổ. Những người bệnh này các điều dưỡng sẽ hướng dẫn ngồi dậy và vỗ rung cho người bệnh sau đó có thể sẽ hướng dẫn người nhà cùng phối hợp vỗ rung. Khi người bệnh hết truyền dịch và đỡ đau chúng tôi cho người bệnh tập vận động và tập đi. Trong số 95 người bệnh chúng tôi thấy có 1 (1,1%) người bệnh bị mất tiếng và 3 (3,2%) người bệnh bị khàn tiếng. Nguyên nhân có lẽ là do chưa kiểm soát được áp lực của cuff khi đặt ống nội khí quản và thời gian mổ dài nên cuff ống NKQ chèn ép quá lâu vào khí quản gây tổn thương. Kết quả này thấp hơn so với kết quả của tác giả Dương Anh Khoa tại Bệnh viện Việt Đức là 6,7% người bệnh khàn tiếng nhưng của tác giả lại không có người bệnh nào bị mất tiếng sau gây mê [2]. Trong số 95 người bệnh chúng tôi có 6 (6,3%) người bệnh bị sốt, ho và đờm dãi nhiều được bác sỹ chỉ định cho chụp X-quang phổi và kết quả đều có dịch màng phổi trong số đó cóa 2 người bệnh sau đó phải chuyển vào hồi sức và phòng hồi tỉnh. Kết quả khi người bệnh ra viên chúng tôi thấy có 80% người bệnh hết ho và có 17,8% người bệnh thấy giảm ho và chỉ có 1 trường hợp là mức độ ho không giảm.

pdf9 trang | Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 4 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá nguy cơ viêm phổi và thực trạng công tác chăm sóc sau mổ trên người bệnh gây mê nội khí quản tại khoa điều trị 1C bệnh viện Việt Đức, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
146 Taøi lieäu Hoäi nghò Khoa hoïc Quoác teá Ñieàu döôõng đánh giá nguy cơ viêm phổi và thực trạng công tác chăm sóc sau mổ trên người bệnh gây mê nội khí Quản tại khoa điều trị 1c bệnh viện việt đức ABSTRACT Background: Pneumonia is a common postoperative complication associated with substantial morbidity and mortality. Pneumonia ranks as the third most common postoperative infection, behind urinary tract and wound infection. Objective: (1) To assess a preoperative risk index for predicting postoperative pneumonia on tracheal general anaesthetic patient in 1C Department of Viet Duc Hospital. (2) Description of nursing care on postoperative patient with tracheal general anaestheasis. (3) To find risk factors associated with level of cough and level of mucus on postoperative patients. Method: Prospective cohort study. Including 100 pateints were surgery with tracheal general anaestheasis from 7 /2013 to 5/2014. Age more than 50 and hospitalisation more than 3 days. Conclusion: (1) Risk of postoperative pneumonia: Grade II: 51,6 %; grade III: 43,2 %; grade IV: 4,2 %; grade V: 1,1%. (2) Nursing care: Rate of sore throat postoperative patients (15,8%); rate of cough postoperative patients (59,6%); sign and symptom of postoperative pneumonia (6,3%); rate of discharge patient was not cough is 80 %; 17,9 % postoperative patients reduce cough when discharge and 1 pateint not reduce. (3) Age and grade of risk postoperative pneumonia associate with level cough of postoperative patient. Pateint have respiratory diseases also increased level cough of postoperative patients. Level of mucus of postoperative patient who was intubated stomach tube is higher than patient who was not intubated stomach tube. TÓM TẮT Với mục tiêu: (1) Đánh giá nguy cơ viêm phổi ở người bệnh sau mổ có gây mê nội khí quản tại khoa Điều trị 1C - Bệnh viện Việt Đức từ 7/2013 – 5/2014. (2) Khảo sát thực trạng công tác chăm sóc người bệnh sau mổ có gây mê nội khí quản. (3) Một số yếu tố ảnh hưởng tới mức độ ho và mức độ đờm dãi sau mổ của người bệnh. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mô tả tiến cứu với bộ câu hỏi và hồ sơ bệnh án. Đối tượng gồm 100 người bệnh tuổi trên 50 sau mổ trên 3 ngày được phẫu thuật và gây mê bằng phương pháp gây mê nội khí quản từ 7/2013 – 5/2014 tại khoa Điều trị 1C – Bệnh viện HN Việt Đức. Kết quả nghiên cứu: Nguy cơ viêm phổi sau mổ trên người bệnh có gây mê nội khí quản là: Mức độ 2 là 51,6%; mức độ 3 là 43,2%; mức độ 4 là 4,2 %; nguyễn bá anh*, lê minh hương*, lê tư hoàng*, nguyễn thanh long* * Khoa Điều trị 1C, Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức 147Naêm 2014 ĐẶT VẤN ĐỀ Viêm phổi sau mổ (VPSM) là biến chứng nhiễm trùng đứng thứ 3 sau nhiễm trùng đường tiết niệu và nhiễm trùng vết thương [7]. VPSM làm kéo dài thời gian nằm viện, tăng chi phí điều trị, tăng tỷ lệ bệnh tật và tử vong [4]. Theo NNISS (National Nosocomial Infection Surveillance system), tỷ lệ viêm phổi sau phẫu thuật là 18%, dao động từ 9 % – 40 %, trong đó tỷ lệ tử vong là 30% – 46%, phụ thuộc vào tính chất và mức độ của phẫu thuật. Việc đánh giá nguy cơ viêm phổi sau mổ ở người bệnh có thể giúp bảo vệ và chuẩn bị tốt cho chức năng hô hấp từ đó hạn chế các biến chứng về viêm phổi sau mổ.[6] Trên thế giới, đã có một số nghiên cứu về tình trạng VPSM, nghiên cứu của J.canet,V.mazo (2010) tại Tây Ban Nha cho rằng VPSM thường đe dọa tính mạng, nó có thể làm tăng tỷ lệ tử vong lên đến 20% [5]. Theo nghiên cứu của Ahsan M. Arozullah và cộng sự (2001) đã đưa ra 14 chỉ số để dự đoán nguy cơ viêm phổi ở những người bệnh sau mổ [1]. Tác giả nghiên cứu trên 160.805 người bệnh, trong đó có 2466 người bệnh bị viêm phổi chiếm 1,5%. Những người bệnh bị viêm phổi được chia ra làm 5 nhóm nguy cơ: nhóm nguy cơ 1 chiếm 0,2% (điểm từ 0-15), nhóm nguy cơ 2 chiếm 1,2% (điểm từ 16-25), nhóm nguy cơ thứ 3 là 4,0% (điểm từ 26-40), nhóm nguy cơ 4 là 9,4% (điểm từ 41-50), nhóm nguy cơ 5 là 15,3% (điểm > 55), tỷ lệ tử vong sau 30 ngày là 21%. Tại Việt Nam, nghiên cứu của Huỳnh Văn Bình và cộng sự tại khoa phẫu thuật gây mê Hồi sức - Bệnh viện NDGĐ năm 2009, đã khảo sát tình trạng viêm phổi ở người bệnh sau mổ có thở máy. Kết quả cho thấy: VPTMSM: Tỷ lệ VPTMSM 46,48%; tỷ lệ tử vong 33,33%; tỷ lệ MKQ 39,39%; thời gian thở máy 14,21 ± 8,34 ngày; thời gian nằm hồi sức 17,55 ± 9,49 ngày. VPTMSM khởi phát sớm 39,39%; muộn 60,61%. Viêm phổi theo phân loại nguy cơ PPRI mức 3 là 46%; mức 4 là 47,62% [3]. Khoa Điều trị 1C là một trong 3 đơn vị tại Bệnh viện HN Việt Đức có phòng mổ, hàng ngày khám và điều trị cho hàng trăm lượt người bệnh và phẫu thuật từ 10 đến 15 ca mỗi ngày. Hầu hết những mức độ 5 là 1,1%. Thực trạng công tác chăm sóc sau mổ: Có 5,3% người bệnh nhận thấy rất đau sau mổ và 40% người bệnh thấy đau vừa. Có tới 15,8% người bệnh cảm thấy đau rát họng sau gây mê và 24,2% người bệnh thấy ngứa họng. Sau mổ ho nhiều chiếm 28,4% và ho ít chiếm 31,2%. Có 6,3 % người bệnh sau khi khám và chụp X-quang có các biểu hiện của viêm phổi: Dịch màng phổi, rale bệnh lý... Có 80 % người bệnh khi ra viện là hết ho và 17,9% là giảm ho và chỉ có 1 trường hợp là ho không giảm. Các yếu tố ảnh hưởng: Tuổi người bệnh càng cao thì sau mổ tỷ lệ ho nhiều càng lớn, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p< 0,05. Những người bệnh có nguy cơ viêm phổi ở mức độ càng cao thì có tỷ lệ ho nhiều sau mổ càng lớn. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Những người bệnh có đặt sonde dạ dày thì tỷ lệ tăng tiết đờm dãi cao hơn so với người bệnh không đặt, sự khác biệt này có ý nghĩa với p < 0,05. Kết luận: (1) Nguy cơ viêm phổi sau mổ trên người bệnh có gây mê nội khí quản là: Mức độ 2 là 51,6%; mức độ 3 là 43,2%; mức độ 4 là 4,2 %; mức độ 5 là 1,1%. (2) Có tới 15,8% người bệnh cảm thấy đau rát họng sau gây mê và 24,2% người bệnh thấy ngứa họng. Ho nhiều sau mổ chiếm 28,4% và ho ít chiếm 31,2%. Có 6,3 % người bệnh có các biểu hiện của viêm phổi: Dịch màng phổi, rale bệnh lý... Có 80 % người bệnh khi ra viện là hết ho và 17,9% là giảm ho và chỉ có 1 trường hợp là ho không giảm. (3) Tuổi, mức độ nguy cơ viêm phổi và bệnh lý về hô hấp có ảnh hưởng đến mức độ ho của người bệnh. Những NB có đặt sonde dạ dày thì mức độ tăng tiết đờm dãi nhiều hơn so với những người bệnh không đặt sonde. 148 Taøi lieäu Hoäi nghò Khoa hoïc Quoác teá Ñieàu döôõng người bệnh sau mổ đều tiến triển tốt và ra viện, tuy nhiên một số trường hợp có các biến chứng như sốt, ho nhiều, đau rát họng, viêm phổido đó chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với các mục tiêu: 1. Đánh giá nguy cơ viêm phổi ở người bệnh sau mổ có gây mê nội khí quản tại khoa Điều trị 1C- Bệnh viện HN Việt Đức từ 7/2013 – 5/2014. 2. Khảo sát thực trạng công tác chăm sóc ở người bệnh sau mổ có gây mê nội khí quản tại khoa điều trị 1C - Bệnh viện HN Việt Đức. 3. Một số yếu tố ảnh hưởng tới mức độ ho và mức độ đờm dãi sau mổ của NB. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng nghiên cứu 1.1.Tiêu chuẩn lựa chọn: Gồm 100 người bệnh sau mổ trên 3 ngày được phẫu thuật và gây mê bằng phương pháp gây mê nội khí quản điều trị tại khoa Điều trị 1C – Bệnh viện HN Việt Đức. Tuổi trên 50. 1.2. Tiêu chuẩn loại trừ: Những người bệnh không nằm trong tiêu chuẩn lựa chọn trên và những người bệnh bị đau họng, ho nhiều, sốt. 1.3. Phương pháp nghiên cứu 1.3.1. Thiết kế nghiên cứu: Mô tả tiến cứu 1.3.2. Thời gian nghiên cứu: 7/2013 – 5/2014 1.3.3. Địa điểm nghiên cứu: Khoa Điều trị 1C – Bệnh viện Việt Đức 1.3.4. Phương pháp thu thập số liệu: Thu thập số liệu theo mẫu được thiết kế sẵn (Phụ lục 1). Phương pháp đánh giá: Đánh giá nguy cơ viêm phổi ở người bệnh sau mổ (Theo phương pháp Ahsan M. aorullah) [1]. STT Chỉ số đánh giá Thang điểm Điểm của NB 1 Loại phẫu thuật 1. Phục hồi phồng động mạch chủ bụng 15 2. Phẫu thuật ngực 14 3. Phẫu thuật bụng 10 4. PT vùng cổ, Phẫu thuật thần kinh 8 5. Phẫu thuật mạch máu 3 2 Tuổi 1. >=80 tuổi 17 2. 70-79 tuổi 13 3. 60-69 tuổi 9 4. 50-59 tuổi 4 3 Tình trạng chức năng (thực hiện các hoạt động cá nhân) 1. Phụ thuộc hoàn toàn 10 2. Phụ thuộc 1 phần 6 4 Sụt cân > 10% trong 6 tháng 7 5 Tiền sử tắc nghẽn phổi mạn tính (COPD) 5 6 Gây mê toàn thân 4 7 Mất cảm giác, suy yếu vỏ não 4 8 Tiền sử tại nạn CTSN, tổn thương mạch máu não 4 149Naêm 2014 STT Chỉ số đánh giá Thang điểm Điểm của NB 9 Nồng độ ure máu 1. < 2,86 mmol/l 4 2. 7,85-10,7 mmol/l 2 3. >=10,7 mmol/l 3 10 Truyền máu > 4 đơn vị 3 11 Mổ cấp cứu 3 12 Dùng steroid (cho bệnh mạn tính) 3 13 Hút thuốc trong 1 năm gần đây 3 14 Đã dùng rượu trên 2 tuần gần đây 2 Phân loại mức độ nguy cơ viêm phổi sau mổ Mức 1 (0-15 điểm) Mức 2 (16-25 điểm) Mức 3 (26-40 điểm) Mức 4 (41-55 điểm) Mức 5 (> 55 điểm) 1.3.5. Phương pháp phân tích số liệu: Các số liệu sau khi thu thập được làm sạch và phân tích bằng phần mềm SPSS 16.0. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 1. Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu Tuổi của đối tượng nghiên cứu trung bình là (63,7 ± 10,3) dao động từ (50 - 88), về giới nam chiếm 68,4% và nữ 31,6%. Phân loại phẫu thuật: PT tiêu hóa 60%; PT tiết niệu 15,8%; PT gan mật 18,9% ; PT chấn thương – CH 2,1%; PT khác 3,2%. Thời gian nằm viện trung bình (11,68 ± 4,96) ngày. Thời gian mổ trung bình là (117,7 ± 89) phút, thời gian thở máy trung bình là (249,5 ± 110) phút. 2. Đánh giá nguy cơ viêm phổi của người bệnh. Bảng 1. Phân loại nguy cơ viêm phổi Phân loại nguy cơ viêm phổi N Tỷ lệ % Mức độ 1 0 0 Mức độ 2 49 51,6 Mức độ 3 41 43,2 Mức độ 4 4 4,2 Mức độ 5 1 1,1 Từ bảng trên ta thấy hầu hết những người bệnh đều có nguy cơ bị viêm phổi sau mổ ở mức độ 2 và 3 với 51,6% và 43,2%. Các người bệnh trên đều có tuổi từ 50 trở lên và hầu hết đều là các phẫu thuật lớn, thời gian mổ kéo dài nên sau mổ người bệnh thường ít vận động. 3. Thực trạng công tác chăm sóc sau mổ Bảng 2.Tỷ lệ NB có đặt sonde dạ dày trong mổ Đặt sonde dạ dày N Tỷ lệ % Có 76 80 Không 19 20 Phần lớn những người bệnh mổ có gây mê đều được đặt sonde dạ dày. Bảng 3: Thời gian lưu sonde dạ dày sau mổ Thời gian lưu sonde dạ dày N Tỷ lệ % > =15 ngày 1 1,1 8-14 ngày 4 4,2 4 -7 ngày 52 54,7 < =3 ngày 17 17,9 Các đối tượng nghiên cứu thường sau mổ 4 đến 5 ngày là có trung tiện nên được các bác sỹ chỉ định rút sonde dạ dày. 150 Taøi lieäu Hoäi nghò Khoa hoïc Quoác teá Ñieàu döôõng Bảng 4. Đau sau mổ (Theo thang điểm VAS) Đau sau mổ N Tỷ lệ % Rất đau 5 5,3 Đau 38 40 Đau ít 44 46,3 Không đau 7 7,4 Những người bệnh có gây mê hầu hết là những người bệnh phẫu thuật bụng nên sau mổ mặc dù đã được dùng thuốc giảm đau nhưng số NB đau vẫn chiếm 40%. Bảng 5. Đau rát họng sau mổ Đau rát họng sau mổ N Tỷ lệ % Rất đau (đau liên tục) 3 3,2 Đau, rát (đau khi nuốt) 15 15,8 Ngứa họng 23 24,2 Không 53 53,8 Gần 50% số các đối tượng nghiên cứu có các biểu hiện ở họng sau gây mê nội khí quản, trong đó đau liên tục là 3,2%; đau rát khi nuốt là 15,8% và ngứa họng là 23%. Bảng 6. Khàn tiếng, mất tiếng sau gây mê Tỷ lệ khàn tiếng, mất tiếng N Tỷ lệ % Mất tiếng 1 1,1 Khàn tiếng 3 3,2 Không 91 95,7 Có 3,2% người bệnh bị khàn tiếng và 1,1% người bệnh bị mất tiếng. Bảng 7. Ho sau mổ Ho sau mổ N Tỷ lệ % Ho nhiều (> 10 lần) 27 28,4 Ho ít (5-10 lần) 30 31,6 Không ho 38 40 Sau mổ có gây mê nội khí quản người bệnh có thể bị xây xước khí quản hơn nữa còn lưu sonde dạ dày sau mổ nên số người bệnh bị ho nhiều là 27%, ho ít là 31,6%. Bảng 8. Mức độ đờm dãi sau mổ Mức độ đờm dãi sau mổ N Tỷ lệ % Đờm dãi nhiều 25 26,3 Đờm dãi ít 41 43,2 Không 29 30,5 Các đối tượng nghiên cứu là trên 50 tuổi, sau mổ nếu không vận động sớm và được vỗ ho thì tỷ lệ tăng tiết đờm dãi sẽ tăng cao. Bảng 9. Tỷ lệ sốt sau mổ Sốt sau mổ N Tỷ lệ % >38,5 độ 3 3,2 38 – 38,5 độ 7 7,4 37,5 – 37,9 độ 15 15,8 Không sốt 70 70,3 Bảng trên cho thấy có gần 30% số những người bệnh có sốt sau mổ. Chủ yếu là những người bệnh nằm lâu, ít vận động và những người bệnh có vấn đề về vết mổ như rò, dịch trong ổ bụng, dịch màng phổi. Bảng 10. Khí dung sau mổ Khí dung sau mổ N Tỷ lệ % Có 17 17,9 Không 78 82,1 Có 17,9% số người bệnh được khí dung và 82,1% người bệnh không cần khí dung. Bảng 11. Vỗ ho sau mổ Vỗ ho sau mổ N Tỷ lệ % Thường xuyên (>3 lần /ngày) 20 21,1 Thỉnh thoảng (1-3 lần /ngày) 35 36,5 Không 40 42,1 Hầu hết những người bệnh già yếu thường có các biểu hiện đờm dãi nhiều và ho nhiều nên đều được vỗ ho thường xuyên trên 3 lần/ngày. 151Naêm 2014 Bảng 12. Người thực hiện vỗ ho Người vỗ ho N Tỷ lệ % Điều dưỡng và người nhà NB 38 40,0 Người nhà (dưới sự hướng dẫn của NVYT) 17 17,9 Không 40 42,1 Với những người bệnh nặng hay người bệnh già yếu thì đều được các điều dưỡng vỗ ho và được điều dưỡng hướng dẫn người nhà vỗ ho. Bảng 13. Hỗ trợ và hướng dẫn vận động Hỗ trợ và hướng dẫn vận động N Tỷ lệ % Thường xuyên (>3 lần /ngày) 18 18,9 Thỉnh thoảng (1-3 lần /ngày) 73 76,8 Không 3 3,2 Những người bệnh sau mổ ngày thứ nhất và ngày thứ 2 đều được hướng dẫn vận động như ngồi dậy tại giường hay tập đi. Bảng 14. Chụp X.quang sau mổ X.quang sau mổ N Tỷ lệ % Có 6 6,4 Không 88 92,6 Trong số 94 người bệnh thì có 6 người bệnh có biểu hiện khó thở, ho nhiều và sốt được các bác sỹ chỉ định chụp X-quang phổi thì đều có các biểu hiện có dịch màng phổi, phổi có rale bệnh lý. Bảng 15. Hướng dẫn NB tập thổi bóng Hướng dẫn thổi bóng N Tỷ lệ % Có 5 5 Không 95 95 Trong số 6 NB được BS cho chụp X-quang phổi và siêu âm có ít dịch màng phổi thì có 5 NB được hướng dẫn tập thổi bóng để giãn nở các phế nang. Bảng 16. Kết quả khi ra viện Kết quả khi ra viện N Tỷ lệ % Hết ho 76 80 Giảm ho 17 17,9 Không giảm 1 1,1 Sau thời gian điều trị tại bệnh viện thì có 80 % người bệnh khi ra viện là hết ho và 17,9% là giảm ho và chỉ có 1 trường hợp là ho không giảm. 4. Một số yếu tố ảnh hưởng Bảng 17. Nhóm tuổi đến việc ho của người bệnh sau mổ Nhóm tuổi Ho sau mổ P<0,05 Ho nhiều Ho ít Không ho 50 - 59 9 14 18 60 - 69 5 10 16 70 - 79 9 3 3 >80 4 3 1 Tuổi người bệnh càng cao thì sau mổ tỷ lệ ho nhiều càng lớn. sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p< 0,05. Bảng 18. Ảnh hưởng của giới tính tới việc ho của NB sau mổ Giới Ho sau mổ P> 0,05 Ho nhiều Ho ít Không Nam 20 21 24 Nữ 7 9 14 Việc người bệnh bị ho sau mổ không có sự khác biệt về giới Bảng 19. Ảnh hưởng mức độ NCVP trước mổ đến việc ho của NB sau mổ Phân loại nguy cơ viêm phổi Ho sau mổ P< 0,05 Ho nhiều Ho ít Không ho Mức độ 2 9 15 25 Mức độ 3 13 15 13 Mức độ 4 4 0 0 Mức độ 5 1 0 0 152 Taøi lieäu Hoäi nghò Khoa hoïc Quoác teá Ñieàu döôõng Những người bệnh có nguy cơ mức độ càng cao thì có tỷ lệ ho nhiều sau mổ càng lớn. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p< 0,05. Bảng 20. Ảnh hưởng của bệnh lý về hô hấp trước mổ đến mức độ ho của NB Ho sau mổ Bệnh lý về hô hấp trước mổ P < 0,05 Có Không Ho nhiều 10 17 Ho ít 1 29 không 3 35 Những NB có bệnh lý về hô hấp trước mổ có tỷ lệ ho sau mổ cao hơn nhiều so với những NB không có bệnh lý. Bảng 21. Ảnh hưởng của việc đặt sonde dạ dày đến mức độ ho của NB sau mổ Ho sau mổ Sonde dạ dày P > 0,05 Có Không Ho nhiều 25 2 Ho ít 22 8 Không 29 9 Những NB có đặt và không đặt sonde dạ dày sau mổ không ảnh hưởng tới việc ho. Bảng 22. Ảnh hưởng của việc đặt sonde dạ dày đến mức độ đờm dãi của NB Mức độ đờm dãi Sonde dạ dày P< 0,05Có không Đờm dãi nhiều 24 1 Đờm dãi ít 33 8 Không 19 10 Tuy nhiên những người bệnh có đặt sonde dạ dày thì tỷ lệ tăng tiết đờm dãi cao hơn so với người bệnh không đặt. Sự khác biệt nàu có ý nghĩa với P < 0,05. BÀN LUẬN 1. Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu Tuổi trung bình của đối tượng nghiên cứu là (63,7 ± 10,3), tuổi nhỏ nhất là 50 và lớn nhất là 88. Kết quả này cao hơn so với kết quả của tác giả Huỳnh Văn Bình (2009) là 46,17 ± 20,24. Điều này là do các đối tượng nghiên cứu của chúng tôi tuổi từ 50 trở lên. Về giới thì tỷ lệ nam gấp hơn 2 lần so với nữ. Những người bệnh có thời gian nằm viện (11,68 ± 4,96) ngày, hầu hết người bệnh nằm viện từ 1 đến 2 tuần, những người bệnh nằm trên 3 tuần thường là những người bệnh có các biến chứng sau mổ. Các đối tượng nghiên cứu có thời gian mổ trung bình là (117,7 ± 89) phút và thời gian thở máy trung bình là (249,5 ± 110) phút. Những người bệnh chủ yếu là phẫu thuật bụng và phần lớn là phẫu thuật tiêu hóa 60%; phẫu thuật gan mật 18,9% và phẫu thuật tiết niệu 15,8% còn lại là các phẫu thuật khác. 2. Phân loại nguy cơ viêm phổi Bảng 9 cho ta thấy nguy cơ viêm phổi ở người bệnh gây mê nội khí quản là: mức độ 2 là 51,6%; mức độ 3 là 43,2%; mức độ 4 là 4,2 %; mức độ 5 là 1,1%. So với kết quả của tác giả J.CANET và V.MAZO là nguy cơ viêm phổi mức độ 1 là 0,24%; mức độ 2 là 1,18%; mức độ 3 là 4,6%; mức độ 4 là 10,8% và mức độ 5 là 15,9%. Chúng tôi thấy các đối tượng của chúng tôi có các nguy cơ mức 2 và 3 cao hơn nhưng các nguy cơ mức 4 và 5 thì kết quả của chúng tôi lại thấp hơn. Sự khác biệt này thứ nhất là do cỡ mẫu của chúng tôi nhỏ hơn, thứ 2 là các đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là trên 50 tuổi và sau mổ trên 3 ngày. Các phẫu thuật lớn, phẫu thuật bụng sau mổ có thể phải truyền máu, hơn nữa các người bệnh đều trên 50 tuổi chịu cuộc phẫu thuật lớn nên đau vết mổ do đó không dám vận động. 3. Thực trạng công tác chăm sóc sau mổ Dựa trên việc đánh giá theo thang điểm VAS ta thấy những người bệnh cảm thấy rất đau chỉ có 5,3% tuy nhiên những người bệnh đau vẫn chiếm 40% các đối tượng nghiên cứu. Cảm giác đau này nó ảnh hưởng tới sự vận động của người bệnh làm 153Naêm 2014 cho người bệnh nằm yên một tư thế trên giường mà không dám ngồi dậy. Có tới 15,8% người bệnh cảm thấy đau rát họng sau gây mê và 24,2% người bệnh thấy ngứa họng. Điều này có lẽ là do những người bệnh gây mê phải đặt ống nội khí quản nên có thể bị tổn thương khí quản dẫn đến sau mổ người bệnh có cảm giác đau họng. So với kết quả của Dương Anh Khoa tỷ lệ người bệnh đau họng nhẹ là 36,7% và không đau là 63,3% thì tỷ lệ đau họng của hung tôi thấp hơn nhưng chúng tôi còn đưa ra số người bệnh cảm thấy ngứa họng và có cảm giác khó chịu họng sau gây mê. Những người bệnh sau mổ ho nhiều chiếm 28,4% và ho ít chiếm 31,2% nguyên nhân là do hầu hết các đối tượng nghiên cứu đều trên 50 tuổi, những người bệnh này đều là những người bệnh mổ bụng nên sau mổ nằm lâu và có lưu sonde dạ dày nên dễ gây ho và khó chịu. Đi cùng với ho thì những người bệnh thường kèm theo đờm dãi nhiều và khi những người bệnh có các triệu chứng này thì đều được các bác sỹ và điều dưỡng vỗ ho và cho người bệnh ngồi dậy và khí dung sau mổ. Những người bệnh này các điều dưỡng sẽ hướng dẫn ngồi dậy và vỗ rung cho người bệnh sau đó có thể sẽ hướng dẫn người nhà cùng phối hợp vỗ rung. Khi người bệnh hết truyền dịch và đỡ đau chúng tôi cho người bệnh tập vận động và tập đi. Trong số 95 người bệnh chúng tôi thấy có 1 (1,1%) người bệnh bị mất tiếng và 3 (3,2%) người bệnh bị khàn tiếng. Nguyên nhân có lẽ là do chưa kiểm soát được áp lực của cuff khi đặt ống nội khí quản và thời gian mổ dài nên cuff ống NKQ chèn ép quá lâu vào khí quản gây tổn thương. Kết quả này thấp hơn so với kết quả của tác giả Dương Anh Khoa tại Bệnh viện Việt Đức là 6,7% người bệnh khàn tiếng nhưng của tác giả lại không có người bệnh nào bị mất tiếng sau gây mê [2]. Trong số 95 người bệnh chúng tôi có 6 (6,3%) người bệnh bị sốt, ho và đờm dãi nhiều được bác sỹ chỉ định cho chụp X-quang phổi và kết quả đều có dịch màng phổi trong số đó cóa 2 người bệnh sau đó phải chuyển vào hồi sức và phòng hồi tỉnh. Kết quả khi người bệnh ra viên chúng tôi thấy có 80% người bệnh hết ho và có 17,8% người bệnh thấy giảm ho và chỉ có 1 trường hợp là mức độ ho không giảm. KẾT LUẬN Từ kết quả nghiên cứu trên chúng tôi đi đến những kết luận sau: Tuổi trung bình của đối tượng nghiên cứu là (63,7 ± 10,3), tuổi nhỏ nhất là 50 và lớn nhất là 88. Về giới thì tỷ lệ nam gấp hơn 2 lần so với nữ. Các đối tượng nghiên cứu có thời gian mổ trung bình là (117,7 ± 89) phút và thời gian thở máy trung bình là (249,5 ± 110) phút. 1. Nguy cơ viêm phổi sau mổ trên người bệnh có gây mê nội khí quản là: mức độ 2 là 51,6%; mức độ 3 là 43,2%; mức độ 4 là 4,2 %; mức độ 5 là 1,1%. 2. Thực trạng công tác chăm sóc sau mổ: - Có 5,3% bệnh nhận thấy rất đau sau mổ và 40% người bệnh thấy đau vừa. Có tới 15,8% người bệnh cảm thấy đau rát họng sau gây mê và 24,2% NB thấy ngứa họng. - Những người bệnh sau mổ ho nhiều chiếm 28,4% và ho ít chiếm 31,2%. Một trường hợp người bệnh (1,1%) bị mất tiếng và 3 trường hợp người bệnh (3,2%) bị khàn tiếng sau mổ. Có 6,3 % người bệnh sau khi BS khám và cho chụp X-quang có các biểu hiện của viêm phổi: Dịch màng phổi, rale bệnh lý... - Sau thời gian điều trị tại bệnh viện thì có 80 % người bệnh khi ra viện là hết ho và 17,9% là giảm ho và chỉ có 1 trường hợp là ho không giảm. 3. Các yếu tố ảnh hưởng: - Tuổi người bệnh càng cao thì sau mổ tỷ lệ ho nhiều càng lớn. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. - Những người bệnh có nguy cơ viêm phổi mức độ càng cao thì có tỷ lệ ho nhiều sau mổ càng lớn. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. - Người bệnh có bệnh lý về phổi có tỷ lệ ho nhiều sau mổ cao hơn so với những NB khác không bị bệnh lý. 154 Taøi lieäu Hoäi nghò Khoa hoïc Quoác teá Ñieàu döôõng - Những người bệnh có đặt sonde dạ dày thì tỷ lệ tăng tiết đờm dãi cao hơn so với người bệnh không đặt, sự khác biệt này có ý nghĩa với p < 0,05. KHUYẾN NGHỊ - Đánh giá nguy cơ viêm phổi sau mổ là rất quan trọng, đặc biệt là những người bệnh trên 50 tuổi và những người bệnh gây mê. Từ đó biết được những người bệnh có nguy cơ cao để có kế hoạch chăm sóc sau mổ phù hợp. - Tỷ lệ người bệnh đau và rát họng còn khá cao nên khi gây mê NKQ cần có đồng hồ đo áp lực cuff của NKQ để kiểm soát áp lực cuff và nếu thời gian mổ trên 3 giờ nên tháo bớt áp lực cuff ống nội khí quản để giảm chèn ép khí quản. - Các điều dưỡng viên cần chú trọng những người bệnh cao tuổi, người bệnh ít vận động tích cực cho người bệnh vận động tại giường, ngồi dậy, vỗ ho và tập đi. - Những người bệnh có lưu sonde dày thì nên rút sớm nhất có thể để giảm tăng tiết đờm dãi, tránh các tổn thương ở lỗ mũi do cọ sát, do cố định sonde và giúp người bệnh vận động sớm được. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Asha M. Arozullah, Shukri F. Khuri, Jenifer Daley (2001) “development and Validation of a Multifactorial Risk Index for Predicting Postoperative Preumonia after Major Noncardiac Surgery”Annals of Internal Medicine.135, pp 847 – 857. 2. Dương Anh Khoa (2006) “Đánh giá hiệu quả và an toàn của phương pháp dùng Mask thanh quản Proseal trong gây mê nội soi” Luận án thạc sỹ y khoa, Trường Đại học Y Hà Nội, Hà Nội. 3. Huỳnh Văn Bình (2009), Khảo sát tình hình viêm phổi ở người bệnh sau mổ có thở máy tại khoa phẩu thuật gây mê hồi sức - bệnh viện Nhân Dân Gia Định, truy cập ngày 24/6/2013, tại trang web 4. Smetana GW (1999), “Preoperative pulmonary evaluation”, N Engl J Med. 340, tr. 937-944. 5. V.mazo J.canet (2010), “Postoperative Pulmonary Complications”, Minerva Anestesiol. 76, tr. 138-143. 6. Richard Sadovsky (2002), “Postoperative Pneumonia After Noncardiac Surgery”, Am Fam Physician. 65(9), tr. 1921-1922. 7. Sherry M. Wren (2010), A Strategy to Prevent Postoperative Pneumonia truy cập ngày 20/06/2013, tại trang web b1dblrg3.dpuf.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdanh_gia_nguy_co_viem_phoi_va_thuc_trang_cong_tac_cham_soc_s.pdf
Tài liệu liên quan