Ngoài việc đánh giá tác động kinh tế của đại dịch, nghiên cứu đã tìm hiểu sâu hơn
quá trình điều chỉnh của NSDLĐ và NLĐ nhằm ứng phó với khủng hoảng, trong
đó tập trung vào quá trình tham vấn với NLĐ cũng như tác động tới cuộc sống và
khả năng hồi phục của họ. Kết quả nghiên cứu cho thấy chưa nhiều DN tham vấn
NLĐ và CĐCS; NSDLĐ có dấu hiệu phân biệt đối xử với nhóm NLĐ dễ bị tổn
thương nhất và những tác động rộng lớn tới sức khỏe, quan hệ gia đình và mức
sống của NLĐ và gia đình họ.
Ngoài tác động trực tiếp tới DN và NLĐ, cuộc khủng hoảng Covid-19 cũng làm lộ
rõ những vấn đề đe dọa sự bền vững của các ngành, DN và cuộc sống của NLĐ.
Trong ngành xuất khẩu của Việt Nam, các nhà máy gia công trong chuỗi cung ứng
toàn cầu, lúc bình thường, nhận được mức lợi nhuận vô cùng khiêm tốn và trong
thời kỳ khủng hoảng, họ và NLĐ của mình là những người đầu tiên phải chịu rủi
ro khi các nhà mua hàng hủy đơn hàng hoặc từ chối thanh toán để bảo toàn
thanh khoản của mình.
Hậu quả của việc CĐCS chưa đại diện hiệu quả cho lợi ích của NLĐ đã trở nên
nghiêm trọng hơn trong khủng hoảng khi NLĐ chịu rủi ro trước cách ra quyết
định đơn phương của NSDLĐ và không được bảo vệ và đại diện khi thương lượng
với NSDLĐ để bảo vệ thu nhập và việc làm của mình. NLĐ phải sử dụng các hình
thức đấu tranh không chính thức để gây áp lực với NSDLĐ phải đối thoại và điều
chỉnh. Tuy nhiên công đoàn cấp trên các tỉnh đã tích cực và nhanh chóng giải
quyết các khiếu nại của NLĐ hứa hẹn một kênh đại diện quan trọng. Tuy nhiên sự
hỗ trợ của công đoàn cấp trên có giới hạn vì không phải NLĐ nào cũng tìm kiếm
sự hỗ trợ bên ngoài và không phải công đoàn địa phương nào cũng có đủ năng
lực và sự chủ động trong việc hỗ trợ NLĐ.
NLĐ trực tiếp được trả lương thấp và quá phụ thuộc vào lương tăng ca nên trong
thời kỳ đại dịch, họ bị ảnh hưởng nặng nề. Với nhiều NLĐ, mất đi lương tăng ca
tương đương việc mất 20-50% thu nhập. Do đó, hầu hết NLĐ chỉ đủ tiền tiết kiệm
để duy trì cuộc sống trong 3 tháng và với những người phải nuôi cả gia đình, họ
dễ dàng bị đẩy đến ngưỡng nghèo và đói.
Tuy nhiên nghiên cứu cũng hé lộ tia hy vọng vì nhiều DN và NLĐ đã thể hiện sự
kiên cường và khả năng khôi phục mạnh mẽ. Khá nhiều DN ngành hải sản, gỗ và
dệt may đã linh hoạt tìm kiếm các nguồn doanh thu thay thế hoặc đa dạng hóa
sản phẩm và và thị trường để giảm thiểu tác động của đại dịch. NLĐ cũng đã thích
nghi nhanh chóng bằng cách tìm kiếm các nguồn thu nhập bổ sung và dựa vào
mạng lưới xã hội của mình để duy trì cuộc sống.
50 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 292 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đánh giá nhanh tác động của đại dịch COVID-19 tới doanh nghiệp và người lao động trong một số ngành kinh tế chính: Ứng phó, điều chỉnh và khả năng phục hồi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lao động.
Điều 38 (1c) BLLĐ 2012: Người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp
đồng lao động trong trường hợp ..... Do thiên tai, hỏa hoạn hoặc những lý do bất khả
kháng khác theo quy định của pháp luật, mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện
pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải thu hẹp sản xuất, giảm chỗ làm việc.
Điều 44 BLLĐ 2012: Trường hợp thay đổi cơ cấu, công nghệ mà ảnh hưởng đến việc làm
của nhiều người lao động, thì người sử dụng lao động có trách nhiệm xây dựng và thực
hiện phương án sử dụng lao động .... Trong trường hợp người sử dụng lao động không thể
giải quyết được việc làm mới mà phải cho người lao động thôi việc thì phải trả trợ cấp mất
việc làm cho người lao động theo quy định tại Điều 49 của Bộ luật này.
Việc cho thôi việc đối với nhiều người lao động theo quy định tại Điều này chỉ được tiến
hành sau khi đã trao đổi với tổ chức đại diện tập thể lao động tại cơ sở và thông báo trước
30 ngày cho cơ quan quản lý nhà nước về lao động cấp tỉnh.
Điều 98 (3) BLLĐ 2012: Nếu vì sự cố về điện, nước mà không do lỗi của người sử dụng lao
động, người lao động hoặc vì các nguyên nhân khách quan khác như thiên tai, hoả hoạn, dịch
bệnh nguy hiểm, địch hoạ, di dời địa điểm hoạt động theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền hoặc vì lý do kinh tế, thì tiền lương ngừng việc do hai bên thoả thuận nhưng
không được thấp hơn mức lương tối thiểu vùng do Chính phủ quy định.
Điều 116(3) BLLĐ 2012: Ngoài quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này người lao động có
thể thoả thuận với người sử dụng lao động để nghỉ không hưởng lương.
Hộp 1: Quy định về điều chỉnh lao động do ảnh hưởng của COVID-19
Biện pháp ứng phó của doanh nghiệp
và quá trình điều chỉnh tại nơi làm việc
2.
Cho dù NSDLĐ đã rất nỗ lực ứng phó, nhưng khả năng phải ngừng hoạt động
thậm chí phá sản vẫn đe doạ nhiều DN. Theo khảo sát của chúng tôi, 25,9% DN đã
phá sản hoặc tạm ngừng hoạt động, 55,1% lo ngại DN sẽ phải đóng cửa nếu cuộc
khủng hoảng tiếp diễn thêm 3 tháng nữa. Với đa số DN còn hoạt động, hơn 30%
lao động đã bị ảnh hưởng bởi các biện pháp cắt giảm chi phí từ giảm lương, thời
gian làm việc cho tới nghỉ việc không lương19 (Hình 6).
Cuộc khủng hoảng Covid-19 đã thể hiện rõ tính dễ bị tổn thương của DN sản xuất và
NLĐ ở cuối chuỗi cung ứng toàn cầu khi mà trong thời điểm bình thường, họ nhận
được lợi ích ít nhất và trong thời kỳ khủng hoảng, họ là bên chịu tác động đầu tiên.
Tác động của đại dịch COVID-19 tới doanh nghiệp và người lao động trong
một số ngành kinh tế chính: Ứng phó, điều chỉnh và khả năng phục hồi
19 Từ ‘nghỉ việc’ là chỉ việc cho NLĐ nghỉ việc tạm thời. NLĐ có thể được nhận lương tối thiểu theo Điều 98 BLLĐ, ít
hơn mức tối thiểu hoặc không có lương (Điều 32 và 116 BLLĐ). Trong mọi trường hợp trên, Luật yêu cầu hai bên
phải thỏa thuận trước khi ra quyết định.
Đánh giá nhanh
21
Hình 5: Biện pháp ứng phó của DN (%; n=58)
Hình 6: Các biện pháp cắt giảm chi phí và tỉ lệ lao động DN bị ảnh hưởng (n=58)
Biện pháp ứng phó của doanh nghiệp
và quá trình điều chỉnh tại nơi làm việc
2.
Quá trình điều chỉnh về lao động
Việc áp dụng các biện pháp cắt giảm chi phí: dấu hiệu phân biệt đối xử về tuổi và
giới tính
Một câu hỏi quan trọng chưa được khảo sát nào trước đây giải đáp là NSDLĐ đã
áp dụng các biện pháp điều chỉnh lao động như thế nào? Chúng tôi hỏi NSDLĐ và
NLĐ về tiêu chí mà họ (hoặc DN của họ) đã áp dụng để lựa chọn đối tượng áp
dụng các biện pháp cắt giảm chi phí lao động. Theo NSDLĐ, tiêu chí quan trọng
nhất là liệu NLĐ đó có thuộc nhóm LĐ nòng cốt không, cũng có nghĩa NLĐ theo
HĐLĐ ngắn hạn/mùa vụ thường là nhóm bị cắt giảm đầu tiên. Kết quả này khẳng
định phát hiện của nhiều khảo sát trên thế giới rằng NLĐ thuộc các dạng công
việc không ổn định như LĐ ngắn hạn, LĐ tạm thời thường là nhóm dễ bị tổn
thương nhất do COVID-19. Khảo sát NLĐ lại cho thấy dấu hiệu NSDLĐ loại bỏ những
LĐ được cho là có năng lực làm việc kém với 36,2% DN lựa chọn tiêu chí này (Hình 8)
8,2% NLĐ cho rằng năng lực kém là một tiêu chí mà DN sử dụng để áp dụng biện
pháp cắt giảm chi phí (Hình 9).
Tác động của đại dịch COVID-19 tới doanh nghiệp và người lao động trong
một số ngành kinh tế chính: Ứng phó, điều chỉnh và khả năng phục hồi
Đánh giá nhanh
22
Hình 7: Các bước cắt giảm chi phí lao động
Hình 8: Tiêu chí DN sử dụng để chọn LĐ áp dụng các biện pháp cắt giảm? Hình 9: Nhóm LĐ nào bị áp dụng các biện pháp cắt giảm?
Không được
HĐ ngắn hạn hoặc không
Không
Biện pháp ứng phó của doanh nghiệp
và quá trình điều chỉnh tại nơi làm việc
2.
Theo NLĐ, cũng có tình trạng phân biệt đối xử với lao động lớn tuổi, phụ nữ (bao
gồm NLĐ nữ mang thai), và NLĐ không được quản lý ưu ái. NLĐ lớn tuổi là nhóm
mà 6,9% NSDLĐ lựa chọn để áp dụng biện pháp cắt giảm chi phí lao động. Đồng
thời, 9,9% NLĐ cho rằng NLĐ lớn tuổi là nhóm được áp dụng việc cắt giảm chi phí.
Một nhóm nhỏ (2,4%) NLĐ trong ngành may, điện tử và chế biến gỗ cho rằng NLĐ
nữ và NLĐ nữ mang thai và nuôi con nhỏ thường bị lựa chọn để cho nghỉ việc
hoặc thôi việc do họ phải dành nhiều thời gian cho gia đình và do đó có năng suất
lao động thấp chứ không phải vì lý do Covid-19:
Hai phần ba NSDLĐ không hiểu cách áp dụng quy định của luật về cắt giảm lao động
Covid-19 đặt ra một tình huống chưa từng có tiền lệ với cả NSDLĐ và các nhà
hoạch định chính sách. Mặc dù Bộ Luật Lao động 2012 đã quy định về việc cho
NLĐ nghỉ việc tạm thời và đơn phương chấm dứt HĐLĐ với NLĐ trong trường hợp
bất khả kháng, pháp luật chưa nêu rõ các tiêu chí đánh giá tác động của khủng
hoảng với DN và quy trình áp dụng các biện pháp cắt giảm lao động. Bộ LĐTBXH
đã ban hành Văn bản số 1064 ngày 25/3/2020 hướng dẫn việc điều chỉnh lương
cho NLĐ tại các DN bị ảnh hưởng của Covid-19, nhưng 64% DN trong khảo sát của
chúng tôi thừa nhận họ vẫn không hiểu rõ cách áp dụng quy định về cho nghỉ việc
tạm thời và thôi việc trong trường hợp bất khả khán (xem Hình 10). Trong trường
hợp không rõ cách áp dụng, NSDLĐ học kinh nghiệm từ các DN khác (24%), tham
khảo ý kiến các chuyên gia luật (7%) hoặc vẫn cứ áp dụng theo cách hiểu của mình
(16%) và 17% là không có hành động nào.
Tác động của đại dịch COVID-19 tới doanh nghiệp và người lao động trong
một số ngành kinh tế chính: Ứng phó, điều chỉnh và khả năng phục hồi
Đánh giá nhanh
23
“Công ty thường ít hàng từ tháng 4 đến tháng 6 và họ vẫn phải giảm lao
động trong thời điểm này. Năm nay, công ty lấy Covid làm cớ. Công nhân
nữ có con nhỏ hoặc có thai thường không được gia hạn hợp đồng vì họ
thường phải nghỉ nhiều” – Một công nhân điện tử 26 tuổi ở Bắc Ninh, đã
nghỉ việc hưởng lương 50% lương tối thiểu, phỏng vấn vào tháng 4/2020.
Biện pháp ứng phó của doanh nghiệp
và quá trình điều chỉnh tại nơi làm việc
2.
Tác động của đại dịch COVID-19 tới doanh nghiệp và người lao động trong
một số ngành kinh tế chính: Ứng phó, điều chỉnh và khả năng phục hồi
20 Kể cả trong hoàn cảnh bất khả kháng, NSDLĐ phải chứng minh họ đã dùng tất cả các cách khác trước khi phải
chấm dứt HĐLĐ đơn phương với NLĐ và họ phải báo trước cho NLĐ 30-45 ngày (nếu không, NSDLĐ phải trả lương
cho thời gian báo trước bị rút ngắn). Nếu NLĐ viết đơn xin nghỉ việc thì NSDLĐ có thể bỏ qua các bước trên.
Đánh giá nhanh
24
Hình 10: Hiểu biết của NSDLĐ về quy định pháp luật về cách thức cho nghỉ việc và thôi việc do tác động của dịch
Như đã nêu ở trên, có dấu hiệu cho thấy một bộ phận NSDLĐ đã dùng Covid-19
làm cớ để cho NLĐ thôi việc. Theo NLĐ, cán bộ công đoàn và các tổ chức xã hội,
một số DN yêu cầu NLĐ ký đơn tự nguyện nghỉ việc20. Một số LĐ đã gọi điện cho
công đoàn địa phương nhờ giúp đỡ trong khi nhiều công nhân khác đành chấp
nhận do áp lực từ DN:
Đối thoại và tham vấn NLĐ trong quá trình cắt giảm lao động
Mặc dù Covid-19 là một tình huống bất khả kháng nhưng NLĐ và công đoàn cần phải
được tham vấn, giải thích và thông tin về các quyết định mà DN đưa ra có ảnh hưởng
tới thu nhập và việc làm của họ. Đặc biệt trong trường hợp NLĐ bị cho nghỉ việc tạm
thời, có hoặc không có lương, Luật Lao động yêu cầu NLĐ và NSDLĐ phải cùng thống
nhất với quyết định đưa ra (Điều 32, 98 và 116 của Bộ Luật Lao động 2012). Chúng
tôi đã hỏi NSDLĐ và NLĐ cùng một câu hỏi về việc quản lý DN có tham vấn khi
thực hiện các biện pháp cắt giảm không, và nếu có họ tham vấn đối tượng nào.
Tôi không hề được báo trước. Một hôm phòng nhân sự yêu cầu công nhân
trong tổ tôi lên và bắt ký đơn xin thôi việc. Họ nói là vì tác động của Covid.
Chúng tôi không muốn ký nhưng không dám phản ứng’ – Một công nhân
may tại một doanh nghiệp FDI tại Hải Dương
‘Sau khi ban hành Văn bản 1064, một công ty Đài Loan yêu cầu 600 lao động
phải nộp đơn xin thôi việc. NLĐ gọi cho chúng tôi và chúng tôi can thiệp
ngay. Cuối cùng công ty phải trả 1 tháng lương và cho NLĐ nghỉ việc tạm
thời chứ không phải cho thôi việc’ – Một cán bộ công đoàn tỉnh Đồng Nai
Tác động của đại dịch COVID-19 tới doanh nghiệp và người lao động trong
một số ngành kinh tế chính: Ứng phó, điều chỉnh và khả năng phục hồi
Đánh giá nhanh
25
Biện pháp ứng phó của doanh nghiệp
và quá trình điều chỉnh tại nơi làm việc
2.
Trong cả hai khảo sát (Hình 11), đa số DN đưa ra quyết định đơn phương hoặc chỉ
tham vấn các quản lý bộ phận (63,4% NSDLĐ và 54,1% NLĐ). Nguyên nhân có thể
là do cán bộ công đoàn cơ sở trong nhiều DN cũng là quản lý nên việc tham vấn
CĐCS không quá quan trọng đối với NSDLĐ.
Mặc dù việc tham vấn NLĐ không phổ biến nhưng trên 60% NLĐ cho biết họ chấp
nhận quyết định của NSLĐ ngay vì họ “thông cảm với khó khăn của DN” (Hình 12). Tỉ
lệ phản đối của NLĐ cao nhất trong ngành chế biến gỗ, tiếp theo là ngành hải sản.
Hình 11: Tham vấn về các biện pháp cắt giảm chi phí lao động (%)
Hình 12: Tỉ lệ NLĐ chấp nhận và phản đối quyết định của NSDLĐ (n=292) Hình 13: Cách NSDLĐ ứng phó với sự phản đối của NLĐ (%; n=58)
Nhận định của NLĐ về cách DN tham vấn
Biện pháp ứng phó của doanh nghiệp
và quá trình điều chỉnh tại nơi làm việc
2.
Hầu hết các trường hợp NLĐ phản đối quyết định của DN là do họ không được hỏi
ý kiến và họ cho rằng các biện pháp cắt giảm lương, việc làm được áp dụng không
công bằng. Sau đây là phần trích dẫn từ các phỏng vấn sâu với NLĐ:
Không có trường hợp đình công nào được ghi nhận trong phạm vi khảo sát; tuy
nhiên NLĐ dùng nhiều cách khác để thể hiện sự bất đồng như khiếu nại với quản
lý, cán bộ công đoàn, nộp đơn lên công ty hoặc nói chuyện thẳng với ban giám
đốc. Mặc dù NSDLĐ đơn phương ra quyết định cắt giảm chi phí nhưng khi NLĐ
thể hiện sự bất đồng thì họ sẵn sàng đối thoại và đàm phán. Trong khảo sát DN,
41,3% NSDLĐ sẽ đối thoại nếu NLĐ không đồng ý với quyết định của họ và 48,2%
sẵn sàng điều chỉnh quyết định của mình theo yêu cầu của NLĐ. Chỉ có 7% không
có hành động gì, chủ yếu vì các DN này không còn lựa chọn nào khác. Chủ một
DN du lịch giải thích: “Chúng tôi chỉ có thể giữ được nhân viên nòng cốt. Một số nhân
viên phản ứng vì thời điểm đó rất khó kiếm việc khác. Nhưng tôi cũng không biết làm
thế nào vì công ty cũng bên bờ phá sản rồi.” Gần 20% NSDLĐ hỗ trợ thêm cho NLD
bị ảnh hưởng, nhất là những người phải nghỉ việc hoặc cho thôi việc, nhằm thuyết
phục họ chấp nhận quyết định của công ty. Các hình thức hỗ trợ bao gồm trả
thêm một tháng lương hoặc hỗ trợ hiện vật bằng gạo hoặc thậm chí là các sản
phẩm tồn kho, như trong trường hợp các DN chế biến hải sản.
Tác động của đại dịch COVID-19 tới doanh nghiệp và người lao động trong
một số ngành kinh tế chính: Ứng phó, điều chỉnh và khả năng phục hồi
Đánh giá nhanh
26
“Tôi không hề biết mình bị cắt trợ cấp cho đến khi nhận được phiếu trả
lương. Một số chị em đang có bầu hoặc nuôi con nhỏ không được gia hạn
hợp đồng” – Một công nhân chế biến hải sản ở Kiên Giang
“Em mới xong thời kỳ thử việc và ký hợp đồng 6 tháng thì bên nhân sự gọi
lên và yêu cầu em ký vào đơn xin thôi việc. Họ nói là vì Covid nên công ty
gặp nhiều khó khăn. Em cũng không muốn nhưng không biết làm gì khác”
– Một công nhân may ở Hải Dương
“Một nửa số lao động trong công ty là dân địa phương, lớn tuổi rồi. Hầu hết
họ cũng chẳng có hợp đồng gì, chỉ làm thời vụ. Cuối tháng 2, công ty bảo
là đơn hàng bên Mỹ bị hủy hết nên họ cho công nhân thời vụ nghỉ, không
hỗ trợ gì. Giờ bọn em cũng lo, chẳng biết khi nào đến lượt mình” – Một
công nhân chế biến gỗ ở Bình Định
Biện pháp ứng phó của doanh nghiệp
và quá trình điều chỉnh tại nơi làm việc
2.
NLĐ nữ và NLĐ trong các DN ra quyết định đơn phương có tỉ lệ hài lòng thấp nhất
NLĐ được yêu cầu đánh giá sự hài lòng của họ với cách thực hiện các biện pháp
cắt giảm của DN theo mức từ 1 (ít hài lòng nhất) đến 5 (hài lòng nhất). Kết quả là
LĐ nữ nhìn chung ít hài lòng hơn so với LĐ nam, nhất là trong ngành gỗ và du lịch
(Bảng 3). Một lý do là vì LĐ nữ thường nằm trong nhóm dễ bị tổn thương nhất,
bao gồm nhóm LĐ không có công việc ổ định. NLĐ cho rằng DN đưa ra quyết định
đơn phương cũng có mức hài lòng thấp nhất. Ngay cả trong nhóm này, LĐ nữ
cũng có mức hài lòng thấp hơn nam.
Mặc dù đa số NLĐ tỏ ra thông cảm với khó khăn của DN trong khủng hoảng,
NSDLĐ vẫn cần tham vấn và thương lượng với NLĐ bị ảnh hưởng để đảm bảo
NLĐ hợp tác, từ đó phòng ngừa tranh chấp lao động. Trong tháng 4/2020, việc áp
đặt đơn phương các biện pháp cắt giảm đã gây ra đình công ở công ty Tomiya
Summit21 ở Đồng Nai và Yesum Vina22 ở Tp. HCM.
Vai trò của công đoàn trong quá trình điều chỉnh nhân sự
Mặc dù khó có thể tổng quan hóa vấn đề do số lượng mẫu khảo sát của nghiên
cứu này quá nhỏ, nhưng nghiên cứu cho thấy có sự khác biệt lớn về cách tiếp cận
của công đoàn cơ sở và công đoàn cấp trên23. Khảo sát DN và NLĐ cho thấy CĐCS
đóng vai trò không đáng kể trong việc đối thoại và thương lượng giữa NSDLĐ và
NLĐ. Cụ thể, trong khảo sát DN, chỉ có 15,5% NSDLĐ tham vấn với CĐCS trước khi
ra quyết định và trong khảo sát NLĐ, chỉ có 4,1% NLĐ được CĐCS đại diện trong
việc thương lượng với NSDLĐ.
Tác động của đại dịch COVID-19 tới doanh nghiệp và người lao động trong
một số ngành kinh tế chính: Ứng phó, điều chỉnh và khả năng phục hồi
21 https://laodong.vn/cong-doan/cty-cho-nu-cong-nhan-lon-tuoi-ng-
hi-viec-bang-to-thong-bao-nho-nhu-gang-tay-801837.ldo
22 https://laodong.vn/cong-doan/tp-
cm-gan-600-cong-nhan-ngung-viec-vi-bi-cham-dut-hop-dong-lao-dong-799744.ldo
23 Ở đây nói đến công đoàn cấp tỉnh, quận/huyện và khu công nghiệp
Đánh giá nhanh
27
Bảng 3: Đánh giá mức độ hài lòng của NLĐ với quá trình điều chỉnh tại DN
Biện pháp ứng phó của doanh nghiệp
và quá trình điều chỉnh tại nơi làm việc
2.
Mặt khác, công đoàn cấp trên cơ sở ở Đồng Nai và Hải Phòng đã chủ động hỗ trợ
NLĐ. Công đoàn KKT Hải Phòng thương lượng với Hiệp hội DN Hàn Quốc để xây
dựng kế hoạch sử dụng lao động gồm 3 bước nhằm duy trì việc làm cho NLĐ.
Bước đầu tiên, NLĐ nghỉ việc tạm thời sẽ nhận được 70% lương cơ bản. Bước 2,
tiếp tục giảm lương. Bước cuối cùng, NLĐ nghỉ việc không lương nhưng vẫn duy trì
công việc.24 LĐLĐ Đồng Nai giám sát việc cho thôi việc của các công ty và can thiệp
ngay nếu NSDLĐ có dấu hiệu lợi dụng đại dịch để sa thải NLĐ không thỏa đáng.25
Triển vọng phục hồi sau dịch và hình thức
hỗ trợ doanh nghiệp
Vào thời điểm thực hiện báo cáo, các biện pháp phong tỏa và giãn cách xã hội đã
được gỡ bỏ, tạo điều kiện cho sự phục hồi của thị trường nội địa. Tuy nhiên, sự hồi
phục của khu vực xuất khẩu phụ thuộc trước hết vào thị trường Hoa kỳ và châu Âu
(Hình 14). Gần 1/3 DN cho rằng họ cần có hỗ trợ mới có thể hồi phục và 36,2% cho
rằng việc phục hồi sẽ mất nhiều thời gian.
Tác động của đại dịch COVID-19 tới doanh nghiệp và người lao động trong
một số ngành kinh tế chính: Ứng phó, điều chỉnh và khả năng phục hồi
24 Phỏng vấn chủ tịch công đoàn KKT Hải Phòng, tháng 4/2020
25 Phỏng vấn đại diện LĐLĐ Đồng Nai, tháng 4/2020
Đánh giá nhanh
28
Hình 14: Triển vọng phục hồi nếu dịch kết thúc vào tháng 6/2020 (n=58) Hình 15: Mức độ quan trọng của các hình thức hỗ trợ DN (n=58)
Biện pháp ứng phó của doanh nghiệp
và quá trình điều chỉnh tại nơi làm việc
2.
Mặc dù cộng đồng DN có nhiều ý kiến không đồng tình với việc điều chỉnh LTT vùng
hàng năm nhưng trong khảo sát này NSDLĐ không cho rằng việc điều chỉnh LTT
quan trọng với DN như các biện pháp khác. NSDLĐ cho rằng họ vốn đã có kế hoạch
tăng lương cho NLĐ rồi. Trong số các biện pháp hỗ trợ cho DN, quan trọng nhất là
việc giảm thuế như giảm đóng BHXH và trích nộp kinh phí công đoàn (Hình 15). Kết
quả này tương đồng với khảo sát của ĐH Kinh tế quốc dân là đối với DNVVN, việc
giảm chi phí vận hành hiệu quả hơn là giảm lãi suất tín dụng (NEU 2020). Thực tế,
theo VCCI mới chỉ có 20% DN bị ảnh hưởng bởi đại dịch được tiếp cận các chương
trình ưu đãi lãi suất của Chính phủ.26 Quy trình phức tạp và yêu cầu phải thế chấp
là khó khăn lớn nhất với DNVVN trong việc tiếp cận các khoản vay.27
Tác động của đại dịch COVID-19 tới doanh nghiệp và người lao động trong
một số ngành kinh tế chính: Ứng phó, điều chỉnh và khả năng phục hồi
26 https://congluan.vn/doanh-nghiep-van-kho-tiep-can-cac-goi-ho-tro-post78714.html
27 Bản tin VITAS, tháng 5/2020
Đánh giá nhanh
29
Theo Tổng cục Thống kê, cho đến giữa tháng 4/2020 đã có gần 5 triệu NLĐ bị ảnh
hưởng bởi đại dịch. Trong đó, 13% mất việc, 59% phải nghỉ việc tạm thời và 28%
phải giãn ca.28 Các ngành chế biến và chế tạo bị ảnh hưởng nặng nhất với 1,2
triệu việc làm bị tác động, tiếp theo là ngành bán buôn và bán lẻ với 1,1 triệu việc
làm. Phân tích gần đây của ILO Việt Nam dự đoán tới cuối Quý II/2020 cuộc khủng
hoảng này sẽ tác động tới việc làm và thu nhập của 4,6-10,3 triệu NLĐ ở Việt Nam
(ILO Vietnam 2020). Trên cơ sở các số liệu trên, Chương này sẽ tìm hiểu sâu hơn về
tác động của đại dịch tới các khía cạnh việc làm, thu nhập, sức khỏe và đời sống
của NLĐ cũng như các biện pháp họ đã sử dụng để ứng phó và phục hồi.
Tác động tới thu nhập và việc làm
Tác động của đại dịch tới thu nhập và việc làm của NLĐ rất lớn. Khảo sát NLĐ cho
thấy 18,1% NLĐ, chủ yếu là NLĐ trong các hộ kinh doanh và DN cực nhỏ, nhỏ và
vừa, đã mất việc làm hoặc toàn bộ thu nhập tại thời điểm phỏng vấn và 5,8% chỉ
còn mức lương thấp hơn mức tối thiểu (Hình 16). Thậm chí với 15,8% NLĐ vẫn giữ
được việc làm và thu nhập, họ không có thu nhập từ làm thêm giờ, thường chiếm
tới 50% tổng thu nhập bình thường đối với NLĐ ngành may hoặc điện tử (Do 2017).
Tác động của đại dịch COVID-19 tới doanh nghiệp và người lao động trong
một số ngành kinh tế chính: Ứng phó, điều chỉnh và khả năng phục hồi
28 https://e.vnexpress.net/news/business/data-speaks/five-mil-
lion-vietnamese-workers-lose-jobs-to-covid-19-4089701.html
Đánh giá nhanh
Người lao động: Tác động,
ứng phó và khả năng phục hồi
3.
30
Hình 16: Tác động tới việc làm và thu nhập của NLĐ Hình 17: Tác động tới thu nhập NLĐ theo ngành
Theo ngành, tác động lớn nhất về thu nhập của NLĐ là trong ngành du lịch và điện
tử với gần 100% NLĐ được khảo sát bị giảm lương hoặc đã mất việc làm. Tác động
với ngành gỗ và dệt may không đồng nhất: DNVVN tư nhân trong nước ngành chế
biến gỗ bị tác động nặng nề với 58% các DN gỗ trong nước phải ngừng hoạt động
một phần hoặc toàn bộ DN tại thời điểm tháng 4/2020 (VIFOREST 2020). Tuy
nhiên, các DN FDI ngành gỗ chịu ít tác động hơn, một số DN Trung Quốc còn đang
tuyển thêm lao động.29 Tương tự, trong khi VITAS cho biết DN thành viên bị ảnh
hưởng nặng nề và 70% DN đã phải cho NLĐ nghỉ việc vào cuối tháng 3/2020, một
khảo sát của Fair Wear Foundation với hơn 50 công ty may xuất khẩu châu Âu30 lại
cho thấy không có DN nào gặp khó khăn trong trả lương NLĐ.31
Cuộc khủng hoảng có tác động đặc biệt nghiêm trọng với NLĐ nữ, nhất là những
phụ nữ là người kiếm tiền chính hoặc duy nhất trong gia đình. Có tới 83% NLĐ nữ
trong khảo sát bị giảm lương hoặc mất việc làm; trong số đó, 32,3% là người kiếm
tiền chính hoặc duy nhất trong gia đình.
Đại dịch tạo ra khó khăn kép với NLĐ di cư: một mặt thu nhập và việc làm của họ
bị ảnh hưởng (87,9% NLĐ di cư mất việc hoặc bị giảm lương); mặt khác, do các
biện pháp phong tỏa và giãn cách xã hội, họ bị chia cách khỏi gia đình mình trong
nhiều tháng.
Chỉ có 8,8% LĐ di cư đã trở về quê, còn lại vẫn ở lại nơi làm việc để tiếp tục đi làm
hoặc đi tìm việc mới. Tuy nhiên do bị giảm thu nhập nên LĐ di cư gặp rất nhiều
khó khăn vì họ khó có thể giảm chi tiêu cơ bản.32
Tác động của đại dịch COVID-19 tới doanh nghiệp và người lao động trong
một số ngành kinh tế chính: Ứng phó, điều chỉnh và khả năng phục hồi
29 Phỏng vấn các tổ chức xã hội ở Tp. HCM, Đồng Nai và Bình Dương (tháng 4/2020)
30 Các công ty này sản xuất hàng thể thao
31 Phỏng vấn đại diện FWF Việt Nam, tháng 5/2020
32 LĐ di cư phải chi phí thực phẩm nhiều hơn vì không được ăn bữa trưa miễn phí tại nhà máy
33 Sau cuộc phỏng vấn, điều tra viên đã hướng dẫn hai vợ chồng công nhân tới ATM gạo do LĐLĐ Bắc Ninh tài trợ
để lấy gạo miễn phí
Đánh giá nhanh
Người lao động: Tác động,
ứng phó và khả năng phục hồi
3.
31
‘Vào tháng 3 và 4, chị không tăng ca. Trợ cấp chuyên cần bị cắt. Thu nhập
của chị giảm khoảng 50% trong khi vẫn phải trả tiền nhà trọ và tiền ăn như
cũ. Chồng và con giai thì ở quê, cách đây khoảng 100km. Chị chưa được
gặp chồng con 3 tháng nay rồi. Tiền cũng chả đủ mà gửi về cho con nữa’ –
Một công nhân may ở Hải Dương.
“Vợ chồng em bị cho nghỉ việc hồi cuối tháng 2. Công ty hứa là sẽ gọi quay lại
làm nếu có đơn hàng. Hiện bọn em không có lương, tiền để dành cũng hết
mà vẫn phải trả tiền nhà trọ. Giờ hết tiền ăn rồi. Hàng ngày nhà em chỉ toàn
ăn cơm không chan với mỳ ăn liền” – Một cặp vợ chồng người dân tộc Dao di
cư từ Tuyên Quang xuống làm cho một công ty điện tử ở Bắc Ninh, bị cho
nghỉ việc không lương và bị đói trong một vài tuần trước khi phỏng vấn.33
Có tới 79,4% NLĐ cho biết họ không nhận được hỗ trợ gì, bằng tiền hay hiện vật,
từ NSDLĐ khi bị giảm lương hoặc mất việc làm (Hình 18).
Tác động tới tinh thần, quan hệ gia đình và chi tiêu cơ
bản của người lao động
NLĐ bị tác động bởi đại dịch thường xuyên có cảm giác lo lắng, bi quan, bất an
và tâm trạng thay đổi bất thường
Khảo sát NLĐ cho thấy tác động đối với tinh thần của NLĐ tỉ lệ thuận với mức độ
dễ bị tổn thương về việc làm, giới tính và trách nhiệm gia đình. Chúng tôi so sánh
kết quả của khảo sát này với mẫu bao gồm chủ yếu là công nhân trực tiếp trong
các ngành với một khảo sát được tiến hành trong cùng giai đoạn với trên 900 NLĐ
văn phòng và quản lý (Vũ và đồng sự 2020). Trong khi khảo sát của Vũ và đồng sự
(2020) cho thấy chỉ có 8% LĐ văn phòng và quản lý bị căng thẳng, áp lực trong thời
gian đại dịch, thì có tới 86,9% NLĐ trực tiếp trong khảo sát của chúng tôi có cảm
giác lo lắng, bi quan, bất an và tâm trạng thay đổi bất thường. Tác động đặc biệt
lớn đối với nhóm LĐ có con (bao gồm cả những người đã kết hôn hoặc làm cha/mẹ
đơn thân), LĐ nữ và nhất là lao động nữ di cư có con (Hình 19).
Tác động của đại dịch COVID-19 tới doanh nghiệp và người lao động trong
một số ngành kinh tế chính: Ứng phó, điều chỉnh và khả năng phục hồi
Đánh giá nhanh
Người lao động: Tác động,
ứng phó và khả năng phục hồi
3.
32
“Công ty em đóng cửa tháng trước rồi. Em cũng cố tìm việc nhưng không
có. Em bị bệnh nên phải dùng đến tiền để dành cho con gái lớn học đại
học. Không biết nhà em còn duy trì được bao lâu nữa” – Một bà mẹ đơn
thân có 2 con, là lao động di cư tại Tp. HCM. Trước đây chị làm cho một
công ty chế biến tôm.
Hình 18: Anh/chị có nhận được hỗ trợ nào từ NSDLĐ?
Tác động không đồng nhất tới quan hệ trong gia đình – Dấu hiệu bạo lực gia đình
Cuộc khủng hoảng Covid-19 đã tạo ra tác động không đồng nhất tới quan hệ
trong gia đình NLĐ. Một mặt, 13,7% NLĐ cho biết quan hệ gia đình tốt lên vì các
thành viên ở nhà và dành thời gian cho nhau nhiều hơn; mặt khác, 34,25% NLĐ
cho biết quan hệ gia đình họ kém đi (Hình 20). Tỉ lệ NLĐ có quan hệ gia đình kém
đi khá cao với NLĐ di cư (36,7%) và NLĐ di cư nữ có con (47,7%). Theo NLĐ, quan
hệ gia đình họ kém đi chủ yếu vì các thành viên lo lắng về sức khỏe và tương lai
(Hình 21). Tuy nhiên gần 10% NLĐ cho biết trong gia đình gia tăng tranh cãi và
gần 5% cho biết có bạo hành về lời nói và hành động trong gia đình.
Tác động của đại dịch COVID-19 tới doanh nghiệp và người lao động trong
một số ngành kinh tế chính: Ứng phó, điều chỉnh và khả năng phục hồi
Đánh giá nhanh
Người lao động: Tác động,
ứng phó và khả năng phục hồi
3.
33
Hình 19: Tác động của đại dịch tới sức khỏe tinh thần của NLĐ
Các nghiên cứu trước đây cho thấy áp lực về tài chính tỉ lệ thuận với mức độ
thường xuyên và nghiêm trọng của bạo lực gia đình (Weaver et al. 2008 ; Adams et
al. 2008). Ví dụ, tại Hoa kỳ, tỉ lệ thất nghiệp tăng 1% thì tỉ lệ bỏ bê trẻ em tăng 25%
và bạo hành thể chất tăng 12% (Brown và Cao 2017). Các nghiên cứu khác cũng
cho thấy sự căng thẳng xuất phát từ các thảm họa như thảm họa thiên nhiên làm
tăng bạo lực gia đình (TCFV 2019). Với tỉ lệ bạo lực gia đình cao ở Việt Nam (theo
khảo sát toàn quốc năm 2010, 58% phụ nữ Việt Nam cho biết đã từng chịu ít nhất
một loại bạo lực gia đình trong đời),34 tác động của đại dịch với bạo lực trong gia
đình NLĐ cần được quan tâm kịp thời vì trong thời kỳ dịch bệnh các nạn nhân rất
khó tìm kiếm sự hỗ trợ.
Tác động tới chi tiêu cơ bản: chi tiêu thực phẩm bị cắt giảm đáng kể
Để hiểu tác động của đại dịch tới chi tiêu của NLĐ và gia đình, chúng tôi phân loại
các chi tiêu thành 3 nhóm gồm: thực phẩm, nhà ở và các loại chi tiêu cơ bản khác
(như quần áo, đi lại, giáo dục v.v.) và sử dụng 03 mức là ‘cơ bản’, ‘tối thiểu’ và ‘dưới
tối thiểu’35 (Ankers 2015). Với giả thuyết tác động đối với NLĐ là người kiếm tiền
chính hoặc duy nhất trong gia đình, là người di cư và có con, chúng tôi so sánh kết
quả chung với nhóm này (gọi tắt là nhóm ‘EMP’) (Hình 22). Chi tiêu ‘cơ bản khác’ là
nhóm đầu tiên bị giảm và giảm nhiều nhất: 81,5% NLĐ đã cắt giảm nhóm chi tiêu
này và 16,4% đã cắt xuống dưới mức tối thiểu. Theo NLĐ, giãn cách xã hội và các
biện pháp phong tỏa khiến họ không cần chi tiêu giáo dục cho con cái và đi lại, nhờ
đó giảm một phần áp lực tài chính. Tuy nhiên NLĐ phải cắt giảm cả chi phí y tế và
tiền gửi cho gia đình ở quê.
Tác động của đại dịch COVID-19 tới doanh nghiệp và người lao động trong
một số ngành kinh tế chính: Ứng phó, điều chỉnh và khả năng phục hồi
34 TCTK (2010)
35 Mức cơ bản: khi mức dinh dưỡng/nhà ở/các nhu cầu khác được duy trì ở mức tối thiểu chấp nhận được. Ví dụ: về
thực phẩm, NLĐ đảm bảo mức protein, mỡ và tinh bột tối thiểu; về nhà ở: NLĐ và gia đình sống ở nơi an toàn, có
nước sạch và vệ sinh v.v. Mức tối thiểu: khi mức dinh dưỡng/nhà ở/các nhu cầu khác chỉ đủ để tồn tại và dưới mức
đó thì cuộc sống và an toàn của NLĐ có thể bị đe dọa. Dưới mức tối thiểu: khi mức dinh dưỡng/nhà ở/các nhu cầu
khác ở mức thấp tới mứcNLD và gia đình bị đói, vô gia cư hoặc thiếu trầm trọng các nhu yếu phẩm khác
Đánh giá nhanh
Người lao động: Tác động,
ứng phó và khả năng phục hồi
3.
34
Hình 20: Đại dịch ảnh hưởng thế nào tới quan hệ gia đình NLĐ? (n=292) Hình 21: Quan hệ gia đình kém đi ở khía cạnh nào? (n=131)
NLĐ thường có xu hướng cắt giảm chi phí thực phẩm hơn là nhà ở: 75,3% NLĐ cắt
giảm chi phí thực phẩm trong khi với chi phí nhà ở là 33,2% (Hình 22). Lý do là với
NLĐ địa phương thì chi phí nhà ở không đáng kể vì họ thường sở hữu nhà của
mình; còn với NLĐ di cư, họ rất khó chuyển sang một nhà trọ khác trong thời kỳ
dịch bệnh. Do đó NLĐ di cư hoặc phải cắt giảm các chi phí ngoài nhà ở hoặc phải
đàm phán với chủ nhà trọ để giảm giá thuê.
*Mức cơ bản: khi mức dinh dưỡng/nhà ở/các nhu cầu khác được duy trì ở mức tối thiểu chấp nhận được. Ví dụ: về
thực phẩm, NLĐ đảm bảo mức protein, mỡ và tinh bột tối thiểu; về nhà ở: NLĐ và gia đình sống ở nơi an toàn, có
nước sạch và vệ sinh v.v. Mức tối thiểu: khi mức dinh dưỡng/nhà ở/các nhu cầu khác chỉ đủ để tồn tại và dưới mức đó
thì cuộc sống và an toàn của NLĐ có thể bị đe dọa. Dưới mức tối thiểu: khi mức dinh dưỡng/nhà ở/các nhu cầu khác ở
mức thấp tới mức NLĐ và gia đình bị đói, vô gia cư hoặc thiếu trầm trọng các nhu yếu phẩm khác
Tuy nhiên tác động tới chi tiêu của nhóm EMP nghiêm trọng hơn nhiều: gần 90%
EMP đã cắt giảm chi tiêu thực phẩm và trên 40% phải giảm chi tiêu thực phẩm tới
mức tối thiểu hoặc dưới tối thiểu (Hình 22). Nhóm EMP cho biết họ không còn đủ
tiền mua thịt và giờ hầu như chỉ ăn cơm và mỳ tôm, lấy từ bạn bè, người thân hoặc
ATM gạo của công đoàn hoặc hội phụ nữ.
Tác động của đại dịch COVID-19 tới doanh nghiệp và người lao động trong
một số ngành kinh tế chính: Ứng phó, điều chỉnh và khả năng phục hồi
36 N(tất cả)=292; n(EMP)=43
Đánh giá nhanh
Người lao động: Tác động,
ứng phó và khả năng phục hồi
3.
35
Hình 22: Tác động tới chi tiêu của NLĐ (%)36
Biện pháp ứng phó của người lao động
Như đã bàn tới ở phần trên, phản ứng đầu tiên của NLĐ trước tác động của đại
dịch là cắt giảm chi tiêu cơ bản, nhất là thực phẩm và các chi tiêu khác. Tuy nhiên
khả năng cắt giảm chi tiêu cũng có hạn với NLĐ đã mất một phần hoặc toàn bộ
thu nhập. Theo những NLĐ là người kiếm tiền chính trong gia đình, tiết kiệm của
họ chỉ đủ để duy trì 3 tháng nữa mặc dù đã giảm đến tối thiểu các chi tiêu cơ bản.
Có tới 86,3% NLĐ cho rằng mức sống của họ sẽ tiếp tục giảm sút nếu đại dịch còn
tiếp diễn thêm 2 tháng nữa (nghĩa là tới tháng 6/2020). Đặc biệt 18,8% NLĐ cho
rằng mức sống của họ sẽ giảm xuống dưới mức tối thiểu nếu tình hình không tốt
lên trước tháng 7/2020.
NLĐ ngành du lịch bi quan hơn nhiều các ngành khác về triển vọng cải thiện điều
kiện sống trong 2 tháng tới: 55,9% cho rằng mức sống của họ sẽ tồi tệ hơn và 33,9%
cho rằng mức sống sẽ xuống dưới mức tối thiểu (Hình 23). Hầu hết NLĐ ngành du
lịch trong khảo sát đang sống ở các thành phố lớn (Hà Nội, Đà Nẵng, và Tp HCM)
nơi có chi phí sinh hoạt cao hơn nhiều so với các tỉnh khác. Trong khi NLĐ ngành
may hoặc điện tử vẫn có thể duy trì việc làm và một phần thu nhập, đại đa số NLĐ
ngành du lịch đã mất việc và toàn bộ thu nhập do công ty đóng cửa hoặc phá sản.
Tác động của đại dịch COVID-19 tới doanh nghiệp và người lao động trong
một số ngành kinh tế chính: Ứng phó, điều chỉnh và khả năng phục hồi
Đánh giá nhanh
Người lao động: Tác động,
ứng phó và khả năng phục hồi
3.
36
‘Bình thường mẹ chị bán vé số rong cũng kiếm được ít nhiều hỗ trợ cho chị
nhưng giờ bà không đi bán được. Công ty chị đóng cửa từ tháng trước rồi
mà chị không kiếm được việc khác. Giờ có 4 miệng ăn mà không công ăn
việc làm. Cũng may có bác hàng xóm cho vay tạm ít tiền. Mẹ chị cũng lấy
được gạo và dầu ăn của địa phương cho. Chị không rõ duy trì được bao lâu
nữa và làm sao trả nợ cho hàng xóm’ – Một công nhân nữ người Bắc Giang
hiện sống ở Tp. HCM cùng mẹ và hai con. Trước chị làm cho một công ty
may tư nhân nhưng đã mất việc từ đầu tháng 3 do công ty phá sản.
‘Trước lương em hơn 6 triệu nhưng giờ không tăng ca chỉ còn 4 triệu thôi.
Chồng em lái xe ôm nhưng giờ không có việc. Nhà em không nuôi được cả
4 miệng ăn nên chồng em đưa con về quê rồi. Em cũng cố dè xẻn ... Em chỉ
lo công ty cho thôi việc bất cứ lúc nào, có khi ngày mai ấy’ – Một công nhân
điện tử là lao động di cư đang làm ở Bắc Ninh.
Nhóm bi quan thứ hai là NLĐ ngành gỗ. Có tới 61,5% NLĐ ngành này cho rằng
mức sống sẽ tồi tệ hơn và 21,5% cho rằng mức sống sẽ xuống dưới mức tối thiểu.
Là một trong những ngành bị ảnh hưởng nhiều nhất, 58% công ty gỗ đã tạm
ngừng hoạt động một phần hoặc toàn bộ và 45% lao động đã phải nghỉ việc
(VIFOREST 2020). NLĐ ngành gỗ, nhất là lao động di cư, gặp khó khăn rất lớn khi
phải duy trì cuộc sống ở các khu công nghiệp với một phần nhỏ thu nhập ban
đầu. Trong khi đó ngành hải sản với NLĐ chủ yếu là người địa phương có nguồn
gốc nông dân nên vẫn duy trì một mức sống khá ổn định nhờ nguồn lực của bản
thân (ví dụ tự cung tự cấp thực phẩm hoặc dựa vào thu nhập từ ruộng vườn).
Mặc dù gặp nhiều khó khăn và triển vọng hồi phục còn khá ảm đạm, NLĐ vẫn tích
cực tìm kiếm giải pháp. Khảo sát NLĐ cho thấy 36,3% NLĐ đã tìm kiếm các công
việc hoặc nguồn thu nhập khác bổ sung. Trong số đó, hơn 12%, gồm chủ yếu là
NLĐ ngành du lịch, chuyển sang bán hàng trên mạng còn những người khác tìm
các công việc tạm thời như giao hàng hoặc phụ hồ. Còn 15,4% giảm chi tiêu bằng
cách làm vườn, trang trại để tự nuôi sống hoặc thuyết phục chủ nhà trọ giảm giá
thuê. NLĐ di cư cũng được gia đình hỗ trợ chăm con nhỏ khi trường học đóng cửa
hoặc gửi gạo và rau tự trồng cho.
Triển vọng phục hồi việc làm và thu nhập
Hầu hết NLĐ cho rằng việc phục hồi sẽ chậm và khó khăn
Nhìn chung, NLĐ khá thận trọng về khả năng khôi phục38 việc làm và thu nhập về
mức trước đại dịch.
Tác động của đại dịch COVID-19 tới doanh nghiệp và người lao động trong
một số ngành kinh tế chính: Ứng phó, điều chỉnh và khả năng phục hồi
37 Dưới mức tối thiểu: khi mức dinh dưỡng/nhà ở/các nhu cầu khác ở mức thấp tới mứcNLD và gia đình bị đói, vô gia
cư hoặc thiếu trầm trọng các nhu yếu phẩm khác
38 Trong nghiên cứu này, ‘phục hồi nhanh’ là việc khôi phục mức việc làm và thu nhập như trước dịch trong vòng 3
tháng sau khi dịch kết thúc
Đánh giá nhanh
Người lao động: Tác động,
ứng phó và khả năng phục hồi
3.
37
Hình 23: % NLĐ cho rằng mức sống sẽ xuống dưới mức tối thiểu37 nếu dịch tiếp tục đến hết tháng 6/2020 (n=292)
Chỉ có ¼ NLĐ cho rằng việc làm và thu nhập sẽ trở về mức trước đại dịch trong
vòng 3 tháng sau dịch. Phát hiện này tương tự quan điểm của NSDLĐ trong khảo
sát ND. Trong các ngành được khảo sát, NLĐ ngành hải sản lạc quan nhất về khả
năng khôi phục hậu đại dịch trong khi NLĐ ngành du lịch là bi quan hơn cả (Hình
24). Theo NLĐ ngành du lịch, không giống thực phẩm hoặc các nhu yếu phẩm
khác, ngành du lịch sẽ mất nhiều thời gian để khôi phục hoàn toàn. Theo khảo sát
của TAB với 394 công ty du lịch, 82,7% cho rằng sẽ trở lại bình thường vào Qúy III
năm nay và 41,1% cho rằng sẽ phải đợi tới năm 2021.39
Ngoài ra, cả năm ngành đều phụ thuộc vào các thị trường ngoài nước, đặc biệt là
Hoa kỳ và châu Âu, nơi khu vực vẫn còn bị ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch. Sự mở
cửa trở lại của thị trường Trung Quốc và nội địa có thể hỗ trợ phần nào nhưng
không thể thay thế hoàn toàn doanh thu từ xuất khẩu sang các thị trường khác
trong thời gian ngắn.
Trên 40% NLĐ trong 5 ngành cho rằng quá trình hồi phục sẽ kéo dài trên 3 tháng
và 18% dự đoán sẽ phải chấp nhận mức lương thấp hơn sau đại dịch. Theo nhiều
NLĐ trong ngành may, chế biến gỗ và điện tử, không chỉ không có tiền tăng ca, mà
cả trợ cấp và phụ cấp của họ đều bị cắt giảm cho tới cuối năm hoặc khi đơn hàng
xuất khẩu được khôi phục.
Tác động của đại dịch COVID-19 tới doanh nghiệp và người lao động trong
một số ngành kinh tế chính: Ứng phó, điều chỉnh và khả năng phục hồi
39 https://congthuong.vn/nganh-du-lich-viet-nam-bi-anh-huong-nhu-the-nao-vi-dich-covid-19-136255.html
Đánh giá nhanh
Người lao động: Tác động,
ứng phó và khả năng phục hồi
3.
38
Hình 24: Dự đoán của NLĐ về khả năng phục hồi việc làm và thu nhập sau dịch
Kể từ đầu tháng 3/2020, Chính phủ đã đưa ra gói hỗ trợ cho các DN bị ảnh hưởng
bao gồm gói hỗ trợ lãi suất trị giá 250 nghìn tỷ đồng, tạm ngừng đóng kinh phí
công đoàn và bảo hiểm hưu trí và tử tuất. Gói hỗ trợ trị giá 62 nghìn tỉ đồng (theo
hình thức hỗ trợ tiền mặt) cho NLĐ cũng đã được đưa ra nhằm hỗ trợ NLĐ bị tác
động và các hộ nghèo (Bảng 4). Ngoài ra còn khá nhiều các chương trình hỗ trợ
của công đoàn, hội phụ nữ, tổ chức xã hội, NSDLĐ và các nhà tài trợ cá nhân, tập
trung chủ yếu vào hỗ trợ hiện vật, giảm giá thuê trọ và đào tạo cho NLĐ. Trong
ngành may, FWF, CNV International cùng với VITAS và LEFASO đã cùng kêu gọi các
nhà mua hàng châu Âu (khởi đầu là Hà Lan và Đức) thanh toán cho các đơn hàng
đã hoàn thành hoặc đang sản xuất và hỗ trợ thêm cho các nhà máy may tại Việt
Nam để bảo vệ việc làm và thu nhập cho NLĐ.40
55,8% NLĐ trong khảo sát đã tìm kiếm sự trợ giúp (Hình 25). Trong đó, 93,87% đã
đăng ký gói cứu trợ của chính phủ nhưng vào thời điểm khảo sát, họ chưa nhân
được tiền hỗ trợ. Tuy vậy, 84% NLĐ đã đăng ký gói hỗ trợ này cho rằng chương
trình ‘rất hữu ích’ hoặc ‘tương đối hữu ích’ cho họ (Hình 26).
Ngoài chương trình hỗ trợ của chính phủ, mạng lưới xã hội của bản thân NLĐ là
nguồn hỗ trợ quan trọng nhất với 38,6% NLĐ đã vay mượn, hỗ trợ thực phẩm
hoặc trông trẻ từ bạn bè và gia đình. Đây cũng là nguồn hỗ trợ hữu ích nhất với
57,7% cho rằng sự hỗ trợ của gia đình và người quen ‘rất hữu ích’ và 36,2% thấy
‘tương đối hữu ích’. Các tổ chức xã hội, nhất là hội phụ nữ và công đoàn cũng
Tác động của đại dịch COVID-19 tới doanh nghiệp và người lao động trong
một số ngành kinh tế chính: Ứng phó, điều chỉnh và khả năng phục hồi
40 Phỏng vấn đại diện FWF, CDI và CNV International, Tháng 4/2020
Đánh giá nhanh
Hỗ trợ người lao động4.
39
Bảng 4: Tổng hợp các chương trình hỗ trợ cho NLĐ bị ảnh hưởng bởi Covid-19
Ngoài chương trình hỗ trợ của chính phủ, mạng lưới xã hội của bản thân NLĐ là
nguồn hỗ trợ quan trọng nhất với 38,6% NLĐ đã vay mượn, hỗ trợ thực phẩm
hoặc trông trẻ từ bạn bè và gia đình. Đây cũng là nguồn hỗ trợ hữu ích nhất với
57,7% cho rằng sự hỗ trợ của gia đình và người quen ‘rất hữu ích’ và 36,2% thấy
‘tương đối hữu ích’. Các tổ chức xã hội, nhất là hội phụ nữ và công đoàn cũng
cung cấp nhu yếu phẩm như gạo, dầu ăn và mỳ tôm cho 17,1% NLĐ. Trên 8% NLĐ
được chủ nhà trọ giảm giá thuê.
Cần hỗ trợ tiền mặt và hiện vật để duy trì mức sống tối thiểu
Với dự đoán không mấy lạc quan về khả năng khôi phục việc làm và thu nhập sau
đại dịch, không ngạc nhiên khi hơn một nửa NLĐ mong muốn được nhận hỗ trợ
ngay để duy trì cuộc sống. Theo Hình 27, có 54,1% NLĐ cần hỗ trợ tiền mặt, 13,3%
cần hỗ trợ hiện vật như gạo, mỳ tôm, dầu ăn và 50% mong muốn được hỗ trợ
giảm giá điện, phòng trọ và các mặt hàng thiết yếu như thịt lợn. Chỉ có 19,5% NLĐ
muốn hỗ trợ giới thiệu việc làm và 11,3% mong muốn được đào tạo nâng cao tay
nghề. Dễ hiểu khi nhu cầu giới thiệu việc làm và đào tạo ở NLĐ ngành du lịch là
cao nhất (40,6%) vì họ có tỉ lệ mất việc cao hơn hẳn các ngành khác.
Tác động của đại dịch COVID-19 tới doanh nghiệp và người lao động trong
một số ngành kinh tế chính: Ứng phó, điều chỉnh và khả năng phục hồi
Đánh giá nhanh
Hỗ trợ người lao động4.
40
Hình 25: Các nguồn hỗ trợ NLĐ (%; n=163) Hình 26: Đánh giá của NLĐ về mức độ hữu ích của các hình thức hỗ trợ (%)
Bài học từ khủng hoảng tài chính 2008 cho thấy sự hồi phục của NLĐ và DN phụ
thuộc vào một số yếu tố sau:
(i)
(ii)
(iii)
(iv)
Ứng phó với đại dịch Covid-19, Việt Nam đã làm đúng khi đưa ra các gói cứu trợ kịp
thời cho NLĐ bị ảnh hưởng41. Cho tới tháng 5/2020, khoảng 20% DN bị ảnh hưởng
đã tiếp cận các gói hỗ trợ của chính phủ và đã có dấu hiệu hồi phục trong các
ngành hải sản, may và điện tử. Tuy nhiên, như nghiên cứu này đã chỉ ra, có dấu
hiệu một bộ phận NSDLĐ đã phân biệt đối xử với NLĐ ngắn hạn, LĐ nữ và LĐ lớn
tuổi. Đồng thời việc CĐCS chưa đóng vai trò tích cực trong việc đại diện quyền và
lợi ích của NLĐ trong việc áp dụng các biện pháp cắt giảm làm dấy lên mối lo ngại
về việc bảo vệ quyền lao động trong khủng hoảng. Tại một số tỉnh/thành phố có
công đoàn cấp trên hoạt động tích cực, NLĐ đã được cán bộ công đoàn tư vấn và
hỗ trợ thương lượng trong khi ở các nơi khác, NLĐ phải chấp nhận quyết định của
NSDLĐ hoặc đình công tự phát.
Tác động của đại dịch COVID-19 tới doanh nghiệp và người lao động trong
một số ngành kinh tế chính: Ứng phó, điều chỉnh và khả năng phục hồi
41
skilled-laborers-affected-by-covid-19-from-may-10-312011.html
Đánh giá nhanh
Hỗ trợ người lao động4.
41
Hình 27: Nhu cầu hỗ trợ của NLĐ để phục hồi sau dịch
Mạng lưới xã hội của NLĐ: mạng lưới xã hội mạnh sẽ cho phép NLĐ
được hỗ trợ nhanh chóng trong thời điểm khó khăn
Luật lao động đầy đủ và thực thi tốt: giảm rủi ro NSDLĐ lợi dụng khủng
hoảng để vi phạm quyền lao động
Hệ thống bảo trợ xã hội hiệu quả sẽ làm giảm mức độ tổn thương của
người nghèo
Hướng các gói kích thích kinh tế vào các ngành thâm dụng lao động nữ
Ngoài việc đánh giá tác động kinh tế của đại dịch, nghiên cứu đã tìm hiểu sâu hơn
quá trình điều chỉnh của NSDLĐ và NLĐ nhằm ứng phó với khủng hoảng, trong
đó tập trung vào quá trình tham vấn với NLĐ cũng như tác động tới cuộc sống và
khả năng hồi phục của họ. Kết quả nghiên cứu cho thấy chưa nhiều DN tham vấn
NLĐ và CĐCS; NSDLĐ có dấu hiệu phân biệt đối xử với nhóm NLĐ dễ bị tổn
thương nhất và những tác động rộng lớn tới sức khỏe, quan hệ gia đình và mức
sống của NLĐ và gia đình họ.
Ngoài tác động trực tiếp tới DN và NLĐ, cuộc khủng hoảng Covid-19 cũng làm lộ
rõ những vấn đề đe dọa sự bền vững của các ngành, DN và cuộc sống của NLĐ.
Trong ngành xuất khẩu của Việt Nam, các nhà máy gia công trong chuỗi cung ứng
toàn cầu, lúc bình thường, nhận được mức lợi nhuận vô cùng khiêm tốn và trong
thời kỳ khủng hoảng, họ và NLĐ của mình là những người đầu tiên phải chịu rủi
ro khi các nhà mua hàng hủy đơn hàng hoặc từ chối thanh toán để bảo toàn
thanh khoản của mình.
Hậu quả của việc CĐCS chưa đại diện hiệu quả cho lợi ích của NLĐ đã trở nên
nghiêm trọng hơn trong khủng hoảng khi NLĐ chịu rủi ro trước cách ra quyết
định đơn phương của NSDLĐ và không được bảo vệ và đại diện khi thương lượng
với NSDLĐ để bảo vệ thu nhập và việc làm của mình. NLĐ phải sử dụng các hình
thức đấu tranh không chính thức để gây áp lực với NSDLĐ phải đối thoại và điều
chỉnh. Tuy nhiên công đoàn cấp trên các tỉnh đã tích cực và nhanh chóng giải
quyết các khiếu nại của NLĐ hứa hẹn một kênh đại diện quan trọng. Tuy nhiên sự
hỗ trợ của công đoàn cấp trên có giới hạn vì không phải NLĐ nào cũng tìm kiếm
sự hỗ trợ bên ngoài và không phải công đoàn địa phương nào cũng có đủ năng
lực và sự chủ động trong việc hỗ trợ NLĐ.
NLĐ trực tiếp được trả lương thấp và quá phụ thuộc vào lương tăng ca nên trong
thời kỳ đại dịch, họ bị ảnh hưởng nặng nề. Với nhiều NLĐ, mất đi lương tăng ca
tương đương việc mất 20-50% thu nhập. Do đó, hầu hết NLĐ chỉ đủ tiền tiết kiệm
để duy trì cuộc sống trong 3 tháng và với những người phải nuôi cả gia đình, họ
dễ dàng bị đẩy đến ngưỡng nghèo và đói.
Tuy nhiên nghiên cứu cũng hé lộ tia hy vọng vì nhiều DN và NLĐ đã thể hiện sự
kiên cường và khả năng khôi phục mạnh mẽ. Khá nhiều DN ngành hải sản, gỗ và
dệt may đã linh hoạt tìm kiếm các nguồn doanh thu thay thế hoặc đa dạng hóa
sản phẩm và và thị trường để giảm thiểu tác động của đại dịch. NLĐ cũng đã thích
nghi nhanh chóng bằng cách tìm kiếm các nguồn thu nhập bổ sung và dựa vào
mạng lưới xã hội của mình để duy trì cuộc sống.
Để giảm tác động của khủng hoảng và hỗ trợ hơn nữa sự phục hồi của DN và
NLĐ, nghiên cứu có một số khuyến nghị như sau:
Tác động của đại dịch COVID-19 tới doanh nghiệp và người lao động trong
một số ngành kinh tế chính: Ứng phó, điều chỉnh và khả năng phục hồi
Đánh giá nhanh
Kết luận & Khuyến nghị5.
42
Các giải pháp ngắn hạn:
1.
2.
3.
4.
5.
Khuyến nghị điều chỉnh về trung và dài hạn:
1.
Tác động của đại dịch COVID-19 tới doanh nghiệp và người lao động trong
một số ngành kinh tế chính: Ứng phó, điều chỉnh và khả năng phục hồi
42
skilled-laborers-affected-by-covid-19-from-may-10-312011.html
43 Xem nội dung tại: https://www.fairwear.org/covid-19-dossier/covid-19-garment-industry-coalition-statement/
Đánh giá nhanh
Kết luận & Khuyến nghị5.
43
Các hiệp hội DN cần hợp tác chặt chẽ với các hiệp hội DN thuộc các quốc
gia trong khu vực để yêu cầu các nhà mua hàng quốc tế có cách hành
xử trách nhiệm hơn trong đại dịch. Ví dụ, vào đầu tháng 4/2020, VITAS
cùng hiệp hội may của 8 quốc gia khác đã ra tuyên bố chung yêu cầu các
nhãn hàng thời trang quốc tế cam kết thanh toán đầy đủ cho các đơn
hàng đã hoàn thành hoặc đang sản xuất.42 Gần đây liên minh 13 tổ chức
quốc tế về lao động trong ngành may đã cùng đưa ra tuyên bố tới các
nhãn hàng thời trang và chính phủ các nước hành động khẩn trương
nhằm hỗ trợ NLĐ trong đại dịch.43
Chính phủ và các hiệp hội DN có thể thành lập các đường dây nóng hỗ
trợ DN khó khăn tiếp cận các chương trình hỗ trợ. Các đường dây nóng
vừa tư vấn cho các DN thiếu thông tin về vấn đề thủ tục, quy định, vừa
có thể báo cáo nhanh cho các cơ quan thẩm quyền về nhu cầu thực sự
của DN đối với các khoản hỗ trợ.
Công đoàn cơ sở và công đoàn địa phương cần tích cực hơn trong việc
hỗ trợ NLĐ bị NSDLĐ đối xử không công bằng. Công đoàn Đồng Nai và
Hải Phòng duy trì liên hệ với các CĐCS và có đường dây nóng để NLĐ
báo khi có vi phạm là một điển hình tốt. Dấu hiệu phân biệt đối xử với
NLĐ lớn tuổi, LĐ di cư và LĐ nữ cần được giám sát và giải quyết thỏa
đáng nhằm tránh việc lặp lại các vi phạm này.
Trong thời kỳ khủng hoảng, đối thoại xã hội đóng vai trò quan trọng với
cả NSDLĐ và NLĐ để tìm ra giải pháp phù hợp nhất cho cả hai bên và
phòng ngừa tranh chấp lao động. Do đó, cả tổ chức của NSDLĐ và công
đoàn nên khuyến khích thành viên tiến hành đối thoại và tham vấn để
tìm ra giải pháp ứng phó và cùng nhau vượt qua khủng hoảng.
Công đoàn, các tổ chức chính trị xã hội, các tổ chức NGO cần xác định nhóm
NLĐ dễ bị tổn thương cần hỗ trợ nhất. Như nghiên cứu chỉ ra, đây là NLĐ di
cư có con, nhất là lao động nữ là người kiếm tiền chính trong gia đình.
Việt Nam đã kiềm chế thành công Covid-19 nên các nhà sản xuất trong
nước đang có lợi thế đáng kể so với các nước láng giềng hiện vẫn đang
trong dịch. Do đó, các hiệp hội DN nên khuyến khích DN tích cực mở
rộng thị trường. Đồng thời, kinh nghiệm của ngành hải sản cho thấy
nhu cầu của người tiêu dùng có xu hướng thay đổi từ mặt hàng cao cấp
xuống trung cấp và hàng giá rẻ, dẫn tới nhà sản xuất cần có sự điều
chỉnh sản phẩm.
2.
3.
4.
5.
Tác động của đại dịch COVID-19 tới doanh nghiệp và người lao động trong
một số ngành kinh tế chính: Ứng phó, điều chỉnh và khả năng phục hồi
Đánh giá nhanh
Kết luận & Khuyến nghị5.
44
Đại dịch cũng khiến các nhãn hàng quốc tế điều chỉnh lại chuỗi cung
ứng và chính sách trong chuỗi. Hiệp hội DN nên làm việc với các nhà
mua hàng chính và hiệp hội DN của các thị trường xuất khẩu chính
nhằm tìm ra hướng đi của các thay đổi trên càng sớm càng tốt, từ đó
định hướng cho DN thành viên của mình. Ví dụ LEFASO đã hợp tác với
Hiệp hội các nhà phân phối và bán lẻ giày Hoa kỳ (FDRA) tổ chức một hội
thảo trực tuyến với 60 nhà nhập khẩu giày của Hoa kỳ vào tháng 5/2020
để thảo luận các thay đổi của thị trường Mỹ. Các diễn đàn tương tự nên
được tổ chức cho các ngành khác với các thị trường khác một cách
thường xuyên.
Đại dịch cũng nhấn mạnh yêu cầu với các DN Việt Nam phải tiến lên các
nấc thang cao hơn trong chuỗi giá trị và đa dạng hóa khách hàng và sản
phẩm. Các ngành công nghiệp của Việt Nam đang có điều kiện tốt để
thực hiện điều này vì các nhà mua hàng quốc tế đang tìm cách đa dạng
hóa chuỗi cung ứng.
Khi Việt Nam đang nổi lên như một điểm đến hứa hẹn về sản xuất,
Chính phủ Việt Nam cũng có quyền lựa chọn nhiều hơn với các dự án
đầu tư (nước ngoài) để lọc ra các dự án phù hợp nhất cho sự phát triển
bền vững của đất nước và góp phần nâng cao giá trị gia tăng của các
ngành. Chính phủ cần ưu tiên các dự án đầu tư có hàm lượng công
nghệ cao, giá trị gia tăng cao, bền vững về môi trường, lao động và xã
hội, thay vì chỉ đơn thuần là gia công.
Đại dịch cũng cho thấy NLĐ đang được trả mức lương (cơ bản) quá thấp
nên phải phụ thuộc quá nhiều vào lương tăng ca. Công đoàn, do đó, cần
thúc đẩy thương lượng tập thể thực chất để tăng lương cho NLĐ thay vì
chỉ điều chỉnh lương tối thiểu. Đồng thời cũng cần đầu tư nhiều hơn vào
đào tạo nâng cao tay nghề cho NLĐ.
Adams, A. E., Sullivan, C. M., Bybee, D., & Greeson, M. R. (2008). Development of
the Scale of Economic Abuse. Violence Against Women, 14(5), 563
Brown, D. and Cao, E. (2017). The Impact of Unemployment on Child Abuse and
Neglect in the United States. IZA Conference paper (
ference_files/Gender_2017/de_cao_e6099.pdf)
ILO Vietnam. (2020). Covid-19 and the labour market in Vietnam. Published on 21
April 2020
ILO. (2020). COVID-19 and world of work: Impacts and responses. ILO Briefing
Note
Đại học Kinh tế quốc dân (NEU). (2020). Evaluation of Covid-19 Impacts on the
Economy and Policy Recommendations. Published on 28 March 2020
Oxfam (GB and Australia). (2010).The Global Economic Crisis and Developing
Countries. Oxfam Research Report
Ban Nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân của Thủ tướng (Ban 4). (2020). Báo cáo
kết quả khảo sát tác động của Covid-19 tới hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. 5/3/2020
VASEP. (2020). Báo cáo Thủ tướng chính phủ và khuyến nghị chính sách
(
an-cua-VASEP-tai-Hoi-nghi-Thu-tuong-Chinh-phu-voi-DN-ngay-952020.htm)
VCCI. (2020). Survey Report on the Impacts of Covid-19 on Business Performance.
Published on 5 May 2020
VIFOREST. (2020). Tác động của Covid-19 tới ngành gỗ và định hướng cho doanh
nghiệp. Xuất bản tháng 4/2020
Vu, Thinh. (2020). Impacts of Covid-19 on the productivity, work attitude and
mental health of office workers. Unpublished paper.
Tác động của đại dịch COVID-19 tới doanh nghiệp và người lao động trong
một số ngành kinh tế chính: Ứng phó, điều chỉnh và khả năng phục hồi
ᴵ
ᴵᴵ https://tcfv.org/wp-content/uploads/2019/08/Hurricane-Harvey-Report-FINAL-and-APPROVED-as-of-060619.pdf
Đánh giá nhanh
Tài liệu tham khảo
45
Thông tin liên hệ
© Tổ chứ c Lao động Quốc tế 2020
Văn phòng ILO tại Việt Nam,
Tòa nhà Xanh Một Liên Hợp Quốc,
304 Kim Mã, Hà Nội, Việt Nam
Điện thoại: +84 24 38 500 100
Fax: +84 24 37 265 520
E-mai l: hanoi@i lo.org
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_gia_nhanh_tac_dong_cua_dai_dich_covid_19_toi_doanh_nghi.pdf