Du lịch biển đảo vịnh Bái Tử Long hiện
nay đang phát triển khá thuận lợi với sự
tăng trưởng nhanh của lượng khách (bình
quân 14,52%/năm) và được du khách đánh
giá cao về giá trị cảnh quan biển đảo. Hoạt
động du lịch đã đem lại nhiều doanh thu
(466,15 tỷ đồng/năm 2013) và đóng góp ngày
càng nhiều cho sự phát triển kinh tế xã hội
của địa phương (18,2% GDP), đặc biệt góp
phần xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm
đem lại nguồn thu ổn định cho lao động. Du
lịch ở đây bước đầu được đánh giá phát triển
bền vững về mặt kinh tế. Song du lịch Vịnh
đang đối mặt với các nguy cơ ô nhiễm môi
trường biển đảo, sự mất ổn định về an ninh
trật tự trên địa bàn, sự suy thoái về văn hóa,
mất dần đi các nét đẹp của phong tục tập
quán đặc trưng biển đảo. Do vậy, trong thời
gian tới để du lịch biển đảo vịnh Bái Tử Long
được phát triển một cách bền vững rất cần có
các chính sách và giải pháp đồng bộ và cần có
sự hỗ trợ và phối hợp tích cực của nhà nước,
chính quyền địa phương và cộng đồng
11 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 824 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá phát triển du lịch biển đảo bền vững vịnh bái Tử Long, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
J. Sci. & Devel. 2014, Vol. 12, No. 6: 895-905 Tạp chí Khoa học và Phát triển 2014, tập 12, số 6: 895-905
www.vnua.edu.vn
895
ĐÁNH GIÁ PHÁT TRIỂN DU LỊCH BIỂN ĐẢO BỀN VỮNG VỊNH BÁI TỬ LONG
Châu Quốc Tuấn1*, Nguyễn Thị Minh Hiền2
1Nghiên cứu sinh, Khoa Kinh tế Phát triển Nông thôn, Học viện Nông nghiệp Việt Nam
2Khoa Kinh tế Phát triển Nông thôn, Học viện Nông nghiệp Việt Nam
Email*: tuan.tccp@gmail.com
Ngày gửi bài: 18.06.2014 Ngày chấp nhận: 01.09.2014
TÓM TẮT
Du lịch Vịnh Bái Tử Long chiếm vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của huyện đảo Vân Đồn nói
riêng, tỉnh Quảng Ninh nói chung và là ngành kinh tế chủ đạo trong việc xây dựng mô hình đặc khu Kinh tế hành
chính đặc biệt Vân Đồn trong thời gian tới. Một khảo sát đã được thực hiện với 641 khách du lịch, 100 người dân và
25 cán bộ văn hóa, cán bộ địa phương để nghiên cứu thực trạng phát triển du lịch và đánh giá tính bền vững của sự
phát triển này. Kết quả nghiên cứu đã cho thấy du lịch Vịnh đang phát triển khá thuận lợi, đóng góp vào sự tăng
trưởng kinh tế của địa phương, giảm tỷ lệ hộ nghèo, giải quyết việc làm cho lao động địa phương. Tuy nhiên,
hiện nay du lịch biển đảo của Vịnh đang phải đối mặt với những nguy cơ phát triển thiếu tính bền vững: vấn đề về
nguy cơ ô nhiễm môi trường biển đảo, sự suy thoái về văn hóa, nguy cơ mất ổn định về an ninh trật tự trên
địa bàn. Nghiên cứu đã gợi ý một số giải pháp về chính sách và qui hoạch phát triển du lịch, nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực du lịch, đẩy mạnh xúc tiến quảng bá, bảo vệ môi trường để phát triển bền vững du
lịch biển đảo vịnh Bái Tử Long.
Từ khóa: Bền vững, Du lịch biển đảo, Đánh giá, Phát triển, Vịnh Bái Tử Long.
The Evaluation of The Development of Sea Island Tourist Sustainability
in Bai Tu Long Bay
ABSTRACT
Bai Tu Long Bay Tourism plays an important role in the economic - social development of Van Don island
district, Quang Ninh province. However, the island tourism is facing to the risk of unsustainable development on
several aspects. A survey was carried out through surveying 641 tourists, 100 local people and 25 local leaders and
staffs in order to analyze the current situation of tourism development and assess its sustainability. The results of the
study showed that tourist activities is growing, contributing to economic growth, reducing the poverty rate, and
creating jobs for local people. However, the tourism of Bai Tu Long Bay currently faces with problems of the
environmental pollution, traditional cultural deterioration, and risk of destabilizing security and order. The study has
provided recommendations and key solutions for sustainable tourism development on planning, environmental
protection, human resources improvement and tourism promotion.
Keywords: Bai Tu Long Bay, development, evaluation, island tourism, sustainability.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Chính phủ đã có Quyết định phê duyệt quy
hoạch xây dựng và phát triển huyện đảo Vân
Đồn trở thành khu Kinh tế - Hành chính đặc
biệt. Theo quyết định này, vịnh Bái Tử Long ôm
trọn huyện đảo Vân Đồn được quy hoạch phát
triển thành trung tâm du lịch sinh thái biển đảo
chất lượng cao mang tầm cỡ quốc tế (Quyết định
số 1296/QĐ-TTg, 2009). Vịnh Bái Tử Long là hệ
thống đảo nổi và biển, vừa có núi đất, vừa có núi
đá, được che phủ bởi thảm thực vật rừng nhiệt
đới và đa dạng sinh học biển tạo nên cảnh quan
thiên nhiên đa dạng, phong phú được thiên
nhiên ban tặng để phát triển du lịch biển đảo.
Trong những năm gần đây, du lịch Vịnh Bái Tử
Đánh giá phát triển du lịch biển đảo bền vững vịnh Bái Tử Long
896
Long đã có nhiều bước tiến quan trọng thể hiện
ở sự tăng trưởng nhanh về lượng khách
(14,52%) và doanh thu (27,9%). Tuy nhiên, với
sự tăng trưởng này trong khi các hạ tầng, dịch
vụ của vịnh vẫn còn đơn sơ chưa đáp ứng đủ
nhu cầu cho khách đã làm cho du lịch biển đảo
vịnh Bái Tử Long hiện đang phải đối mặt với
một số vấn đề phát triển thiếu tính bền vững
như: Nguy cơ ô nhiễm môi trường biển do tác
động không nhỏ của hoạt động du lịch đem lại
(Trung tâm Quan trắc Môi trường, 2013); Nguy
cơ mất ổn định an ninh trật tự và một số vấn đề
về xã hội trên địa bàn, sự phát triển tự phát
thiếu sự đồng bộ của các loại hình dịch vụ du
lịch. Để đảm bảo cho du lịch vịnh Bái Tử Long
trong thời gian tới phát triển một cách bền vững
và đồng bộ thì việc nghiên cứu, xem xét đánh
giá phát triển du lịch của Vịnh trên các khía
cạnh kinh tế, xã hội, môi trường một cách cụ thể
là cần thiết và là cơ sở để đề xuất những giải
pháp phù hợp.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nguồn số liệu thứ cấp về tình hình phát
triển du lịch ở vịnh Bái Tử Long, các chính sách
và công tác qui hoạch phát triển du lịch biển
đảo, quy hoạch xây dựng Khu kinh tế Vân Đồn,
một số chỉ tiêu đánh giá về phát triển du lịch,
các kết quả quan trắc và phân tích môi trường
vịnh Bái Tử Long được tổng hợp từ các báo cáo
kinh tế xã hội hàng năm giai đoạn từ năm 2007
đến 2013 của UBND huyện Vân Đồn, phòng
Văn hóa Thông tin Huyện, báo cáo tổng hợp của
Trung tâm quan trắc và phân tích môi trường
tỉnh Quảng Ninh và dự án về du lịch có liên
quan của Viện nghiên cứu và phát triển du lịch,
tổng cục du lịch.
Nguồn số liệu sơ cấp được thu thập từ việc
khảo sát điều tra 641 khách du lịch lưu trú tại
Vịnh,100 người dân sinh sống trên địa bàn và
25 cán bộ văn hóa.
Các phương pháp như thống kê mô tả, phân
tích so sánh, và chuyên gia được sử dụng cho
tính toán, phân tích trong nghiên cứu. Các chỉ
tiêu nghiên cứu gồm một số chỉ tiêu cơ bản của
ngành du lịch để đánh giá sự phát triển du lịch
và các chỉ tiêu về kinh tế, xã hội và môi trường
để đánh giá tính bền vững trong phát triển du
lịch biển đảo vịnh Bái Tử Long.
3.KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Thực trạng phát triển du lịch biển đảo
vịnh Bái Tử Long
3.1.1. Công tác xây dựng ban hành các
chính sách phát triển du lịch biển đảo
Để tăng cường công tác quản lý nhà nước về
du lịch trên địa bàn, trong các năm qua, tỉnh
Quảng Ninh và huyện Đảo Vân Đồn đã xây
dựng và ban hành nhiều văn bản có liên quan
về quản lý và phát triển du lịch biển biển đảo
vịnh Bái Tử Long. Đặc biệt Quyết định số
120/2007/QĐ-TTg ngày 26/7/2007 của Thủ
tướng Chính phủ về việc thành lập và ban hành
quy chế hoạt động của Khu kinh tế Vân Đồn,
tỉnh Quảng Ninh với mục tiêu cụ thể: Từng bước
xây dựng và phát triển Khu kinh tế Vân Đồn trở
thành trung tâm du lịch sinh thái biển - đảo
chất lượng cao, trung tâm hàng không quốc tế,
trung tâm dịch vụ cao cấp và là đầu mối giao
thương quốc tế; đóng góp lớn vào tăng trưởng
kinh tế, phát triển bền vững cho Quảng Ninh...
Đây là định hướng cho các cấp Đảng ủy, chính
quyền địa phương quản lý, xây dựng phát triển
du lịch biển đảo vịnh Bái Tử Long đồng thời là
cơ sở và mục tiêu để ban hành các văn bản tăng
cường về công tác quản lý và phát triển du lịch
trên địa bàn vịnh (Bảng 1). 3.1.2. Công tác quy
hoạch và thực hiện quy hoạch
Công tác quy hoạch phát triển du lịch biển
đảo vịnh Bái Tử Long nói riêng, quy hoạch xây
dựng khu Kinh tế - Hành chính đặc biệt Vân
Đồn nói chung hiện đang rất được quan tâm.
Ngay từ năm 2009 Chính phủ đã ban hành
Quyết định số 1296/QĐ-TTg về phê duyệt quy
hoạch chung xây dựng khu Kinh tế Vân Đồn.
Trên cơ sở quy hoạch vùng của tỉnh Quảng
Ninh, Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch
Quảng Ninh đến năm 2020 tầm nhìn đến năm
2030, quy hoạch phát triển du lịch vịnh Bái Tử
Long đang được UBND tỉnh Quảng Ninh xem
xét Phê duyệt.
Châu Quốc Tuấn, Nguyễn Thị Minh Hiền
897
Bảng 1. Các văn bản có liên quan đến quản lý và chính sách phát triển du lịch
Năm Số hiệu văn bản Nơi ban hành Tên văn bản
2007 Quyết định Số:
120/2007/QĐ-TTg
Thủ tướng Chính phủ Thành lập và ban hành quy chế hoạt động Khu kinh tế Vân Đồn, tỉnh
Quảng Ninh
2009 Quyết định
1296/QĐ-TTg
Thủ tướng Chính phủ Phê quyệt quy hoạch chung xây dựng Khu kinh tế Vân Đông tỉnh,
Quảng Ninh đến năm 2020 tầm nhìn đến năm 2030
2011 Chỉ thị 11/CT-
UBND
UBND tỉnh Quảng
Ninh
Tăng cường công tác quản lý môi trường kinh doanh du lịch trên địa
bàn tỉnh Quảng Ninh
2012 Thông báo số
108/TB-TƯ
Bộ chính trị Thông báo của Bộ Chính trị về đề án Phát triển kinh tế - xã hội nhanh,
bền vững; bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh và thí điểm xây
dựng hai đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt Vân Đồn,
2012 Quyết định Số:
3268/2012/QĐ-
UBND
UBND tỉnh Quảng
Ninh
Quyết định về quản lý môi trường kinh doanh du lịch trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh
2013 Quyết định số
2526/2013/QĐ-UB
UBND tỉnh Quảng
Ninh
Ban hành Quy chế quản lý bãi tắm du lịch trên địa bàn tỉnh Quảng
Ninh
2013 Thông báo số
287/TB-HU
Huyện ủy Vân Đồn Thông báo về nhiệm vụ và giải pháp phát triển du lịch Vân Đồn giai
đoạn 2013 - 2015
2013 Chương trình số
518/Ctr-UBND
UBND huyện Vân
Đồn
Phát triển du lịch Vân Đồn giai đoạn 2013 - 2015
2014 Dự thảo Quy
hoạch
Sở Văn hóa Thể thao
và Du lịch Quảng
Ninh
Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Quảng Ninh đến năm 2020, tầm
nhìn 2030
Nguồn: UBND tỉnh Quảng Ninh, 2012; Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch, 2014; UBND huyện Vân Đồn, 2013
Theo các quy hoạch này du lịch vịnh Bái Tử
Long hiện đang được quy hoạch phát triển khu
nghỉ dưỡng cao cấp tại các đảo Trà Ngọ, Ngọc
Vừng, Quan Lạn, Minh Châu, Vạn Cảnh, Thắng
Lợi... cùng với các loại hình và sản phẩm phong
phú như du lịch sinh thái, các khu vui chơi giải
trí cao cấp, du lịch văn hoá - di tích lịch sử và
loại hình du lịch biển (Phòng Kinh tế - Hạ tầng,
huyện Vân Đồn, 2012).
Để thực hiện các quy hoạch và thu hút các
nhà đầu tư, tỉnh Quảng Ninh đã ban hành các
chính sách ưu đãi như: Chính sách về đất đai;
Chính sách thuế... và đơn giản hóa các thủ tục
hành chính tạo môi trường thuận lợi cho các
nhà đầu tư.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện quy
hoạch trên địa bàn còn tồn tại một số vấn đề.
Thứ nhất: trên địa bàn vịnh hiện đang triển
khai cùng lúc quy hoạch đô thị, quy hoạch phát
triển du lịch phục vụ cho phát triển khu kinh tế
và quy hoạch xây dựng nông thôn mới dẫn đến
nhiều khó khăn, vướng mắc, chồng chéo gây
lúng túng trong việc áp dụng các tiêu chí quy
hoạch. Thứ hai: Công tác quản lý khu du lịch
hiện nay gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt tình
trạng xây dựng các nhà nghỉ, khách sạn, nhà
hàng, hệ thống bè dịch vụ ăn uống, nuôi trồng
với qui mô nhỏ, dàn trải, tập trung ở các khu
vực cảng tàu, bãi biển không theo qui hoạch và
qui định còn diễn ra rất nhiều. Các hoạt động
cải tạo mặt bằng cho các công trình xây dựng,
cải tạo bãi biển, các công trình xây dựng phục
vụ cho khách du lịch chưa theo kế hoạch tổng
thể; việc xây dựng không theo qui hoạch đã gây
ảnh hưởng xấu đến cảnh quan, làm ô nhiễm môi
trường. Nguyên nhân chính là do qui hoạch du
lịch của huyện Vân Đồn chưa được phê duyệt,
bên cạnh đó chưa có sự đồng thuận cao giữa các
cơ quan ban ngành của tỉnh với chính quyền địa
phương huyện đảo.
3.1.3. Công tác xúc tiến quảng bá phát
triển du lịch biển đảo
Trong thời gian qua tỉnh Quảng Ninh và
huyện đảo Vân Đồn đã quan tâm đến việc xúc
tiến, quảng bá đưa du lịch biển đảo vịnh Bái Tử
Long đến với du khách trong và ngoài nước bằng
nhiều hình thức như: lập các website cung cấp
Đánh giá phát triển du lịch biển đảo bền vững vịnh Bái Tử Long
898
Biểu đồ 1. Nguồn thông tin về Vịnh Bái Tử Long
Nguồn: Tổng hợp điều tra của tác giả, 2013
các thông tin về vịnh Bái Tử Long, tập trung
quảng bá trên các chương trình truyền thanh,
truyền hình, các báo và tạp chí thông tin cảnh
quan và sản phẩm du lịch biển đảo vịnh Bái Tử
Long. Tổ chức các sự kiện, các lễ hội quảng bá
du lịch hàng năm như: Lễ hội chèo bơi Quan
Lạn, Lễ hội đền Cặp Tiên, Lễ hội chùa Cái
Bầu... và đặc biệt tuần lễ Du lịch Carnaval Hạ
Long đã trở thành thường niên với cách tổ chức
ngày càng đổi mới, hấp dẫn du khách trong và
ngoài nước, được dư luận đánh giá cao về cách
thức tổ chức.
Trong các nguồn thông tin làm cho du
khách lựa chọn vịnh Bái Tử Long làm điểm đến
thì thông tin tổng hợp (thông tin nhiều chiều)
chiếm tỷ lệ cao nhất (34,5%); thông tin từ
truyền hình, báo chí cũng chiếm tỷ lệ khá cao
(32,7%). Thông qua các buổi phát sóng truyền
hình, các tạp chí đã thu hút được một số lớn
lượng khách đến Vịnh; tuy nhiên, các nguồn
thông tin khác thì không đáng kể như từ các
website trên Internet (15,2%), thông tin từ bạn
bè, người thân (14,1%) và đặc biệt là nguồn
thông tin từ các Trung tâm lữ hành chiếm tỷ lệ
rất thấp (3,5%). Qua kết quả điều tra, khảo sát
các hãng lữ hành trên địa bàn Vịnh và tỉnh
Quảng Ninh cũng cho thấy việc cung cấp thông
tin, quảng bá cho du lịch biển đảo vịnh Bái Tử
Long còn ít và nghèo nàn, chủ yếu mới quan
tâm nhiều đến việc quảng bá hình ảnh Vịnh Hạ
Long. Các đơn vị lữ hành cũng thừa nhận là
chưa phát huy hết được tính chất và vai trò của
một hãng lữ hành đóng trên địa bàn.
3.1.4. Công tác phát triển hạ tầng dịch vụ
du lịch và nguồn nhân lực
* Cơ sở hạ tầng
Số cơ sở lưu trú ngày càng tăng cả về số
lượng lẫn quy mô. Tốc độ tăng trưởng số cơ sở
lưu trú trên địa bàn là 17,2%. Năm 2007, Vịnh
chỉ có 44 cơ sở lưu trú, đến năm 2013 con số này
đã tăng lên là 109 với 1.437 phòng nghỉ (tăng
gấp 2,5 lần). Tuy nhiên, kết quả khảo sát khách
du lịch về hạ tầng và chất lượng dịch vụ lưu trú
cho thấy chỉ số độ hài lòng của khách ở loại dịch
vụ này là rất thấp 0,49 (Bảng 2) do cơ sở lưu trú
ở đây chất lượng kém và giá cả quá cao. Qua đây
cho thấy, cần phải xem xét về chất lượng dịch
vụ lưu trú cũng như sự quản lý giá cả đối với
loại dịch vụ này.
Trên Vịnh, phương tiện vận chuyển khách
du lịch chủ yếu là bằng đường bộ và đường biển.
Các phương tiện vận chuyển đường bộ là xe taxi
và ô tô tăng nhanh. Năm 2007, trên địa bàn
Vịnh chỉ có 4 hãng taxi với 60 chiếc đến năm
2013 đã tăng lên 10 hãng với 158 chiếc, tốc độ
tăng trưởng bình quân 17,8%. Tại một số các
đảo như Quan Lạn, Minh Châu, Ngọc Vừng...
phương tiện vận chuyển khách bằng đường bộ
chủ yếu là xe lam (xe túc túc), đây là một dịch
vụ vận chuyển rất đặc trưng và được du khách
Châu Quốc Tuấn, Nguyễn Thị Minh Hiền
899
đến đây khá ấn tượng và ưa thích. Phương tiện
đường biển bao gồm tàu cao tốc, tàu gỗ dùng để
vận chuyển khách từ quần đảo Cái Bầu ra các
đảo. Năm 2007 chỉ có 22 chiếc các loại, đến năm
2013 đã tăng lên 60 chiếc tăng gấp 2,7 lần (tăng
với tốc độ bình quân 29,5%). Đây là phương tiện
vận chuyển đặc trưng của du lịch biển đảo được
các du khách khá ưa thích. Trên các chuyến tàu
này du khách được chiêm ngưỡng, thưởng ngoạn
cảnh quan biển đảo hoang sơ của vịnh Bái Tử
Long. Chính vì thế, chỉ số hài lòng của du khách
đánh giá về hạ tầng và chất lượng loại dịch vụ
này cao nhất 2,83.
Số lượng nhà hàng, dịch vụ ăn uống tính
đến năm 2013 là 74 cơ sở, gấp 6,7 lần so với năm
2007, mức độ tăng trưởng bình quân 37,9% với
nhiều quy mô và hình thức khác nhau trên các
đảo. Dịch vụ này cũng có chỉ số hài lòng khá cao
1,86 với 41,4% du khách hài lòng. Qua phỏng
vấn cho thấy dịch vụ ăn uống tại Vịnh mang
tính đặc trưng, nhiều món ăn hải sản hấp dẫn,
tươi sống có giá trị dinh dưỡng cao nên được
khách du lịch ưa thích.
Hạ tầng và dịch vụ vui chơi giải trí, các dịch
vụ bổ trợ khác của Vịnh hiện nay chưa phát
triển, còn nghèo nàn, kém phong phú, chính vì
thế chỉ số hài lòng về hạ tầng và chất lượng loại
hình dịch vụ này còn thấp chỉ là 0,36 (đối với
dịch vui chơi giải trí) và 0,56 (đối với các dịch vụ
bổ trợ).
* Nguồn nhân lực du lịch
Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm về
nguồn nhân lực du lịch là 10,58%. Năm 2013
lượng lao động ngành du lịch của Vịnh là 3.884
người. Trình độ lao động từ trung cấp trở lên
chiếm 37,06%, lao động chưa qua đào tạo chiếm
tỷ lệ còn khá cao 40,34%. Đánh giá về tính
chuyên nghiệp của đội ngũ lao động du lịch
trực tiếp tại Vịnh cho thấy, đội ngũ lao động
trực tiếp tại làm việc tại các dịch vụ vận chuyển
khách được đánh giá cao nhất (38,2%), sau đó là
lao động tại cơ sở lưu trú (26,8%). Các lao động
trực tiếp làm việc tại các nhà hàng và trung tâm
lữ hành được du khách đánh giá là kém. Nhìn
chung chất lượng đội ngũ lao động du lịch trực
tiếp tại Vịnh còn nhiều hạn chế, thiếu tính
chuyên nghiệp và kinh nghiệm phục vụ, thiếu
đội ngũ lao động có tay nghề cao, trình độ ngoại
ngữ còn kém, đặc biệt là đội ngũ lao động phục
vụ tại các nhà hàng, các trung tâm lữ hành.
3.1.5. Các kết quả phát triển du lịch biển đảo
Du lịch biển đảo vịnh Bái Tử Long trong
thời gian qua tuy còn non trẻ nhưng với tiềm
năng lợi thế về tài nguyên cảnh quan biển đảo
nên đã đạt được một số kết quả quan trọng,
khẳng định một bước tiến mới của du lịch vịnh
Bái Tử Long. Lượng khách du lịch đến Vịnh liên
tục tăng. Năm 2000, vịnh Bái Tử Long đón
276.130 lượt khách đến năm 2013 Vịnh đón
622.350 lượt khách du lịch, tốc độ tăng trưởng
bình quân hàng năm 14,52% (Bảng 4). Tuy
nhiên, lượng khách du lịch lưu trú tại Vịnh
Bảng 2. Tỷ lệ và chỉ số đánh giá mức độ hài lòng về hạ tầng
và chất lượng dịch vụ du lịch
Chỉ tiêu
Độ hài lòng về hạ tầng và chất lượng dịch vụ
Chỉ số
hài
lòng*
Rất
hài lòng
(%)
Hài lòng
(%)
Bình
thường (%)
Không
hài lòng
(%)
Rất không
hài lòng
(%)
Hạ tầng và chất lượng dịch vụ lưu trú 8,9 11,3 38,7 21,7 19,4 0,49
Hạ tầng và chất lượng dịch vụ vận chuyển 14,8 29,4 40,2 11,3 4,3 2,83
Hạ tầng và chất lượng dịch vụ ăn uống 12,5 28,9 36,3 11,9 10,4 1,86
Hạ tầng và chất lượng dịch vụ vui chơi giải trí 4,1 15,7 28,4 30,5 21,3 0,38
Hạ tầng và chất lượng dịch các dịch vụ còn lại 4,9 14,3 46,4 17,5 16,9 0,56
Ghi chú: * = (tỷ lệ: rất hài lòng + hài lòng ít)/(tỷ lệ: Không hài lòng + rất không hài lòng)
Nguồn: Tổng hợp điều tra và tính toán của tác giả, 2013
Đánh giá phát triển du lịch biển đảo bền vững vịnh Bái Tử Long
900
Bảng 3. Đánh giá của du khách về tính chuyên nghiệp của nguồn nhân lực du lịch
Chỉ tiêu Rất chuyên nghiệp (%)
Chuyên nghiêp
(%)
Bình thường
(%)
Kém chuyên
nghiệp (%)
Lao động trực tiếp tại cơ sở lưu trú 8,2 18,6 51,3 21,9
Lao động trực tiếp tại dịch vụ vận chuyển 16,7 21,5 45,6 16,2
Lao động trực tiếp tại nhà hàng 6,1 11,3 46,7 35,9
Lao động trực tiếp trung tâm lữ hành 5,9 9,3 43,2 41,6
Nguồn: Tổng hợp điều tra của tác giả, năm 2013
không cao, năm 2013 khách lưu trú tại Vịnh là
420.860 lượt khách chiếm 67,6% tổng số
khách tới Vịnh và chủ yếu là khách nội địa có
thời gian lưu trú tại Vịnh rất ngắn (bình
quân 1,22 ngày), khách quốc tế đến thăm
quan và lưu trú tại Vịnh có số ngày lưu trú
dài hơn (bình quân 2,02 ngày) nhưng số
lượng khách này không đáng kể chỉ chiếm
2,7% tổng số khách lưu trú.
Doanh thu du lịch có tốc độ tăng trưởng
bình quân đạt 27,9%, năm 2007 doanh thu du
lịch đạt 107,83 tỷ đồng, đến năm 2013 đạt
466,15 tỷ đồng gấp 4,3 lần năm 2007.
3.2. Đánh giá tính bền vững của du lịch
biển đảo Vịnh Bái Tử Long
3.2.1. Đánh giá trên khía cạnh kinh tế
Hàng năm du lịch vịnh Bái Tử Long tạo ra
giá trị mới VA với mức tăng trưởng bình quân
27,93 % (Bảng 5) và đóng góp bình quân vào
GDP của huyện đảo Vân Đồn tới 18,2%. Tỷ lệ
này đã khẳng định du lịch biển đảo vịnh Bái Tử
Long trong thời gian qua tuy còn non trẻ nhưng
với sự phát triển nhanh chóng đã khẳng định vị
trí quan trọng trong chiến lược việc phát triển
kinh tế của địa phương.
Như vậy xét riêng về góc độ kinh tế, có thể
đánh giá du lịch vịnh Bái Tử Long đang phát
triển tạo ra giá trị mới đóng góp cho kinh tế của
huyện đảo Vân Đồn với mức độ tăng trưởng
bình quân khá cao và ổn định, đồng thời đem lại
thu nhập cao và ổn định cho lao động địa
phương so với các ngành kinh tế khác trên địa
bàn. Có thể nói với tốc độ phát triển như hiện
nay, du lịch vịnh Bái Tử Long đang phát triển
khá bền vững về kinh tế.
3.2.2. Đánh giá trên khía cạnh xã hội
Du lịch tác động đến việc giải quyết công ăn
việc làm và đem tăng thu nhập cho lao động địa
phương. Nghiên cứu tình hình thu hút lao động
địa phương năm 2013 tại 4 khu du lịch cho thấy
tỷ lệ lao động địa phương tại các khu du lịch này
rất cao (bình quân 86,7%), và thu nhập bình
quân đạt 47,4 triệu đồng/năm/người. Chứng tỏ
du lịch phát triển đã góp phần giải quyết công
ăn việc làm đem lại nguồn thu nhập cao cho lao
động địa phương.
Bảng 4. Các kết quả cơ bản của phát triển du lịch biển đảo vịnh Bái Tử Long
Chỉ tiêu 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013
Tăng
trưởng
bình quân
(%)
Tổng số khách du lịch đến vịnh ngàn lượt 276,13 306,90 351,85 409,32 476,73 540,47 622,35 14,52
+ Số lượng khách du lịch lưu trú ngàn lượt 177,63 198,40 230,45 267,30 310,35 358,94 420,86 15,48
- Khách quốc tế ngàn lượt 2,42 3,01 3,77 4,78 6,35 8,34 11,57 29,89
- Khách nội địa ngàn lượt 175,21 195,39 226,68 262,52 304,00 350,60 409,29 15,20
+ Số lượng khách tham quan ngàn lượt 98,50 108,50 121,40 142,02 166,38 181,53 201,49 12,71
Doanh thu từ du lịch tỷ đồng 107,83 127,47 176,97 225,89 310,52 375,29 466,15 27,9
Nguồn: Phòng Văn hóa Thông tin huyện Vân Đồn, 2013
Châu Quốc Tuấn, Nguyễn Thị Minh Hiền
901
Bảng 5. Tỷ lệ đóng góp giá trị tăng thêm (VA) từ hoạt động du lịch
vào GDP của địa phương
Chỉ tiêu Đơn vị tính
200
7 2008 2009 2010 2011 2012 2013
Tăng
trưởng bình
quân (%)
GDP của huyện Vân Đồn Tỷ đồng 359 420 489 670 934 1.080 1.255 23,61
Giá trị tăng thêm (VA) từ du lịch Tỷ đồng 53 65 85 105 152 187 229 27,93
Tỷ lệ đóng góp giá trị tăng thêm
(VA) du lịch vào GDP của địa bàn
% 14,7 15,5 17,4 15,7 16,3 17,3 18,2
Nguồn: UBND huyện Vân Đồn và tổng hợp tính toán của tác giả, 2013
Bảng 7 . Tỷ lệ lao động địa phương tại các khu du lịch năm 2013
Chỉ tiêu Khu du lịch Vân Hải
Khu du lịch Mai
Quyền
Khu du lịch
Việt Mỹ
Khu Resort
Minh Châu
Bình
quân
Tỷ lệ (%) lao động địa phương trong các khu du lịch 83,7 82,1 89,8 91,3 86,7
Thu nhập bình quân/1 lao động/năm (triệu đồng) 54 45,6 42 48 47,4
Nguồn: Tổng hợp điều tra của tác giả, 2013
Du lịch biển đảo tác động tới việc xóa đói
giảm nghèo của cộng đồng, địa phương. Qua
khảo sát các hộ nghèo và những hộ đã thoát
nghèo trong 3 năm 2010 đến 2013 tại các đảo
Minh Châu, Quan Lạn, Ngọc Vừng, xã Hạ Long
nhận thấy trong tổng số 61 hộ nghèo, có 22 hộ
đã thoát nghèo (tính đến năm 2013) và trong số
này có 63,6% (14 hộ) hiện đang có nhân khẩu
lao động cung cấp các dịch vụ có liên quan đến
hoạt động du lịch như: Chèo đò đưa đón khách,
lái xe thuê (vận chuyển khách du lịch), chế tạo
thủ công các đồ lưu niệm từ các vỏ sò, ốc bán cho
khách du lịch,..Điều này chứng tỏ du lịch tại
đây cũng là một nhân tố quan trọng góp phần
vào xóa đói giảm nghèo tại địa phương.
Du lịch tác động đến môi trường văn hóa
biển đảo. Sự tác động này nằm ở hai xu hướng,
có khả năng làm suy thoái văn hóa truyền
thống, thương mại hóa các hoạt động lễ hội, làm
mất vẻ đẹp văn hóa truyền thống của địa
phương, hoặc có tác động tích cực làm khơi dậy,
phong phú thêm bản sắc văn hóa truyền thống
của vùng biển đảo. Để đánh giá tác động của
của sự phát triển du lịch tới môi trường văn hóa
biển đảo, nghiên cứu đã khảo sát, tham vấn ý
kiến của 100 người dân bản địa và 25 ý kiến của
cán bộ làm công tác văn hóa cấp huyện, cấp xã
trên địa bàn. Kết quả cho thấy, người dân bản
địa (58,0%) và cán bộ văn hóa (61,6%) nhận
định với sự phát triển của du lịch như hiện nay
có khả năng sẽ làm suy thoái văn hóa truyền
thống vùng biển đảo khá cao. Đây là vấn đề đặt
ra cần quan tâm cho sự phát triển du lịch biển
đảo của Vịnh trong thời gian tới.
Bảng 8. Đánh giá của cộng đồng về các ảnh hưởng của du lịch
đến văn hóa truyền thống
Chỉ tiêu
Khả năng làm phong phú
thêm nên văn hóa của
vùng (%)
Không ảnh hưởng đến
văn hóa địa phương
(%)
Khả năng làm suy thoái văn
hóa truyền thống của vùng
biển đảo cao (%)
Tỷ lệ của người dân địa phương 19,0 23,0 58,0
Tỷ lệ đánh giá của cán bộ quản lý
văn hóa 24,3 14,1 61,6
Nguồn: Tổng hợp điều tra của tác giả, 2013
Đánh giá phát triển du lịch biển đảo bền vững vịnh Bái Tử Long
902
Du lịch biển đảo vịnh Bái Tử Long tác động
tới an ninh trật tự và an toàn xã hội vùng biển
đảo. Trước năm 2005, khi du lịch mới bắt đầu
phát triển, số vụ án mại dâm, cờ bạc, ma túy ở
mức trung bình 10 đến 15 vụ/năm, đến năm
2013 số vụ án trên đã tăng lên 50 vụ nhưng chỉ
chiếm 0,7% số vụ cùng loại trên địa bàn toàn
tỉnh và bằng 20% so với địa bàn vịnh Hạ Long
(Viện Kiểm sát huyện Vân Đồn, 2013); các tệ
nạn về cưỡng đoạt, trộm cắp tài sản cũng gia
tăng theo hàng năm cùng với với sự gia tăng của
khách du lịch. Ngoài ra, do việc phân bố lợi ích
và chi phí của du lịch trong nhiều trường hợp
chưa được công bằng sẽ gây ra mâu thuẫn giữa
những người làm du lịch với dân địa phương.
Như vậy, với sự phát triển mạnh của du lịch
biển đảo vịnh Bái Tử Long, ngoài những tác động
tích cực tới các vấn đề xã hội như giải quyết việc
làm, đem lại thu nhập cao cho lao động địa
phương, góp phần giảm nghèo thì bên cạnh đó,
với sự phát triển này cũng đặt ra các vấn đề
thiếu tính bền vững về mặt xã hội như: Khả năng
suy thoái về văn hóa truyền thống biển đảo và
nguy cơ mất ổn định an ninh trật tự và an toàn
xã hội ngày càng cao cho du lịch của Vịnh.
3.2.3. Đánh giá trên khía cạnh môi trường
* Đánh giá lượng phát thải từ hoạt động du
lịch biển đảo và việc thu gom xử lý. Dựa theo
tính toán của các chuyên gia du lịch và môi
trường của Viện Nghiên cứu và Phát triển Du
lịch đối với các chỉ tiêu thải của khách du lịch
tại các vùng biển Đông Bắc và căn cứ vào số
lượng khách lưu trú, số lượng lao động du lịch
trực tiếp, nghiên cứu đã ước tính được lượng rác
thải và lượng nước thải từ hoạt động du lịch
hàng năm diễn biến theo biểu đồ 2.
Lượng rác thải hàng năm có xu hướng tăng
nhanh, mức tăng trưởng bình quân 19,73%. Nếu
như năm 2007 lượng rác thải từ hoạt động du
lịch là 628,2 tấn thì đến năm 2013 lượng này
tăng lên 1830,6 tấn gấp 3 lần so với năm 2007.
Thành phần rác thải chủ yếu là bao bì giấy bánh
kẹo, vỏ chai nhựa, bao bì nilon, các loại bao bì
nước giải khát, thức ăn thừa của khách du lịch.
Công tác thu gom xử lý rác thải trên Vịnh hầu
như mang tính chất thủ công, trên đất liền do các
công nhân môi trường đô thị Vân Đồn đảm nhận,
tại các đảo do đội thu gom của xã thực hiện
nhưng không qua xử lý, đến nay chưa có hình
thức và biện pháp thu gom xử lý rác thải trên
biển. Lượng nước thải cũng có mức tăng trưởng
bình quân hàng năm khá cao (18,76%). Nước thải
từ hoạt động du lịch hiện nay từ các cơ sở lưu trú
cũng chỉ được xử lý thô sơ, cho lắng đọng sau đó
thải luôn ra môi trường biển.
Môi trường nước biển ven bờ dành cho hoạt
động du lịch biển đảo. Kết quả quan trắc môi
trường nước biển dành cho hoạt động du lịch
của Trung tâm quan trắc và phân tích môi
trường Quảng Ninh tại các bãi tắm và khu du
Biểu đồ 2. Lượng nước rác thải và nước thải từ hoạt động du lịch
Nguồn: Tổng hợp và tính toán của tác giả, 2013
Châu Quốc Tuấn, Nguyễn Thị Minh Hiền
903
lịch ven biển cho thấy, đa số các thông số
đều chưa vượt quá giới hạn cho phép của môi
trường nước biển dành cho hoạt động du lịch.
Tuy nhiên, đã có một số thông số gần tới và có
nguy cơ vượt quá giới hạn quy định cho phép
như thông số nhu cầu ô xy (DO), hàm lượng chất
rắn lơ lửng (TSS) trong nước biển ven bờ. Đồng
thời, kết quả cũng cho thấy các điểm thực hiện
quan trắc đều phát hiện thấy nguy cơ của sự ô
nhiễm dầu mỡ của nước biển. Tại các điểm Cầu
Cảng Cái Rồng, Bờ biển Ngọc Vừng, Bờ biển
Minh Châu, Cầu Vân Đồn hàm lượng dầu mỡ
trong nước biển đã vượt quá tiêu chuẩn cho
phép của QCVN 10: 2008/BTNMT về nước biển
ven bờ cho hoạt động du lịch tắm biển, với
nguyên nhân chính do hoạt động của tàu thuyền
chuyên chở khách du lịch, tầu đánh bắt thủy hải
sản... thuyền viên, khách du lịch và cộng đồng
đã thải hoặc làm rơi rớt các chất thải lỏng, dầu
mỡ, nước thải và rác thải xuống trực tiếp nước
biển, một phần ô nhiễm từ lượng nước thải từ
các hoạt động du lịch, khu dân cư không qua xử
lý thải đổ ra biển.
Như vậy, với sự phát triển nhanh chóng của
lượng khách du lịch hàng năm, đã làm cho môi
trường biển đảo đang có nguy cơ và đối mặt với
sự phát triển thiếu tính bền vững dưới góc độ
môi trường.
3.3. Một số giải pháp phát triển du lịch
biển đảo bền vững vịnh Bái Tử Long
3.3.1. Giải pháp về quy hoạch và đầu tư
phát triển du lịch
Thực hiện ban hành quy hoạch phát triển
du lịch vịnh Bái Tử Long; Cần xem xét sự đồng
bộ giữa quy hoạch phát triển du lịch, quy hoạch
khu kinh tế với hệ thống quy hoạch nông thôn
mới giữa các địa bàn, xã, thị trấn. Thực hiện tốt
công tác quy hoạch theo đúng tiến độ. Các hạng
mục cần tập trung ưu tiên: xây dựng hệ thống hạ
tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội thiết yếu, các sản
phẩm du lịch vui chơi giải trí bổ trợ tạo động lực
phát triển chung. Cần quy hoạch phù hợp các
khu vực neo đậu an toàn cho hệ thống tàu,
thuyền vận chuyển khách; hệ thống tầu nghỉ
đêm trên Vịnh; xây dựng khu neo đậu riêng biệt
cho hệ thống tàu đánh bắt thủy hải sản.
3.3.2. Phát triển sản phẩm và nâng cao
chất lượng dịch du lịch đảm bảo sự hài
lòng của khách du lịch
Xây dựng các sản phẩm du lịch mới gắn với
tài nguyên biển đảo và thân thiện với môi
trường, tập trung phát triển các sản phẩm du
lịch tắm biển, nghỉ dưỡng, sinh thái, thể thao
biển đồng thời quan tâm tới phát triển các sản
phẩm văn hóa làng nghề biển đảo, các sản phẩm
du lịch cộng đồng... Chú trọng xây dựng và phát
triển các sản phẩm du lịch bổ sung, thay thế để
thu hút khách du lịch vào mùa đông là mùa
không thuận lợi cho du lịch biển của vịnh như
hiện nay.
Tập trung đầu tư cơ sở hạ tầng để nâng cao
chất lượng dịch vụ du lịch, đặc biệt dịch vụ lưu
trú và các dịch vụ vui chơi giải trí cụ thể: Nâng
cao chất lượng phòng nghỉ, đổi mới các trang
thiết bị cơ sở lưu trú cần tạo ra sự mới lạ hấp
dẫn về cảnh quan và nhiều loại hình lưu trú để
du khách có thể lựa chọn, phát triển và nâng
cao chất lượng các dịch vụ vui chơi giải trí bổ
sung tại các khu du lịch để kéo dài thời gian lưu
trú của khách. Cần thực hiện nghiêm công tác
quản lý giá dịch vụ du lịch trên địa bàn bằng
các hình thức: niêm yết công khai giá cả các
dịch vụ, tăng cường công tác thanh kiểm tra
chất lượng và giá cả dịch đặc biệt vào mùa cao
điểm để đảm bảo quyền lợi cho khách du lịch.
3.3.3. Tăng cường và chú trọng các giải
pháp bảo vệ môi trường
Thực hiện tăng cường các quy định quản lý
môi trường và các công tác thực thi. Thực hiện
công tác quản lý thu gom và xử lý rác thải, nước
thải, khí thải hợp vệ sinh tại các cơ sở lưu trú,
các khu du lịch và các tàu thuyền vận chuyển
khách, đồng thời thực hiện đầu tư hệ thống xử
lý rác thải phù hợp tại các đảo và các khu vực
ven biển. Thường xuyên tổ chức các đoàn liên
ngành kiểm tra về môi trường tại các cơ sở kinh
doanh du lịch và các bến tàu. Quản lý chặn chẽ
nguồn thải dầu cặn của các thuyền và số lượng
Đánh giá phát triển du lịch biển đảo bền vững vịnh Bái Tử Long
904
nước thải trên các tàu tham gia hoạt động trong
vùng vịnh. Tuyên truyền nâng cao ý thức bảo vệ
môi trường cho cộng đồng dân cư, khách du lịch
và các cơ sở kinh doanh du lịch trên địa bàn.
3.3.4. Thực hiện các giải pháp về xã hội để
phát triển du lịch biển đảo bền vững
Chú trọng phát triển bảo tồn văn hóa biển
đảo và tăng cường các biện pháp đảm bảo an
ninh trật tự, an toàn xã hội vùng biển đảo để
phát triển du lịch. Thứ nhất: Thực hiện đầu tư
nâng cấp, tu bổ, tôn tạo có trọng tâm các di tích
lịch sử, văn hoá lễ hội truyền thống, phong tục
tập quán. Phát triển các làng nghề truyền thống
về chế biển thủy sản như nghề làm mắm, đào sá
sùng, nuôi cấy ngọc trai... nhằm bảo vệ, gìn giữ
những giá trị văn hoá vật thể, phi vật thể
truyền thống vùng biển đảo. Thứ hai: Tăng
cường công tác đảm bảo an ninh trật tự của địa
bàn, đặc biệt các khu du lịch, thực hiện xử lý
nghiêm các tệ nạn xã hội phát sinh do hoạt động
du lịch đem lại; các tệ nạn trộm cắp tài sản từ
khách du lịch và sung đột mâu thuẫn giữa người
làm du lịch và cộng đồng địa phương.
3.3.5. Nâng cao chất lượng lao động du lịch
biển đảo
Cần cân đối cơ cấu lao động trực tiếp, gián
tiếp theo cơ cấu của ngành du lịch. Tập trung
nâng cao số lượng lao động được đào tạo bài bản,
đúng chuyên ngành du lịch cho các cơ sở kinh
doanh du lịch, nâng cao trình độ ngoại ngữ cho
đội ngũ hướng dẫn viên, chú trọng đào tạo nâng
cao tính chuyên nghiệp phục vụ của đội ngũ lao
động tại các cơ sở lưu trú và các nhà hàng.
Thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng, nâng
cao tay nghề, nghiệp vụ, cập nhật thông tin cho
đội ngũ lao động của ngành.
3.3.6. Tăng cường quảng bá xúc tiến và hợp
tác du lịch
Tỉnh Quảng Ninh nói chung, huyện Vân
Đồn nói riêng cần ưu tiên đối với các hoạt động
nghiên cứu thị trường du lịch biển đảo. Xã hội
hóa các hoạt động xúc tiến quảng bá, đặc biệt
việc tạo dựng hình ảnh vịnh Bái Tử Long tới
gần du khách và công chúng. Nội dung xúc tiến
quảng bá tập trung vào các điểm đến của du lịch
biển đảo, các tour du lịch nổi tiếng, các sản
phẩm và thương hiệu du lịch theo từng thị
trường mục tiêu. Chiến lược xúc tiến quảng bá
phải được thực hiện một cách đồng bộ thông qua
sự phối hợp giữa các ban ngành của tỉnh, địa
phương trên quy mô lớn, liên tục, đồng thời đặt
trọng tâm vào việc củng cố xây dựng thương
hiệu du lịch của vùng, lấy chiến lược phát triển
sản phẩm làm nội dung xây dựng kế hoạch xúc
tiến quảng bá cho du lịch. Xây dựng các website
để quảng bá hình ảnh du lịch vịnh Bái Tử Long
tới công chúng từ đó cập nhật các thông tin du
lịch như tuyến, điểm... và các sản phẩm du lịch
biển đảo vịnh Bái Tử Long tới du khách.
4. KẾT LUẬN
Du lịch biển đảo vịnh Bái Tử Long hiện
nay đang phát triển khá thuận lợi với sự
tăng trưởng nhanh của lượng khách (bình
quân 14,52%/năm) và được du khách đánh
giá cao về giá trị cảnh quan biển đảo. Hoạt
động du lịch đã đem lại nhiều doanh thu
(466,15 tỷ đồng/năm 2013) và đóng góp ngày
càng nhiều cho sự phát triển kinh tế xã hội
của địa phương (18,2% GDP), đặc biệt góp
phần xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm
đem lại nguồn thu ổn định cho lao động. Du
lịch ở đây bước đầu được đánh giá phát triển
bền vững về mặt kinh tế. Song du lịch Vịnh
đang đối mặt với các nguy cơ ô nhiễm môi
trường biển đảo, sự mất ổn định về an ninh
trật tự trên địa bàn, sự suy thoái về văn hóa,
mất dần đi các nét đẹp của phong tục tập
quán đặc trưng biển đảo. Do vậy, trong thời
gian tới để du lịch biển đảo vịnh Bái Tử Long
được phát triển một cách bền vững rất cần có
các chính sách và giải pháp đồng bộ và cần có
sự hỗ trợ và phối hợp tích cực của nhà nước,
chính quyền địa phương và cộng đồng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ Tài nguyên và Môi trường (2008). Quy chuẩn kỹ
thuật quốc gia về môi trường
Châu Quốc Tuấn, Nguyễn Thị Minh Hiền
905
Phòng Kinh tế - Hạ tầng, huyện Vân Đồn (2012). Thuyết
minh báo cáo quy hoạch Khu kinh tế Vân Đồn
Phòng Văn hóa Thông tin huyện Vân Đồn (2013).
Tổng hợp các chỉ tiêu phát triển du lịch trên địa
bàn huyện Vân Đồn giai đoạn 2007-2013.
Thủ tướng Chính phủ (2009). Quyết định số 1296-
QĐ/TTg ngày 19 tháng 8 năm 2009 về “Phê duyệt
quy hoach chung xây dựng khu kinh tế Vân Đồn,
tỉnh Quảng Ninh đến năm 2020 và tầm nhìn đến
năm 2030”.
Trung tâm quan trắc môi trường, Sở Tài nguyên môi
trường tỉnh Quảng Ninh, Báo cáo quan trắc môi
trường ven biển tỉnh Quảng Ninh các năm từ 2010
đến 2013.
Viện nghiên cứu Phát triển du lịch, tổng cục du lịch
(2009). Dự án đánh giá môi trưởng biển đảo vịnh
Hạ Long.
Viện Kiểm sát (2013). Báo cáo tổng kết về tình hình an
ninh trật tự trên địa bàn huyện Vân Đồn.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dulichbiendaobenvungvinhbaitulong_58.pdf