Vì vậy, để có được sự minh bạch và thống
nhất, BLDS cần có điều khoản độc lập quy định
về người thân thích. Từ đó, BLTTDS cũng như
các luật có liên quan như Luật Hôn nhân và gia
đình có thể dẫn chiếu hoặc quy định rõ ràng
hơn đối với khái niệm người thân thích khác.
Ngoài ra, quy định tại khoản 4, Điều 85
BLTTDS sẽ đặt ra câu hỏi: cha, mẹ, người thân
thích khác trong trường hợp này là đại diện
theo pháp luật hay đại diện theo ủy quyền?
Không giống như đại diện theo pháp luật, nếu
là đại diện theo uỷ quyền sẽ phải thông qua
những thủ tục nhất định.
Theo chúng tôi, để đảm bảo sự tương thích
với quy định của BLDS năm 2015, Điều 85
BLTTDS năm 2015 cần sửa theo hướng:
“Trường hợp người thân thích yêu cầu Tòa án
giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị
bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể
nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng
thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng,
vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng
đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ thì
người thân thích là người đại diện theo pháp
luật. Người thân thích theo quy định tại khoản 1
Điều 51 BLDS là người thân thích trong TTDS”.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 233 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá quy định về người đại diện của đương sự theo pháp luật dân sự và tố tụng dân sự Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Soá 4/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba
31
ĐÁNH GIÁ QUY ĐỊNH VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN CỦA ĐƯƠNG SỰ THEO
PHÁP LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
Bùi Thị Hà1
Tóm tắt: Đại diện là nhu cầu không thể thiếu trong đời sống xã hội cũng như trong môi trường
pháp lý. Trong tố tụng dân sự, đương sự có quyền tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình. Tuy nhiên, không phải bất kỳ trường hợp nào đương sự cũng có thể tự mình thực hiện các
quyền tố tụng đó. Vì nhiều lý do khác nhau như năng lực hành vi, thời gian, vị trí địa lý, trình độ
chuyên môn... đương sự phải thông qua người khác, tổ chức khác để thực hiện các quyền tố tụng đó.
Sự tham gia tố tụng dân sự của người đại diện đương sự thời gian qua cho thấy vị trí, vai trò quan
trọng của họ đối với việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự cũng như việc làm rõ sự thật
của vụ việc dân sự. Bài viết phân tích những điểm tương thích trong quy định về người đại diện của
đương sự theo pháp luật dân sự và pháp luật tố tụng dân sự của Việt Nam và một số vướng mắc nhằm
đề xuất kiến nghị hoàn thiện pháp luật về một số nội dung liên quan đến vấn đề này.
Từ khóa: Đại diện, chỉ định, ủy quyền, Bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự.
Nhận bài: 05/05/2018; Hoàn thành biên tập: 13/06/2018; Duyệt đăng: 24/07/2018
Abstract: Representation is an indispensible demand in the social life as well as in the legal
environment. In civil procedure, the litigants have the right to take part in proceedings to protect their
legitimate rights and interests. However,it does not mean that the litigants can execute those rights
themselves. Due to different reasons such as competence of act, time, location, qualification... the
litigans have to execute the rights of procedure through other individuals, organizations. The
participation of litigants’ representatives in civil procedure over the past time shows that the
representatives have important status, role in protecting litigants’ legitimate rights and interests as well
as clarifying the truth of the civil case. This article analyzes some points of compatibility in the law
on the representative of the litigant in civil law and civil procedure law of Vietnam and some obstacles
to propose recommendations to improve the law on some contents related to this issue.
Keywords: Representation, designation, authorization, civil code, civil procedure code.
Date of receipt: 05/05/2018; Date of revision: 13/06/2018; Date of approval: 24/07/2018
Chế định đại diện đã được quy định trong Bộ
luật tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2004, tiếp tục
được sửa đổi, bổ sung năm 2011. Tuy nhiên,
nhiều quy định về đại diện của đương sự trong
BLTTDS sửa đổi năm 2011 vẫn chưa đầy đủ,
nhiều quy định còn thiếu tính cụ thể, rõ ràng,
nhiều vấn đề cấp thiết chưa được luật hóa.
BLTTDS năm 2015 được ban hành đã khắc phục
nhiều điểm chưa hợp lý về người đại diện trong
các văn bản pháp luật tố tụng dân sự trước đây,
đảm bảo tốt hơn sự tương thích giữa pháp luật tố
tụng dân sự với pháp luật nội dung.
Thứ nhất, BLTTDS năm 2015 bổ sung
người đại diện là pháp nhân là phù hợp với quy
định của Bộ luật dân sự (BLDS) năm 2015.
Có thể thấy, các quy định về đại diện của
BLDS năm 2005 cơ bản đã đáp ứng được những
yêu cầu trong xác lập, thực hiện các quan hệ dân
sự. Tuy nhiên, một số nội dung quan trọng về đại
diện vẫn chưa được BLDS năm 2005 quy định
cụ thể, rõ ràng như: đại diện trong trường hợp
một cá nhân, pháp nhân có nhiều người đại diện
theo pháp luật hoặc theo ủy quyền; đại diện trong
trường hợp một cá nhân, pháp nhân làm đại diện
cho nhiều chủ thể khác nhau; thực hiện, bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba trong
trường hợp một bên hoặc cả hai bên không thực
hiện đúng quy định về đại diện, đặc biệt trong
trường hợp người đại diện thực hiện vượt quá
phạm vi đại diện của mình và người thứ ba có lý
1 Thạc sỹ Luật, Phó Giám đốc Trung tâm Bồi dưỡng cán bộ, Học viện Tư pháp
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
32
do chính đáng để tin rằng người đại diện có thẩm
quyền để thực hiện hành vi đó; thực hiện, bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của bên giao kết hợp
đồng với người không có thẩm quyền đại diện
nhưng lại giao kết hợp đồng với tư cách là người
đại diện cho người khác và người bị cho là người
được đại diện yêu cầu tuyên bố đại diện không có
giá trị pháp lý; đại diện của cộng đồng, dòng họ
trong các giao dịch và trách nhiệm ngoài hợp
đồng; trường hợp pháp nhân là người đại diện
theo ủy quyền của cá nhân hoặc pháp nhân khác2.
Khắc phục các hạn chế của BLDS năm 2005,
BLDS năm 2015 đã có một số sửa đổi, bổ sung
quy định về đại diện nhằm tạo điều kiện pháp lý
tốt hơn trong việc trợ giúp cá nhân, pháp nhân
thực hiện, bảo vệ các quyền dân sự của mình và
hạn chế rủi ro pháp lý trong các quan hệ dân sự,
là cơ chế pháp lý thuận lợi, minh bạch cho các cá
nhân, pháp nhân thực hiện, bảo vệ tốt hơn các
quyền dân sự, hạn chế được các rủi ro pháp lý.
Khái niệm “đại diện” trong BLDS năm 2015 đã
xác định rõ hơn về chủ thể đại diện. Nếu như
Điều 139 BLDS năm 2005 hướng đến người đại
diện là “một người” thì Điều 134 BLDS năm
2015 xác định rõ chủ thể đó là “cá nhân, pháp
nhân” mà không giới hạn về số lượng. Điều này
là phù hợp với thực tiễn, góp phần tạo điều kiện
cho các chủ thể tham gia vào quan hệ đại diện dễ
dàng hơn, không bị bó buộc chỉ có một chủ thể
là người đại diện như trước kia, điều quan trọng
là các chủ thể đại diện này xác lập, thực hiện giao
dịch dân sự nhân danh và vì lợi ích của người
được đại diện. Bên cạnh đó, khác với BLDS năm
2005, chủ thể đại diện khá chung chung (có thể
là cá nhân, tổ chức có tư cách hoặc không có tư
cách pháp nhân) thì Bộ luật dân sự năm 2015 đã
xác định rõ chủ thể đại diện là cá nhân và pháp
nhân. Những tổ chức không có tư cách pháp
nhân thì việc tham gia tố tụng thông qua tư cách
chủ thể cá nhân. Quy định này hướng đến việc
xác định rõ trách nhiệm cũng như tư cách pháp lý
của người đại diện, từ đó hướng đến bảo vệ tốt
hơn lợi ích hợp pháp của người được đại diện.
BLDS năm 2015 quy định mỗi pháp nhân có thể
có nhiều người đại diện theo pháp luật và pháp
nhân có thể là đại diện theo ủy quyền cho cá
nhân, pháp nhân khác (khoản 2 Điều 137 và Điều
138). Việc chính thức khẳng định một pháp nhân
có thể có nhiều người đại diện theo pháp luật
xuất phát từ thực tiễn hoạt động của pháp nhân
(chủ yếu là doanh nghiệp) và để bảo đảm tính
thống nhất với các văn bản pháp luật khác có liên
quan, chẳng hạn như Luật doanh nghiệp năm
20143. Như vậy quy định tại Điều 85 BLTTDS
năm 2015: “Người đại diện có thể là cá nhân
hoặc pháp nhân theo quy định của BLDS” là
đảm bảo sự tương thích với quy định của BLDS
năm 2015.
Bên cạnh đó, khoản 3 Điều 141 BLDS năm
2015 quy định một cá nhân, pháp nhân có thể đại
diện cho nhiều cá nhân hoặc pháp nhân khác
nhau nhưng không được nhân danh người được
đại diện để xác lập, thực hiện giao dịch dân sự
với chính mình hoặc với bên thứ ba mà mình
cũng là người đại diện của người đó, trừ trường
hợp pháp luật có quy định khác. Đây là quy định
mới mở rộng khả năng đồng đại diện rất phổ biến
trong thực tiễn từ trước đến nay và đảm bảo sự
tương thích với quy định tại Điều 87 BLTTDS
năm 20154.
Mặc dù vậy, thực tiễn cũng đã nảy sinh nhiều
trường hợp vướng mắc từ chính quy định này đòi
hỏi cần có sự nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung.
Ví dụ: Công ty A thực hiện hợp đồng thi công
xây dựng với Công ty B. Công ty B có giấy ủy
quyền cho hai người thực hiện công việc trong
2 Một số điểm mới về giám hộ và đại diện trong Bộ luật dân sự năm 2015,
truy cập ngày 10/3/2018.
3 Khoản 2 Điều 13 Luật doanh nghiệp quy định: “Công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần có thể có một
hoặc nhiều người đại diện theo pháp luật. Điều lệ công ty quy định cụ thể số lượng, chức danh quản lý và quyền,
nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp”
4 Điều 87 BLTTDS năm 2015. Những trường hợp không được làm người đại diện
1. Những người sau đây không được làm người đại diện theo pháp luật:
a) Nếu họ cũng là đương sự trong cùng một vụ việc với người được đại diện mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ
đối lập với quyền và lợi ích hợp pháp của người được đại diện;
b) Nếu họ đang là người đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự cho một đương sự khác mà quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự đó đối lập với quyền và lợi ích hợp pháp của người được đại diện trong cùng một vụ việc.
Soá 4/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba
33
cùng một thời điểm và nội dung giấy ủy quyền
giống nhau. Công ty B xuất trình cho Công ty A
cả hai giấy ủy quyền và giải thích rằng: “một
người được ủy quyền để ký hợp đồng và một
người được ủy quyền để ký các văn bản tài chính
như hóa đơn, thanh quyết toán công trình”.
Câu hỏi công ty A đặt ra là: “Giấy ủy quyền
cho hai người cùng một nội dung nhưng lại thực
hiện một hợp đồng trong một thời điểm có được
xem là hợp pháp không? Do nội dung uỷ quyền
giống nhau nên trong quá trình triển khai hai
người đại diện có ý kiến trái ngược nhau về cùng
một vấn đề thì sẽ giải quyết thế nào?”
Về căn cứ pháp lý, theo khoản 2 Điều 137
BLDS năm 2015 thì “một pháp nhân có thể có
nhiều người đại diện theo pháp luật và mỗi
người đại diện có quyền đại diện cho pháp nhân
theo quy định tại Điều 140 và Điều 141 của Bộ
luật này”. Đồng thời, BLDS năm 2015 không
quy định cấm việc ủy quyền thực hiện cùng một
công việc cho hai hay nhiều người, do đó việc ủy
quyền này là không trái pháp luật. Tuy nhiên, do
nội dung uỷ quyền không phân định rõ phạm vi
uỷ quyền dẫn tới chồng chéo và vướng mắc khi
người đồng đại diện bất đồng quan điểm với
nhau về cùng một vấn đề thì sẽ gây khó khăn
đến quá trình thực hiện hợp đồng. Trường hợp
này công ty A có quyền yêu cầu công ty B điều
chỉnh sao cho phù hợp hoặc khởi kiện nếu có
tranh chấp.
Chỉ với một tình huống nêu trên đã cho thấy
quy định về đại diện vẫn còn có những lỗ hổng
pháp lý cần nghiên cứu để hoàn thiện. Theo quan
điểm của chúng tôi, cần quy định rõ, trong trường
hợp có nhiều cá nhân/pháp nhân đại diện cho một
chủ thể cần xác định rõ phạm vi đại diện của từng
cá nhân/pháp nhân để tránh mâu thuẫn về quan
điểm và hành động của các đồng đại diện làm ảnh
hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của người
được đại diện.
Bên cạnh đó, cũng có người đặt ra câu hỏi:
Liệu pháp nhân đại diện có bắt buộc phải là tổ
chức hành nghề luật sư hay không? Theo quy
định của BLDS hiện hành, không có một điều
khoản nào bắt buộc pháp nhân đại diện phải là tổ
chức hành nghề luật sư. Điều này là phù hợp với
quy định của các luật chuyên ngành có liên quan
và phù hợp với thực tiễn cuộc sống. Bởi vì, hoạt
động đại diện tồn tại trong tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội. Nó đòi hỏi tri thức phong
phú của tất cả các ngành, các lĩnh vực để giải
quyết nhu cầu đại diện đặt ra của bên được đại
diện. Do đó, pháp nhân đại diện có thể là bất kỳ
pháp nhân hoạt động trong lĩnh vực nào, ngành
nào mà không bắt buộc phải là tổ chức hành
nghề luật sư.
Thứ hai, quy định về chấm dứt và hậu quả
của chấm dứt đại diện tố tụng dân sự là phù hợp
với quy định của BLDS năm 2015.
Điểm mới của BLDS năm 2015 so với BLDS
năm 2005 là xác định thời hạn đại diện cũng như
việc chấm dứt đối với từng trường hợp đại diện
theo ủy quyền và đại diện theo pháp luật5. Để
đảm bảo sự tương thích với quy định của BLDS
năm 2015, BLTTDS năm 2015 không quy định
cụ thể về chấm dứt đại diện mà quy định dưới
dạng dẫn chiếu:“Người đại diện theo pháp luật,
người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân
sự chấm dứt việc đại diện theo quy định của
BLDS”6. Song xuất phát từ đặc thù của hoạt động
tố tụng dân sự, BLTTDS còn quy định cụ thể hậu
quả pháp lý của việc chấm dứt đại diện. Trường
hợp chấm dứt đại diện theo pháp luật mà người
được đại diện đã thành niên hoặc đã khôi phục
năng lực hành vi dân sự thì người đó tự mình
tham gia tố tụng dân sự hoặc ủy quyền cho người
khác tham gia tố tụng dân sự theo thủ tục do
BLTTDS quy định. Trường hợp chấm dứt đại
diện theo ủy quyền thì đương sự hoặc người thừa
kế của đương sự trực tiếp tham gia tố tụng hoặc
ủy quyền cho người khác đại diện tham gia tố
tụng theo thủ tục do BLTTDS quy định.
Thứ ba, quy định của BLTTDS năm 2015 về
việc khởi kiện của tổ chức đại diện tập thể lao
động vì lợi ích của người lao động là tương thích
với quy định của Bộ luật lao động năm 2012 và
Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Theo quy định của Bộ luật lao động năm
2012 thì tổ chức đại diện tập thể lao động tại cơ
sở là Ban chấp hành công đoàn cơ sở hoặc Ban
chấp hành công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở ở
nơi chưa thành lập công đoàn cơ sở, là tổ chức
5 Điều 140 BLDS năm 2015.
6 Điều 89 BLTTDS năm 2015.
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
34
được thành lập hợp pháp, đại diện và bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động trong
quan hệ lao động. Do đó, để bảo đảm sự tương
thích với quy định của Bộ luật lao động năm
2012, Điều 187 BLTTDS năm 2015 quy định tổ
chức đại diện tập thể lao động có quyền khởi
kiện vụ án lao động trong trường hợp cần bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể người lao
động hoặc khi được người lao động ủy quyền
theo quy định của pháp luật; tổ chức xã hội tham
gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng có quyền
đại diện cho người tiêu dùng khởi kiện bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng hoặc tự mình khởi
kiện vì lợi ích công cộng theo quy định của Luật
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Trường hợp
nhiều người lao động có cùng yêu cầu đối với
người sử dụng lao động, trong cùng một doanh
nghiệp, đơn vị thì họ được ủy quyền cho một đại
diện của tổ chức đại diện tập thể lao động thay
mặt họ khởi kiện vụ án lao động, tham gia tố tụng
tại Tòa án.
Đối với vụ việc lao động mà có đương sự có
đương sự là người chưa thành niên, người mất
năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng
lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận
thức, làm chủ hành vi mà không có người đại diện
hoặc người đại diện theo pháp luật của họ thuộc
một trong các trường hợp quy định tại khoản 1
Điều 87 của BLTTDS năm 2015 hoặc người lao
động là người chưa thành niên mà không có người
đại diện và Tòa án cũng không chỉ định được
người đại diện theo quy định tại khoản 1 Điều 88
BLTTDS năm 2015 thì Tòa án chỉ định tổ chức
đại diện tập thể lao động đại diện cho người lao
động đó7.
Có thể thấy các quy định này của BLTTDS
năm 2015 là phù hợp với tinh thần của Bộ luật Lao
động năm 2012, bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích
hợp pháp của người lao động trong tố tụng dân sự.
Thứ tư, quy định về chỉ định người đại diện
tố tụng dân sự về cơ bản là phù hợp với quy định
của BLDS năm 2015.
Điều 136 BLDS năm 2015 quy định Tòa án
có thể chỉ định người đại diện theo pháp luật cho
cá nhân trong trường hợp không xác định được
cha, mẹ đối với con chưa thành niên, người giám
hộ đối với người được giám hộ8. Quy định tại
khoản 3 Điều 136 BLDS năm 2015 khắc phục
được thực tế không xác định được người đại diện
theo pháp luật cho người chưa thành niên hay
người được giám hộ và góp phần bảo vệ quyền,
lợi ích chính đáng của những chủ thể trên. Tương
thích với quy định của BLDS năm 2015, Điều 88
BLTTDS năm 2015 quy định: Khi tiến hành tố
tụng dân sự, nếu có đương sự là người chưa
thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự,
người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người
có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi
mà không có người đại diện hoặc người đại diện
theo pháp luật của họ thuộc một trong các
trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 87 của Bộ
luật này thì Tòa án phải chỉ định người đại diện
để tham gia tố tụng.
Thứ năm, quy định về đại diện khởi kiện vụ
án ly hôn để bảo vệ quyền lợi của cho vợ, chồng
do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà
không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của
mình tương thích với quy định của Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2014.
Xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn xã hội,
Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
thừa nhận quyền của cha, mẹ, người thân thích
khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn
khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc
mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ
được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân
của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra
làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức
7 Khoản 2 Điều 88 BLTTDS năm 2015.
8 Điều 47 BLDS năm 2015. Người được giám hộ bao gồm:
a) Người chưa thành niên không còn cha, mẹ hoặc không xác định được cha, mẹ;
b) Người chưa thành niên có cha, mẹ nhưng cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi; cha, mẹ đều bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều bị Tòa án tuyên bố
hạn chế quyền đối với con; cha, mẹ đều không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con và có yêu cầu người giám hộ;
c) Người mất năng lực hành vi dân sự;
d) Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
Soá 4/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba
35
khỏe, tinh thần của họ. Để đảm bảo sự tương
thích với quy định trên, Điều 85 BLTTDS năm
2015 đã quy định về quyền khởi kiện của cha,
mẹ, người thân thích khác trong trường hợp này9.
Tuy nhiên, điểm hạn chế là cả Luật Hôn nhân và
gia đình năm 2014 và BLTTDS không xác định
rõ người thân thích khác ở đây là chủ thể nào.
Mặc dù tại khoản 1 Điều 51 BLDS năm 2015
cũng đã đề cập tới người thân thích và thứ tự
người thân thích được phân công giám sát việc
giám hộ: “Người thân thích của người được
giám hộ là vợ, chồng, cha, mẹ, con của người
được giám hộ; nếu không có ai trong số những
người này thì người thân thích của người được
giám hộ là ông, bà, anh ruột, chị ruột, em ruột
của người được giám hộ; nếu cũng không có ai
trong số những người này thì người thân thích
của người được giám hộ là bác ruột, chú ruột,
cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người được giám
hộ” nhưng đây chưa thể xem là quy định độc lập
về người thân thích nói chung.
Vì vậy, để có được sự minh bạch và thống
nhất, BLDS cần có điều khoản độc lập quy định
về người thân thích. Từ đó, BLTTDS cũng như
các luật có liên quan như Luật Hôn nhân và gia
đình có thể dẫn chiếu hoặc quy định rõ ràng
hơn đối với khái niệm người thân thích khác.
Ngoài ra, quy định tại khoản 4, Điều 85
BLTTDS sẽ đặt ra câu hỏi: cha, mẹ, người thân
thích khác trong trường hợp này là đại diện
theo pháp luật hay đại diện theo ủy quyền?
Không giống như đại diện theo pháp luật, nếu
là đại diện theo uỷ quyền sẽ phải thông qua
những thủ tục nhất định.
Theo chúng tôi, để đảm bảo sự tương thích
với quy định của BLDS năm 2015, Điều 85
BLTTDS năm 2015 cần sửa theo hướng:
“Trường hợp người thân thích yêu cầu Tòa án
giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị
bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể
nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng
thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng,
vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng
đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ thì
người thân thích là người đại diện theo pháp
luật. Người thân thích theo quy định tại khoản 1
Điều 51 BLDS là người thân thích trong TTDS”.
Trên đây là nghiên cứu của tác giả về những
điểm phù hợp và chưa phù hợp trong quy định
về người đại diện của đương sự theo quy định
của BLDS năm 2015 và BLTTDS năm 2015, rất
mong nhận được các ý kiến đóng góp./.
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ CÁC TỘI
XÂM PHẠM TÌNH DỤC - QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
(Tiếp theo trang 30)
Tài liệu tham khảo:
1. Nguyễn Ngọc Nhuận, Nguyễn Tá Nhí
(2003), Quốc triều hình luật- Luật hình triều Lê,
Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Tp.Hồ Chí Minh.
2. Nguyễn Văn Thành - Vũ Trinh - Trần Hựu
(1994), Hoàng Việt luật lệ - Quyển V, Nxb. Văn
hóa - Thông tin, Hà Nội.
3. Nguyễn Quang Thắng, Nguyễn Văn Tài (1994),
Hoàng Việt Luật Lệ, Nxb Văn hóa - thông tin.
4.
may-hanh-chinh/Sac-lenh-so-47-giu-tam-thoi-
luat-le-hien-hanh-Bac-Trung-Nam-bo-ban-hanh
5. Tòa án nhân dân tối cao (1995), Công văn số
73/TK ngày 2/3/1995 của TANDTC về việc xét xử
loại tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em, Hà Nội
6. Dương Tuyết Miên (1998), “Về các tội xâm
phạm tình dục trong Luật Hình sự Việt Nam”,
Luật học, (06) tr.44
9 Điều 85 BLTTDS năm 2015: Trường hợp cha, mẹ, người thân thích khác yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi
một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của
mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính
mạng, sức khỏe, tinh thần của họ thì cha, mẹ, người thân thích là người đại diện.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_gia_quy_dinh_ve_nguoi_dai_dien_cua_duong_su_theo_phap_l.pdf