Qua kết quả nghiên cứu có thể thấy trong vụ
hè, các giống dưa lê mặc dù được trồng trong
nhà lưới, không bị sâu hại tấn công nhưng mức
độ nhiễm bệnh hại khá nặng, mức độ gây hại
của bệnh nấm trong nghiên cứu này cao hơn
nhiều so với các nghiên cứu khác về cây dưa
trong vụ xuân và vụ thu (Trần Thị Ba và nnk.,
2009, Đoàn Xuân Cảnh và nnk., 2016, Vũ
Văn Liết và Hoàng Đăng Dũng, 2012) [2,3,6].
Nguyên nhân có thể do vụ hè với điều kiện
nắng ẩm, mưa nhiều nên mức độ gây hại của
bệnh nấm nặng hơn so với các mùa vụ khác.
Đây cũng là một điều cần lưu ý trong việc xác
định mùa vụ trồng đối với cây dưa tại Sơn La.
Vì mặc dù cây bị bệnh vẫn cho thu hoạch quả,
nhưng chất lượng quả thướng không cao và
mẫu mã không đẹp.
4. Kết luận
Các giống dưa lê tham gia thí nghiệm đều
sinh trưởng tốt trong vụ hè tại Sơn La. Thời gian
sinh trưởng của các giống từ 68 đến 80 ngày,
chiều dài thân chính đạt từ 228,9 đến 300,6 cm.
Trong đó giống Thiên Nữ có chiều dài thân
chính dài nhất.
Năng suất của các giống dưa lê đạt từ 12,3
đến 18,3 tấn/ha, và có sự chênh lệch có ý nghĩa
về năng suất giữa các giống, trong đó giống
Mật Hoa đạt năng suất cao nhất. Độ Brix thịt
quả của các giống dưa lê đạt cao nhất ở ngày
thứ 4 sau thu hoạch.
Các giống dưa lê tham gia thí nghiệm đều
nhiễm một số bệnh nấm như bệnh sương mai,
phấn trắng, thán thư, nứt thân. Trong đó bệnh
nứt thân gây hại nặng nhất, với mức bị nhiễm
lên đến 60 – 70% số cây theo dõi, mức độ nhiễm
bệnh cao do đó ảnh hưởng nhiều đến năng suất
và chất lượng dưa. Vì vậy nên hạn chế trồng
dưa lê vào vụ hè tại thành phố Sơn La.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 14 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá sinh trưởng, phát triển và năng suất của một số giống dưa lê trồng trong nhà lưới tại Mai Sơn, Sơn La, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1TẠP CHÍ KHOA HỌC – ĐẠI HỌC TÂY BẮC
Khoa học Tự nhiên và Công nghệ
1. Đặt vấn đề
Dưa lê có tên khoa học là Cucumis melo
L.,thuộc họ bầu bí, là loại rau ăn quả được
nhiều người tiêu dùng ưa chuộng. Đặc biệt
nhóm dưa lê vân lưới có chất lượng cao là loại
quả cung cấp nhiều tiền vitamin A (β-caroten),
vitamin C, vitamin E, axits folic. Đây là những
chất chống oxi hóa quan trọng trong quá trình
biến dưỡng dinh dưỡng của con người (USDA,
2011) (Nguyễn Anh Dũng và nnk., 2016) [1].
Ngoài ra, nguồn kali trong dưa lưới còn giúp bài
tiết, thải sodium có tác dụng giảm huyết áp cao
(Lester, G. & F. Eischen, 1996) [5]. Giá trị dinh
dưỡng của dưa lê phụ thuộc nhiều vào giống.
Hiện nay các giống dưa lê rất đa dạng nhưng
chủ yếu có hai nhóm chính là dưa lê vỏ nhẵn và
dưa lê vỏ có vân lưới hay còn được gọi là dưa
lưới. Nhóm dưa lưới thường có dạng quả to và
hiện nay đang được thị trường ưa chuộng hơn.
Tại Việt Nam, dưa lê nói chung và dưa lưới nói
riêng được trồng khá rộng rãi ở nhiều vùng khác
nhau trong cả nước, tuy nhiên diện tích tăng
chậm. Một trong những nguyên nhân là nguồn
giống hạn chế và tình hình nhiễm bệnh hại khá
nặng của các nhóm dưa lê. Các giống dưa lê
địa phương tại Việt Nam chủ yếu là dưa trắng
Hà Nội, dưa lê mật Bắc Ninh, dưa lê vàng Hải
Dương. Các giống này cho năng suất thấp, thịt
quả mỏng, mẫu mã không đẹp và khó bảo quản
sau thu hoạch (Vũ Văn Liết và Hoàng Đăng
Dũng, 2012) [6].
Tại Sơn La, diện tích trồng dưa lê không
nhiều, đặc biệt là dưa lê vân lưới. Các giống này
chủ yếu được trồng ở trong nhà lưới có mái che
để hạn chế sâu bệnh hại. Hiện nay chưa có một
nghiên cứu chính thức nào tiến hành đánh giá
tuyển chọn các giống dưa lê cho vùng Tây Bắc
nói chung và Sơn La nói riêng. Nghiên cứu này
nhằm mục đích đánh giá đặc điểm sinh trưởng,
khả năng thích nghi để tuyển chọn giống dưa lê
phù hợp trồng trong điều kiện vụ hè tại Sơn La.
2. Vật liệu và phương pháp nghiên cứu
2.1. Vật liệu nghiên cứu
Vật liệu nghiên cứu là các giống dưa lê lai
F1 được nhập nội từ Đài Loan gồm: Chu Phấn,
Mật Hoa, Thiên Nữ.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm được thực hiện trong vụ hè thu
năm 2018, trong điều kiện nhà lưới tại xã Chiềng
Ban, huyện Mai Sơn, Sơn La. Thí nghiệm bố trí
theo kiểu ngẫu nhiên hoàn toàn với 3 công thức
(mỗi công thức là một giống dưa) và nhắc lại
3 lần, mỗi lần nhắc lại là 30 cây, diện tích ô
ĐÁNH GIÁ SINH TRƯỞNG, PHÁT TRIỂN VÀ NĂNG SUẤT
CỦA MỘT SỐ GIỐNG DƯA LÊ TRỒNG TRONG NHÀ LƯỚI
TẠI MAI SƠN, SƠN LA
Nguyễn Văn Khoa, Lò Văn Chưởng
Trường Đại học Tây Bắc
Tóm tắt: Nghiên cứu đánh giá khả năng sinh trưởng, năng suất của một số giống dưa lê tại huyện Mai Sơn, tỉnh
Sơn La trong vụ hè thu năm 2018. Kết quả cho thấy, các giống dưa lê đều sinh trưởng tốt. Thời gian sinh trưởng
từ 68 đến 80 ngày, chiều cao cây đạt từ 228,9 – 300,6cm, năng suất thực thu đạt từ 12,3 – 18,3 tấn/ha trong đó
giống Mật Hoa có năng suất cao nhất. Độ Brix thịt quả của các giống đạt cao nhất ở ngày thứ tư sau thu hoạch
và dao động từ 10,00 đến 13,83, trong đó giống Thiên Nữ có độ Brix cao nhất. Hầu hết các giống đều nhiễm bệnh
hại với tỷ lệ khá cao, trong đó nhiễm nặng nhất là bệnh nứt thân với mức độ nhiễm từ 60 – 70% số cây theo dõi.
Từ khóa: Dưa lê, sinh trưởng, năng suất, Brix, Sơn La.
Nguyễn Văn Khoa, Lò Văn Chưởng (2020)
(18): 1 - 7
2thí nghiệm là 15 m2, tổng diện tích thí nghiệm
là 135 m2. Dưa được trồng theo luống đơn, sử
dụng dây treo để treo cho cây mọc theo phương
thẳng đứng (không bò lan trên đất). Mật độ
trồng 14 000 cây/ha (cây cách cây: 40 cm, hàng
cách hàng 175 cm).
Phân bón: Bón lót 1000kg NPK-S 3.10.5-8/
ha, bón thúc: 50kg Ure + 50kg Kaliclorua/ha,
tưới nước bằng ống nhỏ giọt, phủ màng nilong
nông nghiệp chuyên dụng. Phòng trừ sâu bệnh:
Phun thuốc bệnh khi xuất hiện các bệnh nấm.
Các chỉ tiêu theo dõi:
Lấy mẫu đại điện 5 cây trên một lần nhắc lại,
theo dõi các chỉ tiêu: Thời gian qua các giai đoạn
sinh trưởng (ngày); Động thái tăng trưởng độ
dài thân chính (cm); đường kính quả; chiều dài
quả; độ dày thịt quả; độ Brix; khối lượng trung
bình quả; năng suất cá thể; năng suất thực thu;
mức độ nhiễm các loại bệnh hại (tính theo % số
cây nhiễm bệnh).
Phương pháp xử lý số liệu: số liệu được xử
lý bằng phần mềm Excel và phân tích Anova
bằng phần mềm IRRISTAT 5.0
3. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
3.1. Thời gian qua các giai đoạn sinh
trưởng, phát triển của các giống dưa
Sinh trưởng và phát triển ở cây trồng nói
chung trải qua nhiều các giai đoạn khác nhau từ
khi nảy mầm đến ra hoa kết quả và chết. Quá
trình này trải qua hàng loạt các biến đổi về sinh
lý, hóa sinh như: Quang hợp, hô hấp, vận chuyển
và phân phối chất hữu cơ trong cây. Các quá trình
này chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi điều kiện sinh
thái môi trường xung quanh (Hoàng Minh Tấn,
2006) [7]. Đối với một cây trồng mới, việc xác
định thời gian sinh trưởng phát triển trong điều
kiện sinh thái nhất định là một yếu tố quan trọng
để xây dựng cơ cấu mùa vụ trong năm.
Trong điều kiện vụ hè 2018 tại Mai Sơn, Sơn
La, các giống dưa lê có thời gian sinh trưởng từ
68 đến 80 ngày. Trong đó giống Thiên Nữ có
thời gian sinh trưởng ngắn nhất (68-75 ngày),
hai giống còn lại có thời gian sinh trưởng 75 –
80 ngày (bảng 3.1). Kết quả này cho thấy các
giống dưa trong thí nghiệm có thời gian sinh
trưởng dài hơn so với một số giống dưa lê khác
nhập nội từ Đài Loan và Trung Quốc như: Xin
Mi Tian Gua; Yinong; Kim cô nương, có thời
gian sinh trường từ 64 – 67 ngày (Vũ Văn Liết
và Hoàng Đăng Dũng, 2012) [6]. Nhưng tương
đương hoặc ngắn hơn một số giống nhập nội từ
Isarel như: Melon snow mass; Melon Juarny;
Melon Gold coats, có thời gian sinh trường từ
64 – 67 ngày (Đoàn Xuân Cảnh, 2016) [3]. Giai
đoạn từ gieo hạt đến ra hoa của các giống không
có sự chênh lệnh về thời gian. Sự khác biệt về
thời gian sinh trưởng chủ yếu nằm ở giai đoạn
từ ra hoa đến khi quả chín.
Bảng 3.1. Thời gian qua các giai đoạn sinh trưởng của các giống dưa lê
Giai đoạn
Giống
Gieo-
mọc
Từ mọc mầm đến... (ngày) Tổng TGST
(ngày)3-4 lá thật Ra tua cuốn Ra hoa cái đầu
Thiên Nữ 3 16 23 31 68-75
Chu phấn 4 17 24 32 75-80
Mật hoa 4 17 24 32 75-80
3.2. Động thái tăng trưởng về chiều dài thân
chính qua các giai đoạn
Dưa lê là cây thân leo, có thân chính và
nhiều nhánh bên. Tuy nhiên phần lớn các giống
dưa lai F1 chỉ để một thân chính. Đánh giá về
chiều dài thân chính nhằm xác định chiều cao
phục vụ làm giàn trồng trong điều kiện nhà
lưới. Kết quả đánh giá ở bảng 3.2 cho thấy
tốc độ phát triển chiều dài thân chính của các
giống rất nhanh. Trong đó giống Thiên Nữ có
chiều dài thân chính đạt 300,63 cm, tiếp đến là
3các giống Chu phấn (266,1 cm) và giống Mật
hoa (228,9 cm). Kết quả này cho thấy chiều dài
thân chính của các giống dưa thí nghiệm dài
hơn giống HT Hokkaido 06 nhập từ Nhật Bản
(Đàm Hương Giang và nnk., 2018) [4]. Vì vậy
việc làm giàn hoặc dây treo cho cây dưa cần
đạt từ 2,5 – 3m mới đảm bảo cho cây dưa leo.
Sau khi cây dưa ra trái ổn định (sau ngày 41),
để đảm bảo quá trình sinh trưởng quả, cây dưa
được cắt ngọn.
3.3. Đặc điểm hình thái và kích thước quả
Đăc điểm hình thái quả có ảnh hưởng đến
mẫu mã thương phẩm của quả, phần lớn thị hiếu
của người tiêu dùng thích quả có khối lượng
trung bình, trái hình cầu và mẫu mã đẹp. Trong
các giống thí nghiệm, giống Thiên Nữ có vỏ
nhẵn, khi chín màu trắng ngà và dạng quả hình
bầu dục. Hai giống còn lại đều có vỏ xanh và
có vân lưới, quả hình cầu khá tròn. Tất cả các
giống thí nghiệm đều có thịt quả màu cam và độ
dày thịt quả từ 3,1 – 3,5 cm.
Bảng 3.2 Động thái tăng trưởng chiều dài thân chính của các giống dưa lê
Đơn vị: (cm)
Thời kỳ
Giống
Sau mọc đến...(ngày)
20 ngày 27 ngày 34 ngày 41 ngày
Thiên Nữ 54,45 94,54 200,83 300,6
Chu phấn 43,27 78,34 170,4 266,1
Mật hoa 28,85 54,17 142,8 228,9
CV% 8,7 10,4 9,6 11,4
LSD.05 12,6 17,3 20,4 29,8
Bảng 3.3 Một số đặc điểm hình thái quả của các giống dưa lê
Chỉ tiêu
Giống
Màu sắc vỏ quả
khi chín
Chiều dài
quả (cm)
Đường kính
quả (cm)
Độ dày thịt
quả (cm)
Hương
thơm
Thiên Nữ Vỏ trắng ngà 14,3 10,5 3,1 Rất thơm
Chu phấn Vỏ xanh vân lưới 14,6 11,7 3,5 Thơm nhẹ
Mật hoa Vỏ xanh vân lưới 15,4 12,5 3,4 Thơm nhẹ
CV% 7,5 6,6 5,4
LSD.05 1,3 0,9 0,8
Hương thơm cũng là một trong những chỉ
tiêu rất quan trọng ảnh hưởng đến giá trị thương
mại của dưa lê. Phần lớn các giống dưa lê mới
đều có mùi thơm, tuy nhiên mức độ thơm khác
nhau do đặc điểm di truyền của giống. Trong
các giống thí nghiệm chỉ có giống có mùi thơm
đặc trưng và thơm nhất là giống Thiên Nữ hai
giống còn lại chỉ có mùi thơm nhẹ (bảng 3.3).
3.4. Độ Brix sau thu hoạch của các giống dưa
Độ Brix là % lượng chất khô hòa tan trong
dung dịch, đây là một chỉ tiêu quan trọng để
đánh giá về chất lượng quả. Đối với dưa lê, sau
khi thu hoạch, độ Brix vẫn tiếp tục biến đổi.
Chính vì vậy việc đánh giá độ Brix và diễn biến
thay đổi độ Brix theo ngày sau thu hoạch là rất
quan trọng. Nó giúp cho người sản xuất xác
định được thời gian thu hoạch và bảo quản quả.
Trong thí nghiệm này, chúng tôi đánh giá mức
độ Brix của các giống dưa sau thu hoạch từ 1
đến 6 ngày để trong điều kiện nhiệt độ phòng.
Kết quả nghiên cứu ở bảng 3.4 cho thấy, sau thu
4hoạch 4 đến 5 ngày, quả dưa lê sẽ đạt được độ
Brix cao nhất. Điều này cho thấy quả sẽ đạt độ
ngọt và chất lượng ăn tươi thích hợp nhất vào 4
đến 5 ngày sau khi thu hoạch.
Bảng 3.4. Độ brix sau thu hoạch của các giống dưa lê
Giống
Sau thu........ngày (%)
1 2 3 4 5 6
Thiên Nữ 12,50 13,00 12,83 13,83 12,66 12,50
Chu phấn 10,33 10,16 9,83 10,66 10,00 9,86
Mật hoa 9,50 9,50 8,83 10,00 8,83 8,33
So với một số giống dưa lê khác nhập nội
từ Trung Quốc như: Xin Mi Tian Gua; Yinong;
Kim cô nương được trồng tròng vụ thu tại Hà
Nội, các giống dưa trong thí nghiệm có độ Brix
thấp hơn (Vũ Văn Liết và Hoàng Đăng Dũng,
2012) [6]. Điều này có thể do điều kiện vụ hè
nắng ẩm, mưa nhiều, sự chênh lệnh nhiệt độ
ngày đêm thấp dẫn đến khả năng tích lũy chất
kho kém do đó độ Brix thấp. Mặc dù vậy, so với
các giống nhập nội từ Isarel như: Melon snow
mass; Melon Juarny; Melon Gold coats, độ
Brix từ 8,9 đến 12,8 (Đoàn Xuân Cảnh và nnk.,
2016) [3], thì các giống dưa trong thí nghiệm có
độ Brix tương đương.
3.5. Năng suất và các yếu tố cấu thành năng
suất của các giống dưa
Năng suất là yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng
đến hiệu quả sản xuất. Đối với các giống dưa lê
mới, đặc biệt là các giống dưa lê vân lưới, trong
quá trình trồng trọt, để đảm bảo chất lượng quả,
người sản xuất thường chỉ để lại 1 quả. Vì vậy
khối lượng trung bình quả là yếu tố chính ảnh
hưởng đến năng suất. Kết quả nghiên cứu cho
thấy, giống Thiên Nữ có khối lượng quả thấp
nhất tiếp theo là giống Chu Phấn và giống Mật
Hoa. So sánh với các giống dưa lê nhập nội khác
từ Trung Quốc và Isarel thì khối lượng trung
bình của các giống dưa nhập từ Đài Loan trong
thí nghiệm đều thấp hơn (Vũ Văn Liết và Hoàng
Đăng Dũng, 2012) [6]. Điều này ảnh hưởng đến
năng suất trên đơn vị diện tích trồng. So với
các giống dưa lê khác nhập nội từ Đài Loan,
khối lượng trung bình quả các giống thí nghiệm
cao hơn một số giống như: Ngọc Thanh Thanh;
Phương Thanh Thanh; Thiên Hoa, Aplus; 1864;
Hoàng Đạt (Trần Thị Ba và nnk., 2009) [2],
nhưng thấp hơn giống Kim Cô Nương (Võ Thị
Bích Thủy và nnk., 2005) [8].
Bảng 3.5. Năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất của các giống
Giống Tổng số quả/cây (quả) KLTB quả (kg) NSLT (tấn/ha) NSTT (tấn/ha)
Thiên Nữ 1 1,04b 14,8 12,3b
Chu phấn 1 1,4a 20,0 16,4a
Mật hoa 1 1,6a 22,9 18,3a
CV% 8,4 11,4
LSD.05 0,3 2,8
Năng suất thực thu của các giống thí nghiệm
đạt từ 12,3 tấn/ha đến 18,3 tấn/ha. Trong đó
giống Mật hoa là giống có năng suất cao nhất
(bảng 3.5). Kết quả này tương đồng với kết quả
nghiên cứu của Trần Thị Ba và nnk. (2009) [2],
trên các giống dưa nhập nội từ Đài Loan và
Trung quốc. Tuy nhiên thấp hơn rất nhiều so
với kết quả nghiên cứu của Đoàn Xuân Cảnh
5và nnk. (2016) [3] trên các giống dưa lê nhập
nội từ Isarel, và thấp hơn năng suất của giống
dưa lê HT Hokkaido 06 nhập từ Nhật Bản (Đàm
Hương Giang và nnk., 2018) [4].
3.6. Mức độ nhiễm sâu bệnh hại của các
giống dưa
Mức độ nhiễm sâu, bệnh hại là một chỉ tiêu
quan trọng để đánh giá mức độ thích nghi của
cây trồng trong các vùng sinh thái khác nhau.
Đối với cây dưa lê trồng trong nhà lưới, dịch
hại chủ yếu là các loại bệnh nấm và vi khuẩn
héo xanh. Kết quả nghiên cứu ở vụ hè tại Sơn
La cho thấy, cả 3 loại dưa trong thí nghiệm đều
nhiễm các loại bệnh như sương mai, thán thư,
phấn trắng, nứt thân với tỷ lệ khá cao. Trong
đó giống Thiên Nữ là giống mẫn cảm nhất, tỷ
lệ cây bị nhiễm các loại bệnh trên là cao nhất,
tiếp theo là giống Chu phấn. Riêng héo xanh vi
khuẩn chỉ xuất hiện trên giống Thiên Nữ với tỷ
lệ nhiễm thấp (8,0%), hai giống còn lại không
bị nhiễm (bảng 3.6).
Bảng 3.6. Tình hình nhiễm bệnh hại của các giống dưa lê
Bệnh
Giống
Tỷ lệ cây bị
bệnh sương mai
(%)
Tỷ lệ cây bị
thán thư
(%)
Tỷ lệ cây bị
phấn trắng
(%)
Tỷ lệ cây bị
nứt thân
(%)
Héo xanh
vi khuẩn
(%)
Thiên Nữ 26,6 63,3 50 70,0 8,0
Chu phấn 13,3 26,6 46,6 70,0 0,0
Mật hoa 10,0 43,3 43,3 60,0 0,0
Qua kết quả nghiên cứu có thể thấy trong vụ
hè, các giống dưa lê mặc dù được trồng trong
nhà lưới, không bị sâu hại tấn công nhưng mức
độ nhiễm bệnh hại khá nặng, mức độ gây hại
của bệnh nấm trong nghiên cứu này cao hơn
nhiều so với các nghiên cứu khác về cây dưa
trong vụ xuân và vụ thu (Trần Thị Ba và nnk.,
2009, Đoàn Xuân Cảnh và nnk., 2016, Vũ
Văn Liết và Hoàng Đăng Dũng, 2012) [2,3,6].
Nguyên nhân có thể do vụ hè với điều kiện
nắng ẩm, mưa nhiều nên mức độ gây hại của
bệnh nấm nặng hơn so với các mùa vụ khác.
Đây cũng là một điều cần lưu ý trong việc xác
định mùa vụ trồng đối với cây dưa tại Sơn La.
Vì mặc dù cây bị bệnh vẫn cho thu hoạch quả,
nhưng chất lượng quả thướng không cao và
mẫu mã không đẹp.
4. Kết luận
Các giống dưa lê tham gia thí nghiệm đều
sinh trưởng tốt trong vụ hè tại Sơn La. Thời gian
sinh trưởng của các giống từ 68 đến 80 ngày,
chiều dài thân chính đạt từ 228,9 đến 300,6 cm.
Trong đó giống Thiên Nữ có chiều dài thân
chính dài nhất.
Năng suất của các giống dưa lê đạt từ 12,3
đến 18,3 tấn/ha, và có sự chênh lệch có ý nghĩa
về năng suất giữa các giống, trong đó giống
Mật Hoa đạt năng suất cao nhất. Độ Brix thịt
quả của các giống dưa lê đạt cao nhất ở ngày
thứ 4 sau thu hoạch.
Các giống dưa lê tham gia thí nghiệm đều
nhiễm một số bệnh nấm như bệnh sương mai,
phấn trắng, thán thư, nứt thân. Trong đó bệnh
nứt thân gây hại nặng nhất, với mức bị nhiễm
lên đến 60 – 70% số cây theo dõi, mức độ nhiễm
bệnh cao do đó ảnh hưởng nhiều đến năng suất
và chất lượng dưa. Vì vậy nên hạn chế trồng
dưa lê vào vụ hè tại thành phố Sơn La.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Anh Dũng, Lê Sĩ Ngọc, Bùi Văn Lệ
(2016). Ảnh hưởng của Peroxitde hydrogen
lên năng suất và chất lượng dưa lưới sau
thu hoạch. Tạp chí khoa học Trường Đại
học An Giang, số 11 (3) - 2016: 94-101.
2. Trần Thị Ba, Trần Thiện Thiên Trang, Võ
Thị Bích Thủy (2009). So sánh sự sinh
6trưởng, năng suất và phẩm chất của 11
giống dưa lê trong nhà lưới vụ xuân hè
2007. Tạp chí Khoa học, trường Đại học
Cần Thơ, số 11 – 2009: 330-338.
3. Đoàn Xuân Cảnh, Nguyễn Đình Thiều,
Nguyễn Thị Thanh Hà (2016). Kết quả
nghiên cứu tuyển chọn giống cà chua, dưa
chuột, dưa thơm thích hợp trồng trong nhà
lưới, nhà màn ở các tỉnh phía Bắc. Kỷ yếu
Hội thảo quốc gia về khoa học cây trồng lần
thứ 2, năm 2016: 538-545.
4. Đàm Hương Giang, Trần Công Hạnh,
Nguyễn Duy Thịnh (2018), Nghiên cứu
ảnh hưởng của các loại gốc ghép đến sinh
trưởng, năng suất và chất lượng giống
dưa vân lưới HT Hokkaido 06 trồng trong
nhà có mái che. Tạp chí Khoa học, trường
Đại học Hồng Đức, số 40 – 2018: 30-37.
5. Lester, G. & F. Eischen (1996). Beta-
carotene content of postharvest prange-
fleshed muskmelon fruit. Effect of cutiver,
growing location and fruit size. Plant
Foods Human Nutri, 49: 191-197
6. Vũ Văn Liết, Hoàng Đăng Dũng (2012).
Đánh giá sinh trưởng, phát triển và năng
suất của một số giống dưa lê nhập nội từ
Trung Quốc tại Gia Lâm, Hà Nội. Tạp chí
Khoa học và phát triển, Trường Đại học
Nông nghiệp Hà Nội, tập 10, số 2 - 2012:
238-243.
7. Hoàng Minh Tấn, Nguyễn Quang Thạch,
Vũ Quang Sáng (2006). Giáo trình sinh
lý thực vật. NXB Nông nghiệp Hà Nội.
8. Võ Thị Bích Thủy, Nguyễn Bảo Vệ, Trần
Thị Ba (2005). Cải thiện năng suất và
phẩm chất dưa lê (muskmelon) bằng cánh
bón phân kali trên đất phù sa tại Cần Thơ
vụ xuân hè 2004. Tạp chí Nghiên cứu
khoa học, trường Đại học Cần Thơ, số 4 –
2005: 16-25.
7EVALUATING THE GROWTH AND YIELD OF SOME MELON
VARIETIES GROWN IN NET HOUSE IN MAI SON DISTRICT, SON LA
PROVINCE
Nguyen Van Khoa, Lo Van Chuong
Tay Bac University
Abtract: The study investigates the growth and yield of some melon varieties in Mai Son
district, Son La province in the summer-autumn crop of 2018. The results show that the melon
varieties grow very well, with growing time from 68 to 80 days, height of plants from 228.9 to 300.6
cm, and yield from 12,3 to 18,3 tons/ha of which Mat Hoa variety achieves the highest yield. The
fruit Brix level of the varieties reaches the peak on the 4th day after harvest, ranging from 10.00 to
12.83, of which Thien Nu variety has the top level. Most of the varieties are infected fungal disease
at a high rate, with stem cracking being the most severe in 60-70% of the monintored plants.
Keywords: Melon, growth, yield, Brix, Son La
_____________________________________________
Ngày nhận bài: 19/5/2019. Ngày nhận đăng: 03/09/2019
Liên lạc: *Nguyễn Văn Khoa; Email: nguyenvankhoa@utb.edu.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
danh_gia_sinh_truong_phat_trien_va_nang_suat_cua_mot_so_gion.pdf