Như vậy, phương trình trên có 4 nhân tố ảnh
hưởng quan trọng đến sự hài lòng của nông hộ sản
xuất lúa trong CĐLK theo thứ tự tầm quan trọng của
từng nhân tố phụ thuộc vào hệ số β, nhân tố nào có
hệ số β càng lớn thì mức độ tác động đến sự hài lòng
càng nhiều; Từ kết quả phương trình, sự hài lòng
của nông hộ sản xuất lúa trong CĐLK chịu tác động
nhiều nhất bởi nhân tố Kinh tế (β = 0,528), tiếp theo
là nhân tố Khoa học kỹ thuật (β = 0,373), kế đến là
nhân tố Lợi ích cá nhân và xã hội (β = 0,156), và cuối
cùng là nhân tố Chính sách nhà nước (β = 0,105)
có tác động thấp nhất đến sự hài lòng của nông hộ.
Qua đó, giúp địa phương tác động vào yếu tố nào để
cải thiện sự hài lòng của nông hộ, nên được ưu tiên
thực hiện là giải quyết vấn đề có mức ảnh hưởng lớn,
nhằm tăng hiệu quả hoạt động của cánh đồng liên
kết, cụ thể như sau:
- Về yếu tố đảm bảo kinh tế (tin cậy REL): Thành
tố Kinh tế có tầm quan trọng cao nhất trong mô
hình (β = 0,528), các hoạt động được hướng đến
nhằm đạt hiệu quả sản xuất. Kết quả nghiên cứu cho
thấy, nông hộ tham gia cánh đồng liên kết khá hài
lòng (MDHLC > 3) và yếu tố tin cậy về hợp đồng
bao tiêu chiếm tỉ trọng cao nhất trong thành tố Kinh
tế đã làm tăng sự hài lòng của nông hộ (Bảng 4). Để
đảm bảo cam kết bao tiêu sản phẩm cho nông hộ sản
xuất lúa trong CĐLK là hợp đồng bao tiêu phải chặt
chẽ, hài hòa lợi ích giữa các bên, có sự ràng buộc
bằng sự tham gia của Nhà nước trong khâu pháp lý
của hợp đồng nhằm tránh tình trạng “vỡ kèo” như
năm 2018 - 2019 với tỷ lệ khá cao (19%). Để hợp tác
được bền vững, nông hộ cũng cần tuân thủ theo nội
dung hợp đồng .
- Về yếu tố đảm bảo Khoa học kỹ thuật (đáp ứng
RES): Theo nghiên cứu của Nguyễn Hồng Tín và
cộng tác viên (2015) thì việc tham gia mô hình liên
kết và áp dụng kỹ thuật 1P5G giúp tăng hiệu quả sản
xuất lúa của nông hộ và yếu tố đảm bảo về Khoa học
kỹ thuật cho nông hộ trong mô hình cũng là thành
tố có tầm ảnh hưởng quan trọng sau thành tố Kinh
tế (β = 0,373). Vì vậy, cần tạo điều kiện cho nông hộ
trong mô hình được ứng dụng kỹ thuật tiên tiến, cụ
thể là những nông hộ sản xuất tốt trong mô hình
được tạo điều kiện thí điểm các gói kỹ thuật tiên tiến
nhằm khuyến khích nông hộ sản xuất đảm bảo chất
lượng nông sản và tạo điểm trình diễn cho các nông
hộ khác học hỏi, phát triển sản xuất, được tiếp cận
thông tin bằng cách kịp thời thông tin cho nông hộ
trong mô hình về tình hình giá cả, gói kỹ thuật hiệu
quả, thông tin về giống lúa, mô hình hay từ đó tạo
động lực cho nông hộ có đầy đủ kiến thức, thông tin
thị trường.
- Về yếu tố đảm bảo Lợi ích cá nhân và xã hội
(Đảm bảo ASS): Qua khảo sát và phân tích ở bảng 2
cho thấy, nhóm hộ trong CĐLK có năng suất bình
quân cao hơn, đạt lợi nhuận cao hơn 31,4%, hiệu quả
đồng vốn cao hơn 0,35 lần so với hộ ngoài CĐLK.
Kết quả nghiên cứu của Lê Nguyễn Đoan Khôi và
Nguyễn Ngọc Vàng (2012) đã chứng minh rằng
nông hộ trong mô hình liên kết đầu tư thêm một
đồng chi phí thu được 0,75 đồng lợi nhuận, trong
khi đó ngoài CĐLK chỉ thu được 0,39 đồng. Như
vậy, thành tố Lợi ích cá nhân và xã hội có tầm quan
trọng thứ 3 trong CĐLK (β = 0,156). Vì vậy, nông
dân cần áp dụng đúng quy trình kỹ thuật sản xuất, sẽ
hạ giá thành sản xuất, giá bán sẽ cao - ổn định, giúp
tăng thu nhập trên diện tích đất canh tác, đây là yếu
tố đảm bảo cuộc sống, giúp nông hộ an tâm sản xuất
và hài lòng khi tham gia vào cánh đồng liên kết. Bên
cạnh đó, tạo cơ hội tiếp xúc, giao lưu học hỏi để mở
rộng kiến thức, và thiết lập được nhiều mối quan hệ
tổ/nhóm trong sản xuất và kinh doanh.
- Về yếu tố đảm bảo Chính sách Nhà nước
(Phương tiện hữu hình TAN và Cảm thông EMP):
Đây là thành tố có tầm quan trọng thấp (β = 0,105)
thể hiện tỷ lệ hộ trong CĐLK chưa thực hiện đồng
bộ, tự mua giống bên ngoài hoặc tự giữ giống
(57,1%) và không mua vật tư nông nghiệp đúng
qui định (29,5%), và chưa tham gia tập huấn chiếm
8,6% (Bảng 1). Vì vậy, để tăng hiệu quả CĐLK các
chính sách nhà nước cần tạo điều kiện cho nông hộ
tham dự tập huấn, tiếp cận nguồn lúa giống, dịch
vụ BVTV, đó là phương tiện hữu hình giúp nông
hộ cảm nhận sự hài lòng, quyết tâm sản xuất. Vì
vậy việc hỗ trợ tập huấn phải lựa chọn nội dung đáp
ứng nhu cầu thực tế, thiết thực, đảm bảo sản xuất
đạt chất lượng, giá cả. Bên cạnh đó, phải công khai
và minh bạch về sự ưu đãi của Nhà nước. Ngành
nông nghiệp quan tâm đến nông hộ để có sự cảm
thông, qua đó nông hộ cảm thấy hài lòng khi tham
gia CĐLK. Tạo điều kiện cho nông hộ vay vốn, và
vốn tín dụng, có thể là yêu tố đảm bảo về phương
tiện hữu hình, giúp nông hộ đầu tư sản xuất, ứng
dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, chủ động trong tưới
tiêu, để đảm bảo sản xuất đạt hiệu quả.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 5 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá sự hài lòng của nông hộ sản xuất lúa trong cánh đồng liên kết tại huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
89
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
ĐÁNH GIÁ SỰ HÀI LÒNG CỦA NÔNG HỘ SẢN XUẤT LÚA
TRONG CÁNH ĐỒNG LIÊN KẾT TẠI HUYỆN TRÀ ÔN, TỈNH VĨNH LONG
Trần Thanh Thùy1 và Huỳnh Quang Tín2
TÓM TẮT
Nông hộ tham gia sản xuất lúa với “Cánh đồng liên kết (CĐLK)” ở huyện Trà Ôn, Vĩnh Long có xu hướng giảm
từ năm 2018. Để tìm hiểu thực trạng sản xuất và mức độ hài lòng của người dân, 145 hộ trong và ngoài CĐLK đã
được phỏng vấn. Số liệu được thống kê, kiểm định T nhằm so sánh hiệu quả tài chính giữa hai nhóm hộ, áp dụng
thang đo SERVPERF và phân tích hồi qui đa biến với mục tiêu đánh giá mức độ và yếu tố ảnh hưởng sự hài lòng.
Kết quả cho thấy, nhóm hộ trong CĐLK đạt năng suất và lợi nhuận cao hơn (7,6% và 31,4%) so với hộ ngoài. Nông
hộ khá hài lòng khi tham gia CĐLK qua thang đo biến Lợi ích (> 4,2). Nhân tố ảnh hưởng sự hài lòng là Kinh tế
(β = 0,528), Khoa học kỹ thuật (β = 0,373), Lợi ích cá nhân và xã hội (β = 0,156) và Chính sách nhà nước (β = 0,105)
tác động thấp nhất đến sự hài lòng của nông hộ. Điều chỉnh chính sách hỗ trợ phù hợp của địa phương sẽ thu hút
nông dân tham gia CĐLK trong tương lai.
Từ khóa: Cánh đồng liên kết, nông hộ, sự hài lòng, Trà Ôn
1 Hệ thống Nông nghiệp - Khóa 25, Viện Nghiên cứu Phát triển Đồng bằng sông Cửu Long
2 Viện Nghiên cứu Phát triển Đồng bằng sông Cửu Long, Trường Đại học Cần Thơ
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trà Ôn là một trong các huyện được Lãnh đạo
tỉnh Vĩnh Long chọn và ưu tiên phát triển mô hình
cánh đồng lớn từ năm 2011, với diện tích 676,6 ha
(chiếm 6,1% diện tích cánh đồng lớn của tỉnh);
Trong giai đoạn 2011 - 2017, lũy kế diện tích qua các
năm đạt 3.070 ha (huyện đầu tư 1.335 ha, tỉnh đầu tư
1.735 ha) và được thực hiện ở sáu xã (Hoà Bình, Hựu
Thành, Tân Mỹ, Thiện Mỹ, Trà Côn, Vĩnh Xuân), với
khoảng 1.600 hộ dân tham gia. Đánh giá bước đầu,
lợi nhuận tăng (từ 20 - 30%), khuyến nông hướng
dẫn kỹ thuật, nông hộ được các doanh nghiệp hỗ trợ
vật tư và liên kết bao tiêu đầu ra (UBND huyện Trà
Ôn, 2018). Tuy nhiên, đến năm 2018 và 2019, chỉ còn
ở ba xã (Tân Mỹ, Thiện Mỹ, Xuân Hiệp) duy trì sản
xuất theo cánh đồng liên kết, diện tích giảm từ 889ha
còn 610ha và 632 hộ còn 420 hộ tham gia khi tỉnh,
huyện ngưng đầu tư (UBND các xã, 2018 - 2019).
Qua đó, việc hợp tác, liên kết sản xuất lúa chưa tạo
niềm tin với nông hộ khi tham gia mô hình liên kết,
điều đó đã phản ánh tính khả thi của mô hình khi
thiếu vắng sự đầu tư của nhà nước. Xuất phát từ thực
tế nêu trên, “Đánh giá sự hài lòng của nông hộ sản
xuất lúa trong cánh đồng liên kết tại huyện Trà Ôn,
tỉnh Vĩnh Long” được thực hiện nhằm tìm hiểu về
hiệu quả sản xuất và sự hài lòng của nông hộ tham
gia cánh đồng liên kết để giúp định hướng củng cố
và phát triển mô hình “Cánh đồng liên kết” trên địa
bàn huyện Trà Ôn trong tương lai.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Nhóm nông dân đang sản xuất lúa trong cánh
đồng liên kết được phỏng vấn về sự hài lòng khi tham
gia của họ. Bên cạnh đó, cũng so sánh hiện trạng sản
xuất lúa của nhóm nông dân trong và ngoài liên kết.
Nghiên cứu thông qua phiếu phỏng vấn cấu trúc
(Structured Interviews - SI) được thực hiện khi
phỏng vấn 105 nông dân trong mô hình cánh đồng
liên kết và 30 nông dân ngoài mô hình.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu đã khảo sát 135 hộ - chọn theo phi
sác xuất (Võ Thị Thanh Lộc và Huỳnh Hữu Thọ,
2016) gồm 105 hộ tham gia cánh đồng liên kết và
30 hộ ngoài liên kết, tại ba xã Tân Mỹ, Thiện Mỹ và
Xuân Hiệp. Số liệu phỏng vấn được phân tích thống
kê mô tả và kiểm định T-Test để so sánh chi phí
và thu nhập từ sản xuất lúa của những hộ trong và
ngoài cánh đồng liên kết.
Áp dụng thang đo SERVPERF, trong đó thang đo
SEVQUAL và SERVPERF (Parasuraman et al., 1988)
cho chất lượng dịch vụ hoạt động mô hình liên kết
và sự hài lòng của nông hộ. Trong một nghiên cứu
để đánh giá sự hài lòng của nông dân về chất lượng
của lớp tập huấn (FFS) tại tỉnh Hậu Giang (2013),
tác giả Phạm Ngọc Nhàn cũng đã áp dụng thang đo
SERVPERF. Các thành phần chất lượng hoạt động
của CĐLK trên nền tảng: Phương tiện hữu hình
(TAN), Tin cậy (REL), Đáp ứng (RES), Đảm bảo
(ASS), Cảm thông (EMP) là tiền tố của sự hài lòng,
xây dựng nên thang đo. Bên cạnh đó, nghiên cứu
còn dựa trên cơ sở lý thuyết của Trương Văn Tuyển
(2007) về mức độ tham gia, nghiên cứu rút ra thang
đo sự tham gia phù hợp với mục tiêu đánh giá thực
trạng sự hài lòng của nông hộ. Thông qua phương
90
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
pháp thảo luận nhóm, từ đó có những điều chỉnh
và xây dựng thang đo chính thức bằng phương pháp
hệ số tin cậy Cronbach’s alpha và phân tích nhân tố
khám phá EFA để loại các biến không đạt yêu cầu.
Phân tích hồi quy đa biến (Multiple Regression
Analysis - MRA) để xác định các yếu tố ảnh hưởng
đến sự hài lòng của nông hộ (Hoàng Trọng và Chu
Nguyễn Mộng Ngọc, 2005), gồm 21 biến. Đồng thời
nghiên cứu đã sử dụng thang đo Likert với 5 mức
độ (1. Hoàn toàn không đồng ý; 2. Không đồng ý;
3. Tạm đồng ý; 4. Đồng ý; 5. Hoàn toàn đồng ý) để
đo lường các yếu tố của biến độc lập và 5 mức độ
(1. Rất không hài lòng; 2. Không hài lòng; 3. Bình
thường; 4. Hài lòng; 5. Rất hài lòng) để đo lường sự
hài lòng của nông hộ (biến phụ thuộc).
2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 9 năm
2019 đến tháng 4 năm 2020 tại địa bàn ba xã Tân
Mỹ, Thiện Mỹ và Xuân Hiệp, huyện Trà Ôn, tĩnh
Vĩnh Long.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Hiện trạng sản xuất lúa trong cánh đồng liên
kết tại huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long
Qua khảo sát 105 hộ nông hộ tham gia cánh đồng
liên kết cho thấy, nông hộ sản xuất lúa đã áp dụng
qui trình kỹ thuật 1P5G chỉ chiếm 43,8%, tuy đã
được tập huấn trên 90% số hộ. Bên cạnh đó, hơn
70% số hộ trong CĐLK được các doanh nghiệp cung
ứng vật tư nông nghiệp đầu vào như giống, phân và
thuốc trừ sâu - bệnh. Ngoài ra, việc liên kết đầu ra
với nông hộ vẫn còn tình trạng “vỡ kèo” dù tham gia
cánh đồng liên kết với tỷ lệ 19% do nông hộ áp dụng
chưa đúng quy trình kỹ thuật, chất lượng sản phẩm
chưa đạt và một số hộ tự bán cho thương láy mua
lúa giá cao hơn hợp đồng liên kết sản xuất (Bảng 1).
Bảng 1. Hiện trạng sản xuất của nông hộ trong cánh đồng liên kết tại huyện Trà Ôn
Chỉ tiêu Hình thức Tổng số Tỷ lệ phần trăm
Áp dụng kỹ thuật 1P5G
Áp dụng tốt 46 43,8
Áp dụng chưa tốt 59 56,2
Nguồn gốc giống
Có hợp đồng 45 42,9
Khác (tự giữ giống, mua ngoài) 60 57,1
Hỗ trợ vật tư NN
Có hợp đồng 74 70,5
Mua Đại lý bên ngoài 31 29,5
Hợp đồng thu mua lúa
Bị vỡ hợp đồng bao tiêu 20 19,0
Bán trong hợp đồng bao tiêu 85 81,0
Được tập huấn kỹ thuật
Tham dự đầy đủ 96 91,4
Chưa tham gia tập huấn 09 08,6
3.2. Hiệu quả sản xuất lúa của nông hộ trong và
ngoài cánh đồng liên kết (CĐLK)
Kết quả kiểm định T-test (Bảng 2) cho thấy tổng
chi phí đầu của hộ trong mô hình thấp hơn rất ý
nghĩa (9,5%) so với hộ ngoài CĐLK, ngoại trừ chi
phí lúa giống của hộ trong CĐLK sử dụng hạt giống
chất lượng tốt (OM5451) do doanh nghiệp và các
đơn vị chính thống cung cấp, trong khi các hộ ngoài
CĐLK sử dụng hạt giống nông hộ chất lượng thấp
(IR50404, ML202). Vì vậy, giá bán lúa trong CĐLK
được doanh nghiệp thu mua cao hơn bên ngoài (cao
hơn 587 đồng/kg). Nhìn chung, nhóm hộ trong
CĐLK có các chi phí đầu vào thấp do áp dụng quy
trình kỹ thuật đồng bộ nên giảm được chi phí phân,
thuốc BVTV, làm đất, thu hoạch dẫn đến giảm giá
thành sản xuất.
Bên cạnh đó, nhóm hộ trong CĐLK có năng suất
bình quân cao hơn 7,6%, giá bán cao hơn, tổng chi
phí sản xuất thấp hơn 9,5% và đạt lợi nhuận cao hơn
31,4%, hiệu quả đồng vốn cao hơn 0,35 lần so với hộ
ngoài CĐLK. Sự liên kết trong sản xuất lúa đã mang
lại hiệu quả kinh tế cao cho nông hộ trong mô hình
tại địa bàn nghiên cứu. Nghiên cứu của Nguyễn Thị
Bích Ngọc (2019) cũng chỉ ra rằng nông hộ sản xuất
trong mô hình liên kết thường đồng nhất về chi phí
đầu vào, hạ giá thành sản xuất so với ngoài mô hình,
nên thu được lợi nhuận cao hơn 5,7% và hiệu quả
đồng vốn cao hơn 0,16 lần so với nhóm hộ ngoài
liên kết.
91
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
Bảng 2. Kiểm định các loại chi phí - hiệu quả tài chính sản xuất lúa
của nông hộ trong - ngoài cánh đồng liên kết
Chỉ tiêu Trong liên kết
Ngoài
liên kết Giá trị t
Tăng/ giảm
(%) Sig.
Chi phí giống (đồng/ha) 2.091.389 1.760.944 4,840 +15,8 0,00
Chi phí làm đất (đồng/ha) 1.517.778 1.877.333 -12,143 -19,2 0,00
Chi phí phân bón (đồng/ha) 6.280.926 7.022.117 -2,017 -10,6 0,04
Chi phí BVTV (đồng/ha) 3.214.905 3.369.111 -0,851 - 4,6 0,03
Chi phí thu hoạch (đồng/ha) 2.340.000 2.671.111 -9,909 -12,4 0,00
Chi phí tưới tiêu (đồng/ha) 250.129 236.889 0,139 + 5,3 0,89
Tổng chi (đồng/ha) 15.695.126 17.333.597 -1,101 - 9,5 0,02
Năng suất (tấn/ha) 6,250 5,810 3,505 + 7,6 0,01
Giá bán (đồng/kg) 5.469 4.882 6,171 +10,7 0,00
Doanh thu (đồng/ha) 34.321.444 29.375.667 6,712 +14,4 0,00
Lợi nhuận (đồng/ha) 16.534.929 11.351.126 9,906 +31,4 0,00
Tỷ suất lợi nhuận (lần) 1,07 0,72 6,670 +32,7 0,00
3.3. Đánh giá sự hài lòng của nông hộ sản xuất lúa
trong CĐLK tại huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long
Phân tích thống kê các thang đo: Sự hài lòng của
nông hộ sản xuất lúa trong cánh đồng liên kết tại
huyện Trà Ôn là khá tốt. Nông hộ hài lòng thể hiện
qua kết quả từng thành phần của thang đo (Bảng 3),
thang đo sự hài lòng chung với trung bình > 3.
Bảng 3. Mức độ hài lòng của nông hộ trong mô hình qua các thang đo
Thang đo Biến quan sát N
Tối
thiểu Tối đa
Trung
bình
Độ lệch
chuẩn
Trung bình
thang đo
Mức độ
hài lòng chung
MDHLC1 105 2 5 3,88 0,793
3,96MDHLC2 105 2 5 3,89 0,788
MDHLC3 105 2 5 4,10 0,831
Khoa học kỹ thuật
KHKT1 105 1 4 2,70 0,761
2,80KHKT2 105 1 4 2,71 0,675
KHKT3 105 2 4 2,98 0,635
Năng lực
ban quản lý
BQL1 105 1 5 3,59 1,035
3,36BQL2 105 1 5 3,38 1,095
BQL3 105 1 5 3,10 1,143
Hiệu quả kinh tế
KT1 105 3 5 4,41 0,583
4,07KT2 105 2 5 3,79 0,768
KT3 105 2 5 4,01 0,860
Chính sách
Nhà Nước
CSNN1 105 1 5 3,51 1,367
3,23CSNN2 105 1 5 3,54 1,217
CSNN3 105 1 5 2,65 1,225
Tác động
môi trường
MT1 105 1 5 2,43 1,322
2,73MT2 105 1 5 3,16 0,932
MT3 105 1 5 2,59 1,098
Lợi ích cá nhân
và xã hội
LOIICH1 105 2 5 4,34 0,648
4,23LOICH2 105 2 5 4,31 0,655
LOICH3 105 2 5 4,30 0,759
92
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
Đánh giá thang đo bằng hệ số Cronbach’s Alpha
tất cả các thang đo đều có hệ số lớn hơn 0,6 trừ
thang đo chỉ tiêu Môi trường (0,415) vì vậy chỉ
tiêu Môi trường bị loại trước khi đưa vào phân tích
EFA và phân tích EFA cho các biến của nhân tố độc
lập, các chỉ số đều đạt yêu cầu, với KMO = 0,720;
Sig. = 0,000; Tổng phương sai trích = 71,402% > 50%,
giá trị tổng phương sai trích cho biết các biến đưa vào
mô hình có khả năng giải thích chính xác 71,402%
mối quan hệ của các nhân tố ảnh hưởng đến biến kết
quả là sự hài lòng. Cuối cùng 4 thang đo với 12 biến
độc lập được xác định:
Nhân tố “Lợi ích các nhân và xã hội” với các biến
(LOIICH1; LOIICH2).
Nhân tố “Kinh tế” với các biến (KT3; KT2).
Nhân tố “Chính sách nhà nước” với các biến
(CSNN2; CSNN1; CSNN3).
Nhân tố “Khoa học kỹ thuật” với các biến
(KHKT2; KHKT1; KHKT3).
Nhân tố “Hoạt động Ban quản lý” với các biến
(BQL3; BQL2).
Kết quả phân tích khám phá (EFA) cho các biến
của nhân tố phụ thuộc là rất tốt với KMO = 0,673;
Sig. = 0,000; Trị số phương sai trích là 90,509%
>50%. Điều này có nghĩa là 90,509% thay đổi của
các nhân tố được giải thích bởi các biến quan sát
(Bảng 4). Nhân tố “Sự hài lòng” gồm các biến
(MDHLCH1; MDHLCH2; MDHLCH3).
Bảng 4. Phân tích khám phá (EFA) cho các biến của các nhân tố độc lập
Biến
quan sát Diễn giải
Nhân tố
1 2 3 4
LOIICH1 Tăng thu nhập, lợi nhuận cho gia đình 0,905
LOICH2 Cơ hội tiếp xúc, học hỏi, mở rộng kiến thức, thiết lập được nhiều mối quan hệ hơn trong sản xuất và kinh doanh 0,890
KT3 Cam kết bao tiêu sản phẩm 0,782
KT2 Giá bán cao hơn giá lúa ngoài mô hình và ổn định 0,643
CSNN2 Được ưu đãi vốn vay, vốn tín dụng 0,927
CSNN1 Được ngành nông nghiệp quan tâm ưu đãi 0,864
CSNN3 Được hỗ trợ tập huấn, giống, dịch vụ BVTV 0,834
KHKT2 Được ứng dụng tiến bộ KH-KT 0,801
KHKT1 Được tạo điều kiện học tập, tiếp nhận thông tin mới, cập nhật tiến bộ KH-KT 0,791
KHKT3 Được tham gia tập huấn, chuyển giao KHKT mới 0,739
BQL3
Công tác tổ chức SX điều hành trong BQL tốt: các hoạt
động của BQL, THT, HTX được công khai, rõ ràng, có kế
hoạch sản xuất, kinh doanh, giám sát cụ thể
0,877
BQL2 Ban quản lý có năng lực, trách nhiệm, uy tín 0,703
Kết quả Phân tích hồi qui (Bảng 5) cho thấy giá
trị Sig. < 0.05 là có ý nghĩa của các nhân tố độc lập
“Chính sách nhà nước”; “Kinh tế”; “Khoa học kỹ
thuật”; “Lợi ích”. Riêng nhân tố “Ban quản lý” có giá
trị Sig = 0,128 > 0,05 nên nhân tố này sẽ bị loại vì
không có ý nghĩa trong mô hình. Thực tế, Ban Quản
lý các cánh đồng liên kết chủ yếu là thành viên Tổ
hợp tác/Hợp tác xã và sự tham gia của tổ chức Hội
nông dân đã thể hiện năng lực, trách nhiệm, uy tín
và được giám sát - công khai minh bạch trong khâu
tổ chức, vì vậy nhân tố Ban Quản lý đã không ảnh
hưởng đến mức độ hài lòng của nông dân trong
cánh đồng liên kết.
Mô hình hồi quy chuẩn hóa thể hiện mối quan
hệ tuyến tính giữa 4 nhân tố độc lập là “Chính sách
nhà nước”; “Kinh tế”; “Khoa học kỹ thuật”; “Lợi ích
cá nhân và xã hội” của nông hộ trong cánh đồng liên
kết tại huyện Trà Ôn có dạng như sau:
Sự hài lòng = 0,961 + 0,528 * Kinh tế + 0,373 *
Khoa học kỹ thuật + 0,156 * Lợi ích cá nhân và xã
hội + 0,105 * Chính sách nhà nước.
93
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
Bảng 5. Kết quả phân tích hồi quy đa biến
Nhân tố
ảnh hưởng
Hệ số hồi quy
chưa chuẩn hóa
Hệ số hồi quy
chuẩn hóa Giá trị T Sig.
Thống kê
đa cộng tuyến
B Std. Error Beta (β) Tolerance VIF
(Constant) 0,961 0,353 2.726 0,008
CSNN 0,072 0,037 0,105 1.941 0,045 0,890 1,123
KT 0,653 0,078 0,528 8.334 0,000 0,655 1,527
KHKT 0,508 0,079 0,373 6.387 0,000 0,771 1,297
BQL -0,068 0,044 -0,082 -1.535 0,128 0,929 1,077
LOIICH 0,191 0,073 0,156 2.622 0,010 0,741 1,350
Biến phụ thuộc SUHAILONG
Như vậy, phương trình trên có 4 nhân tố ảnh
hưởng quan trọng đến sự hài lòng của nông hộ sản
xuất lúa trong CĐLK theo thứ tự tầm quan trọng của
từng nhân tố phụ thuộc vào hệ số β, nhân tố nào có
hệ số β càng lớn thì mức độ tác động đến sự hài lòng
càng nhiều; Từ kết quả phương trình, sự hài lòng
của nông hộ sản xuất lúa trong CĐLK chịu tác động
nhiều nhất bởi nhân tố Kinh tế (β = 0,528), tiếp theo
là nhân tố Khoa học kỹ thuật (β = 0,373), kế đến là
nhân tố Lợi ích cá nhân và xã hội (β = 0,156), và cuối
cùng là nhân tố Chính sách nhà nước (β = 0,105)
có tác động thấp nhất đến sự hài lòng của nông hộ.
Qua đó, giúp địa phương tác động vào yếu tố nào để
cải thiện sự hài lòng của nông hộ, nên được ưu tiên
thực hiện là giải quyết vấn đề có mức ảnh hưởng lớn,
nhằm tăng hiệu quả hoạt động của cánh đồng liên
kết, cụ thể như sau:
- Về yếu tố đảm bảo kinh tế (tin cậy REL): Thành
tố Kinh tế có tầm quan trọng cao nhất trong mô
hình (β = 0,528), các hoạt động được hướng đến
nhằm đạt hiệu quả sản xuất. Kết quả nghiên cứu cho
thấy, nông hộ tham gia cánh đồng liên kết khá hài
lòng (MDHLC > 3) và yếu tố tin cậy về hợp đồng
bao tiêu chiếm tỉ trọng cao nhất trong thành tố Kinh
tế đã làm tăng sự hài lòng của nông hộ (Bảng 4). Để
đảm bảo cam kết bao tiêu sản phẩm cho nông hộ sản
xuất lúa trong CĐLK là hợp đồng bao tiêu phải chặt
chẽ, hài hòa lợi ích giữa các bên, có sự ràng buộc
bằng sự tham gia của Nhà nước trong khâu pháp lý
của hợp đồng nhằm tránh tình trạng “vỡ kèo” như
năm 2018 - 2019 với tỷ lệ khá cao (19%). Để hợp tác
được bền vững, nông hộ cũng cần tuân thủ theo nội
dung hợp đồng .
- Về yếu tố đảm bảo Khoa học kỹ thuật (đáp ứng
RES): Theo nghiên cứu của Nguyễn Hồng Tín và
cộng tác viên (2015) thì việc tham gia mô hình liên
kết và áp dụng kỹ thuật 1P5G giúp tăng hiệu quả sản
xuất lúa của nông hộ và yếu tố đảm bảo về Khoa học
kỹ thuật cho nông hộ trong mô hình cũng là thành
tố có tầm ảnh hưởng quan trọng sau thành tố Kinh
tế (β = 0,373). Vì vậy, cần tạo điều kiện cho nông hộ
trong mô hình được ứng dụng kỹ thuật tiên tiến, cụ
thể là những nông hộ sản xuất tốt trong mô hình
được tạo điều kiện thí điểm các gói kỹ thuật tiên tiến
nhằm khuyến khích nông hộ sản xuất đảm bảo chất
lượng nông sản và tạo điểm trình diễn cho các nông
hộ khác học hỏi, phát triển sản xuất, được tiếp cận
thông tin bằng cách kịp thời thông tin cho nông hộ
trong mô hình về tình hình giá cả, gói kỹ thuật hiệu
quả, thông tin về giống lúa, mô hình hay từ đó tạo
động lực cho nông hộ có đầy đủ kiến thức, thông tin
thị trường.
- Về yếu tố đảm bảo Lợi ích cá nhân và xã hội
(Đảm bảo ASS): Qua khảo sát và phân tích ở bảng 2
cho thấy, nhóm hộ trong CĐLK có năng suất bình
quân cao hơn, đạt lợi nhuận cao hơn 31,4%, hiệu quả
đồng vốn cao hơn 0,35 lần so với hộ ngoài CĐLK.
Kết quả nghiên cứu của Lê Nguyễn Đoan Khôi và
Nguyễn Ngọc Vàng (2012) đã chứng minh rằng
nông hộ trong mô hình liên kết đầu tư thêm một
đồng chi phí thu được 0,75 đồng lợi nhuận, trong
khi đó ngoài CĐLK chỉ thu được 0,39 đồng. Như
vậy, thành tố Lợi ích cá nhân và xã hội có tầm quan
trọng thứ 3 trong CĐLK (β = 0,156). Vì vậy, nông
dân cần áp dụng đúng quy trình kỹ thuật sản xuất, sẽ
hạ giá thành sản xuất, giá bán sẽ cao - ổn định, giúp
tăng thu nhập trên diện tích đất canh tác, đây là yếu
tố đảm bảo cuộc sống, giúp nông hộ an tâm sản xuất
và hài lòng khi tham gia vào cánh đồng liên kết. Bên
cạnh đó, tạo cơ hội tiếp xúc, giao lưu học hỏi để mở
rộng kiến thức, và thiết lập được nhiều mối quan hệ
tổ/nhóm trong sản xuất và kinh doanh.
- Về yếu tố đảm bảo Chính sách Nhà nước
(Phương tiện hữu hình TAN và Cảm thông EMP):
Đây là thành tố có tầm quan trọng thấp (β = 0,105)
thể hiện tỷ lệ hộ trong CĐLK chưa thực hiện đồng
94
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
bộ, tự mua giống bên ngoài hoặc tự giữ giống
(57,1%) và không mua vật tư nông nghiệp đúng
qui định (29,5%), và chưa tham gia tập huấn chiếm
8,6% (Bảng 1). Vì vậy, để tăng hiệu quả CĐLK các
chính sách nhà nước cần tạo điều kiện cho nông hộ
tham dự tập huấn, tiếp cận nguồn lúa giống, dịch
vụ BVTV, đó là phương tiện hữu hình giúp nông
hộ cảm nhận sự hài lòng, quyết tâm sản xuất. Vì
vậy việc hỗ trợ tập huấn phải lựa chọn nội dung đáp
ứng nhu cầu thực tế, thiết thực, đảm bảo sản xuất
đạt chất lượng, giá cả. Bên cạnh đó, phải công khai
và minh bạch về sự ưu đãi của Nhà nước. Ngành
nông nghiệp quan tâm đến nông hộ để có sự cảm
thông, qua đó nông hộ cảm thấy hài lòng khi tham
gia CĐLK. Tạo điều kiện cho nông hộ vay vốn, và
vốn tín dụng, có thể là yêu tố đảm bảo về phương
tiện hữu hình, giúp nông hộ đầu tư sản xuất, ứng
dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, chủ động trong tưới
tiêu, để đảm bảo sản xuất đạt hiệu quả.
IV. KẾT LUẬN
Nông hộ tham gia mô hình cánh đồng liên kết
tại huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long vẫn còn hạn chế
trong ứng dụng qui trình kỹ thuật canh tác; nhưng
chi phí sản xuất thấp hơn 10,5%, năng suất cao hơn
7,5%, và lợi nhuận cao hơn 31,3% so với hộ ngoài
Cánh đồng liên kết.
Nông hộ hài lòng khi tham gia cánh đồng liên
kết qua giá trị trung bình thang đo > 3. Bốn nhân
tố có tác động đến sự hài lòng của nông hộ là “Kinh
tế”, “Khoa học kỹ thuật”; “Lợi ích cá nhân và xã
hội”; và nhân tố có tác động thấp nhất là “Chính
sách nhà nước”.
Để phát triển mô hình CĐLK tốt hơn với sự tham
gia của nông hộ nhiều hơn trong tương lai, nhân tố
chính sách của địa phương cần được xem xét để
tạo động lực thúc đẩy sản xuất nông nghiệp gắn kết
“Bốn nhà” tại địa phương.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Lê Nguyễn Đoan Khôi và Nguyễn Ngọc Vàng, 2012.
Giải pháp nâng cao hiệu quả tố chức sản xuất tiêu
thụ lúa gạo - trường hợp cánh đồng mẫu lớn tại An
Giang. Trong Kỷ yếu khoa học 2012. Đại học Cần
Thơ, trang 125-132.
Võ Thị Thanh Lộc và Huỳnh Hữu Thọ, 2016. Giáo trình
phương pháp nghiên cứu khoa học và viết đề cương
nghiên cứu. Nhà xuất bản Đại học Cần Thơ, trang
1-70.
Nguyễn Thị Bích Ngọc, 2019. Đánh giá hiệu quả tài
chính sản xuất lúa trong và ngoài liên kết ở tỉnh An
Giang và Đồng Tháp. Luận văn cao học ngành Phát
triển Nông thôn - Viện Nghiên cứu & Phát triển
ĐBSCL - Trường Đại học Cần Thơ, trang 40-64.
Nguyễn Hồng Tín, Lê Thị Cẩm Hường, Nguyễn Ngọc
Sở, Nguyễn Văn Sánh và Châu Thị Mỹ Duyên,
2015. Hiệu quả kinh tế mô hình 1 phải 5 giảm của 2
nhóm hộ trong và ngoài HTX ở Kiên Giang và An
Giang. Tạp chí Khoa học - Đại học Cần Thơ, 37 (2):
76-85.
Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc, 2005. Phân
tích dữ liệu nghiên cứu với SPSS. Nhà xuất bản thống
kê. Hà Nội. Trang 13-16.
Phạm Ngọc Nhàn, 2013. Đánh giá mức độ hài lòng của
nông dân về chất lượng lớp tập huấn (FFS) chọn giống
và sản xuất lúa giống cộng đồng tỉnh Hậu Giang năm
2013. Luận văn cao học ngành Phát triển Nông thôn
- Viện Nghiên cứu & Phát triển ĐBSCL - Trường Đại
học Cần Thơ. Trang 27-34.
Trương Văn Tuyển, 2007. Giáo trình Phát triển cộng
đồng. Lý luận và ứng dụng trong phát triển nông thôn.
NXB Nông nghiệp. Hà Nội. 175 trang.
UBND huyện Trà Ôn, 2018. Báo cáo Kết quả thực hiện
Đề án “Tái cơ cấu ngành nông nghiệp tỉnh Vĩnh
Long theo hướng nâng cao giá trị, hiệu quả và phát
triển bền vững” trên địa bàn huyện Trà Ôn giai đoạn
2013 - 2017.
UBND xã Tân Mỹ - Thiện Mỹ - Xuân Hiệp, 2018-2019.
Báo cáo Kết quả thực hiện Đề án “Tái cơ cấu ngành
nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị, hiệu quả
và phát triển bền vững” trên địa bàn xã.
Parasuraman, A., Zeithaml, V.A. and Berry, L.L., 1988.
“SERVQUAL: a multiple item scale for measuring
customer perceptions of service quality”. Journal of
Retailing, 64: 12-40.
Evaluation of farm households’ satisfaction participating
in the associate fields of rice production in Tra On district, Vinh Long Province
Tran Thanh Thuy and Huynh Quang Tin
Abstract
Participation of households in the model “Associate fields” in Tra On district of Vinh Long province has decreased
since 2018; 135 households inside and outside the associate fields were interviewed to assess the production status
and farmer’s satisfaction level. The collected data was analyzed by descriptive statistics, T-Test for comparing financial
efficiency between two groups of households; SERVPERF scale and multivariate regression analysis were applied
95
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
to determine levels and factors affecting the satisfaction of households inside the model. The result showed that
households inside the associate fields had higher yield and profit (7.6% and 31.4%) in comparison to those outside.
The farmers were quite satisfied about participation in the associate fields by the highest scale of Benefit variable
(> 4.2). Main factors affecting the satisfaction were Economy (β = 0.528), Engineering (β=0.373), Personal and
Society Benefits (β = 0.156); the Government Policy was the lowest impact on household’s satisfaction (β = 0.105).
Adjustment of the local supportive policies will attract farmer’s participation with the associate fields in the future.
Keywords: Associate fields, farm household, satisfaction, Tra On district, Vinh Long province
Ngày nhận bài: 02/4/2020
Ngày phản biện: 08/5/2020
Người phản biện: TS. Lê Quang Long
Ngày duyệt đăng: 20/5/2020
TÍNH BỀN VỮNG VÀ HIỆU QUẢ KINH TẾ CÁC MÔ HÌNH
SINH KẾ NÔNG HỘ VÙNG LŨ ĐÊ BAO KHÉP KÍN TỈNH AN GIANG
Lâm Thành Sĩ 1, Châu Mỹ Duyên2
TÓM TẮT
An Giang là tỉnh chịu ảnh hưởng đầu tiên và trực tiếp lũ hằng năm, lũ gây ra các rủi ro như gây ngập úng, thiệt
hại sản xuất, hạn chế giao thông, xói lở và ảnh hưởng đến sinh kế hộ dân. Nghiên cứu sử dụng khung sinh kế bền
vững (DFID, 1999) nhằm khám phá các yếu tố thúc đẩy và cản trở sinh kế của nông hộ, đồng thời so sách các nguồn
lực sinh kế hộ trong đê và ngoài đê nhằm đề xuất những giải pháp cho cải thiện sinh kế nông hộ. Kỹ thuật tham
vấn người am hiểu (KIP), thảo luận nhóm (FGD) và phỏng vấn hộ được sử dụng. 182 hộ dân trong và ngoài đê ở
02 huyện An Phú, Phú Tân và thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang được phỏng vấn. Công cụ thống kê mô tả và phân
tích Anova sử dụng để thể hiện các chiến lược sinh kế, nguồn vốn sinh kế và tính tổn thương của chiến lược sinh kế.
Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, trong điều kiện hiện tại nông hộ có nguồn lao động dồi dào nhưng số người phụ
thuộc nhiều tạo khó khăn trong chi phí sinh hoạt, trình độ học vấn ở mức thấp. Tuy nhiên, về vốn nguồn lực tự
nhiên, diện tích sỡ hữu của các mô hình thì khác nhau khá lớn. Về mặt kinh tế, mức độ đa dạng nguồn thu nhập hộ
không cao. Về vốn xã hội, tỷ lệ tham gia hội đoàn ở mức thấp làm hạn chế khả năng tiếp cận thông tin của hộ. Về vốn
tài sản, nông hộ đa phần hài lòng về giao thông, thủy lợi, đê bao. Đối với 3 mô hình sinh kế chính thì có khác biệt
ý nghĩa thống kê về hiệu quả kinh tế và mô hình nuôi trồng thủy sản là một mô hình triển vọng cho thu nhập hộ.
Từ khóa: Biến đổi khí hậu, dễ tổn thương, vùng lũ, sinh kế
1 Nghiên cứu sinh ngành Phát triển nông thôn, Đại học Cần Thơ
2 Viện Nghiên cứu Phát triển ĐBSCL, Đại học Cần Thơ
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Đồng Bằng Sông Cửu Long là vùng sản xuất nông
nghiệp trọng điểm của cả nước và giữ vai trò quan
trọng trong đảm bảo an ninh lương thực của quốc gia
(Sánh, 2009; Thắng và Toản, 2016). Vì vậy, sản xuất
và dịch vụ nông nghiệp đã trở thành nguồn sinh kế
chính của nông dân vùng ĐBSCL. Trong điều kiện
cực đoan như hiện nay, ĐBSCL nói chung và lĩnh
vực nông nghiệp ở ĐBSCL nói riêng bị ảnh hưởng
nặng nề bởi tác động của biến đổi khí hậu, hiểm
họa tự nhiên (Wassmann, 2004; Dasgupta, 2007;
Carew-Reid, 2007) và chịu ảnh hưởng của thay
đổi sử dụng nước ở thượng nguồn (Greancen and
Palettu, 2007) cụ thể những hiện tượng cực đoan
này đã ảnh hưởng đến diễn biến lũ trở nên thay đổi
và thất thường hơn (Cấn Thu Văn và Nguyễn Thanh
Sơn, 2016; Thắng và Toản, 2016).
Tỉnh An Giang là tỉnh đầu nguồn có biên giới
giáp với Campuchia, nơi có dòng Sông Tiền và Sông
Hậu thuộc Sông Mekong từ thượng nguồn chảy về
và là tỉnh chịu ảnh hưởng đầu tiên và trực tiếp bởi
lũ hằng năm (Tú và ctv., 2012). Theo tác giả Nguyễn
Thị Hoàng Hoa năm 2017 đã chỉ ra rằng, lũ mang
lại nhiều lợi ích cho ĐBSCL nói chung như cung
cấp nước cho sản xuất, sinh hoạt, hệ sinh thái, ngăn
xâm nhập mặn và cung cấp phù sa và nguồn thủy
sản (Hoa, 2017). Tuy nhiên, lũ cũng gây ra các rủi ro
như gây ngập úng, thiệt hại mùa màng, cản trở giao
thông, xói lở và ảnh hưởng đến sinh kế hộ dân. Do
đó, An Giang đã tập trung vào các giải pháp công
trình như xây dựng đê bao khép kín để phục vụ cho
sản xuất và đảm bảo an toàn cho người dân (Thiệu
và Dung, 2014) và giải pháp phi công trình “sống
chung với lũ” nhằm nâng cao ý của hộ dân trong
Các file đính kèm theo tài liệu này:
danh_gia_su_hai_long_cua_nong_ho_san_xuat_lua_trong_canh_don.pdf