Đánh giá sự biến động của HCO3- trong môi trường nuôi tảo
Tảo sử dụng nguồn carbon chính là HCO3-. Sử dụng nguồn carbon nhiều hay ít
ảnh hưởng đến khả năng tăng sinh khối tảo. Sự thay đổi tỷ lệ HCO3-, CO32- trong bể
nuôi tảo được trình bày trong hình 5.
Đường đồ thị trong hình 5 cho thấy, tảo phát triển càng mạnh thì hàm lượng
HCO3- trong môi trường càng giảm và hàm lượng CO32- càng tăng. Tảo sử dụng
HCO3- như một nguồn cơ chất để sinh trưởng. Do đó, khi mật độ tảo trong môi
trường tăng, hàm lượng HCO3- giảm và ngược lại khi mật độ tảo trong môi trường
giảm, nhu cầu sử dụng HCO3- giảm nên hàm lượng HCO3- có xu hướng tăng nhẹ. Sự
biến động giữa HCO3- và CO32- theo sự sinh trưởng của tảo và hàm lượng HCO3- bổ
sung. Trong thời gian 15 ngày đầu là khoảng thời gian tảo phát triển, hàm lượng
HCO3- giảm dần theo thời gian, từ 8000 mg/l ở ngày đầu tiên xuống còn 5490 mg/l ở
ngày thứ 15 và CO32- tăng từ 1200 mg/l lên 2700 mg/l. Sau mỗi lần thu sinh khối
tảo, tương ứng với các ngày nuôi 15, 27, 39, 51, 60, hàm lượng HCO3- có tăng do
được bổ sung thêm lượng HCO3- và hàm lượng CO32- giảm nhẹ do ảnh hưởng của
pH giảm làm một phần nhỏ CO32- chuyển thành HCO3-. Trong suốt quá trình thí
nghiệm, hàm lượng CO32- luôn có xu hướng tăng.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 3 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá sự sinh trưởng của tảo lam spirulina platensis nuôi trồng trong môi trường nước khoáng Kim Bôi, Hòa Bình, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thông tin khoa học công nghệ
Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 18, 07/2019 90
ĐÁNH GIÁ SỰ SINH TRƯỞNG CỦA TẢO LAM SPIRULINA
PLATENSIS NUÔI TRỒNG TRONG MÔI TRƯỜNG
NƯỚC KHOÁNG KIM BÔI, HÒA BÌNH
PHẠM KHẮC LINH (1), NGUYỄN THỊ THU THỦY (1),
VŨ HOÀNG GIANG (1), VŨ THỊ NGUYỆT (2)
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Spirulina platensis là một loài vi tảo lam, đa bào, dạng sợi, có vòng xoắn nên
còn được gọi là tảo xoắn [1]. Từ lâu, Spirulina đã được coi như là một nguồn cung
cấp protein hoàn hảo, giá trị cao. Trên thế giới cũng như ở Việt Nam có hàng triệu
người đã và đang sử dụng các sản phẩm được sản xuất Spirulina hàng ngày để hỗ trợ
tăng cường sức khỏe [2].
Spirulina trong tự nhiên sống ở môi trường kiềm giàu bicarbonat, nhiệt độ thích
hợp từ 28 - 35oC, có khả năng chịu biến động ánh sáng cao. Carbon là yếu tố dinh
dưỡng rất quan trọng đối với tảo, do vậy trong nuôi trồng đại trà, người ta thường bổ
sung nguồn carbon để vừa đáp ứng được nhu cầu dinh dưỡng của tảo, vừa giảm chi
phí về môi trường nuôi [3]. Nhiều loại hình nuôi tảo khác nhau đã được sử dụng chủ
yếu với hai dạng là bể hở và hệ thống bể phản ứng quang sinh dạng ống thông qua
các phương pháp nuôi từng mẻ, nuôi liên tục hoặc bán liên tục. Hiện nay, nhiều nơi
trên thế giới, người ta đã phát triển nuôi công nghiệp để thương mại hóa sản phẩm
thu được từ tảo như ở Đài Loan, Thái Lan, Califonia, Nhật, Israel [4]. Ở Việt
Nam, môi trường nuôi và quy trình công nghệ cho nuôi loài tảo S. platensis đã được
áp dụng rất thành công tại Vĩnh Hảo, tỉnh Bình Thuận; Mỹ An, tỉnh Thừa Thiên Huế
và một số nơi khác trên cơ sở tận dụng nguồn nước khoáng tại địa phương có chứa hàm
lượng bicarbonat cao [5, 6, 7].
Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng nguồn nước khoáng thiên nhiên tại
Kim Bôi, Hòa Bình để thử nghiệm nuôi trồng tảo S. platensis. Nguồn nước khoáng
Kim Bôi, Hòa Bình được xuất lộ ra từ vỉa đá vôi có tuổi địa chất khoảng 250 triệu
năm, được đánh giá là suối khoáng có thành phần hóa học ổn định nhất, hàm lượng
bicarbonat tương đối cao, có nhiều nguyên tố vi lượng, các kim loại nặng thấp trong
giới hạn cho phép theo tiêu chuẩn Việt Nam. Sử dụng nguồn nước khoáng để nuôi sinh
khối tảo S. platensis sẽ giúp giảm lượng bicarbonat sử dụng trong môi trường nuôi. Bài
báo trình bày kết quả khảo sát khả năng sinh trưởng của tảo S. platensis khi nuôi trồng
trong nguồn nước suối khoáng Kim Bôi trong điều kiện phòng thí nghiệm, làm cơ sở
cho việc xây dựng mô hình nuôi tảo quy mô lớn, tạo nguồn nguyên liệu sản xuất các
chế phẩm chứa Spirulina nhằm hỗ trợ, chăm sóc sức khỏe con người.
2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
- Các chủng vi tảo lam S. Platensis gồm: SP2, SP4, SP8, T38, T48 thuộc bộ
sưu tập giống của Phòng Thủy sinh vật, Viện Công nghệ Môi trường, Viện Hàn lâm
Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
Thông tin khoa học công nghệ
Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 18, 07/2019 91
- Nguồn nước khoáng Kim Bôi, Hòa Bình: Mẫu nước khoáng được lấy trực
tiếp từ trong lòng nguồn suối khoáng qua vòi chảy, đem đóng chai, ghi nhãn và gửi
mẫu đi phân tích một số thành phần hóa học.
- Môi trường dinh dưỡng: sử dụng nước cất để pha môi trường Zarrouk:
+ Môi trường 50% nước khoáng và 50% nước cất có bổ sung: 15 g/l NaHCO3;
2,5 g/l NaNO3; 0,5 g/l K2HPO4,1 g/l K2SO4;1 ml Vi lượng 1 (28,46 g/l FeSO4.7H2O;
30,2 EDTA-Na2), 1 ml Vi lượng 2 (2,86 g/l H3BO3; 1,81 g/l MnCl2.4H2O; 0,22 g/l
ZnSO4.7H2O; 0,08 g/l CuSO4.5H2O), 1 ml Vi lượng 3 (0,023 g/l NH4VO3; 0,096 g/l
K2Cr2(SO4).24H2O; 0,0478 g/l NiSO4.7H2O; 0,0178 g/l Na2WO4.2H2O; 0,04 g/l
Ti2(SO4)3; 0,044 g/l Co(NO3)2.6H2O).
+ Môi trường 100% nước khoáng thử nghiệm 10 lit có bổ sung: 8 g/l
NaHCO3; 2,5 g/l NaNO3; 0,5 g/l K2HPO4,1g/l K2SO4;1 ml Vi lượng 1 (28,46 g/l
FeSO4.7H2O; 30,2 EDTA-Na2), 1 ml Vi lượng 2 (2,86 g/l H3BO3; 1,81 g/l
MnCl2.4H2O; 0,22 g/l ZnSO4.7H2O; 0,08 g/l CuSO4.5H2O), 1 ml Vi lượng 3 (0,023
g/l NH4VO3; 0,096 g/l K2Cr2(SO4).24H2O; 0,0478g/l NiSO4.7H2O; 0,0178 g/l
Na2WO4.2H2O; 0,04 g/l Ti2(SO4)3; 0,044 g/l Co(NO3)2.6H2O).
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Thí nghiệm được tiến hành làm 2 bước:
Bước 1: Lựa chọn chủng tảo phù hợp với nguồn nước khoáng tại Kim Bôi,
Hòa Bình trong điều kiện Việt Nam.
Để so sánh khả năng sinh trưởng của các chủng lựa chọn trong điều kiện
thường, chúng tôi tiến hành thí nghiệm lựa chọn các chủng SP2, SP4, SP8, T38, T48
sử dụng môi trường hỗn hợp (50% nước khoáng, 50% môi trường nước cất). Nuôi cấy
trong bình tam giác có thể tích 120 ml, không có khuấy sục, ánh sáng 2500 lux, ở
nhiệt độ 26oC, tỷ lệ cấp giống 20%. Thí nghiệm mỗi chủng lặp lại 3 lần, lấy mẫu đánh
giá sinh trưởng 3 ngày 1 lần trong 21 ngày thí nghiệm.
Để lựa chọn chủng tảo có khả năng thích nghi với nhiệt độ Việt Nam, từ thí
nghiệm ở trên, chúng tôi chọn các chủng có khả năng sinh trưởng tốt ở môi trường
hỗn hợp để tiến hành thí nghiệm tiếp theo, sử dụng 100% nước khoáng ở các chế độ
nhiệt độ khác nhau với điều kiện và lặp lại như thí nghiệm trên.
Bước 2: Theo dõi, đánh giá sự sinh trưởng của chủng được lựa chọn.
Chủng được lựa chọn tiến hành nuôi trong môi trường 100% nước khoáng thử
nghiệm, thể tích nuôi 10 lít, tỷ lệ cấp giống 20%. Đánh giá sự sinh trưởng 3
ngày/lần; có sục khí 3 lít/phút, khi giá trị OD445 nm đạt tới 1,3; tiến hành thu sinh
khối, sau mỗi lần thu sinh khối, bổ sung lượng bicarbonat (HCO3-) 3 g/l vào môi
trường nuôi bổ sung bằng lượng nước khoáng từ Kim Bôi.
Các phương pháp phân tích:
a) Phân tích thành phần của nước khoáng
Mẫu nước khoáng được lấy trực tiếp ở vòi chảy bơm từ trong lòng suối
khoáng, đóng chai, ghi nhãn và gửi mẫu đi phân tích một số thành phần hóa học tại
Viện Sức khỏe Nghề nghiệp và Môi trường, Bộ Y tế.
Thông tin khoa học công nghệ
Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 18, 07/2019 92
b) Xác định sinh trưởng
Sinh trưởng của tảo S.platensis được xác định gián tiếp nhờ phương pháp đo
mật độ quang (OD) bước sóng 445nm trên máy quang phổ UV-2450 Shimadzu
(Nhật Bản).
c) Xác định sự biến động của pH trong môi trường nuôi
Sử dụng pH meter để đo: cứ 3 ngày 1 lần.
d) Phương pháp xác định hàm lượng HCO3- trong môi trường nuôi tảo
Dịch tảo được lọc qua giấy lọc GF/C, loại tế bào tảo thu lấy 50 ml dịch trong cho
vào bình tam giác 100 ml. Nhỏ vào bình đựng mẫu 2 giọt dung dịch phenolphtalein
0,1% pha trong ethanol sau đó chuẩn độ bằng dung dịch HCl 0,1N. Lượng thể tích HCl
0,1 N được sử dụng để làm mất màu hồng của dung dịch được ghi lại (V1). Tiếp tục
nhỏ vào bình đựng mẫu 2 giọt dung dịch methyl da cam 0,1% pha trong ethanol. Tiếp
tục chuẩn độ bằng dung dịch HCl 0,1N. Lượng thể tích HCl 0,1 N được sử dụng để
chuyển màu vàng dung dịch sang màu gạch non được ghi lại (V2). Hàm lượng
HCO3- được tính theo công thức:
Hàm lượng HCO3- (mg/l) = [(V2 - V1) * 61* 0,1 *1000]/50
Trong đó: V1: Số mL HCl 0,1 N sử dụng để chuẩn độ CO32-
V2: Tổng số ml HCl 0,1 N sử dụng sau khi đã chuẩn độ HCO3-
e) Phân tích thành phần chất lượng tảo
Hàm lượng protein tổng số được xác định theo phương pháp Kjeldahl sau đó
nhân với hệ số 6,25. Hàm lượng lipit được xác định theo phương pháp đo quang phổ
tử ngoại UV-VIS. Tro, độ ẩm xác định theo phương pháp phân tích AOAC 2000.
Phân tích các kim loại nặng theo phương pháp quang phổ hấp thụ nguyên tử AAS [8].
3. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
3.1. Kết quả phân tích thành phần nước khoáng Kim Bôi, Hòa Bình
Các thông số chính của chất lượng nước khoáng Kim Bôi, Hòa Bình được
trình bày trong bảng 1 dưới đây.
Bảng 1. Một số chỉ tiêu của nước khoáng Kim Bôi, Hòa Bình
STT Các chỉ tiêu Đơn vị Kết quả Giá trị giới hạn
1 pH - 7,94 5,5 - 8,5
2 Cadimi (Cd) mg/l <0,0006 0,005
3 Chì (Pb) mg/l <0,002 0,01
4 Asen (As) mg/l 0,001 0,05
5 Thủy ngân (Hg) mg/l <0,0006 0,001
6 HCO3- mg/l 1800 -
Thông tin khoa học công nghệ
Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 18, 07/2019 93
Từ kết quả phân tích trong bảng 1 cho thấy, nguồn nước khoáng Kim Bôi, Hòa
Bình hoàn toàn phù hợp để nuôi sinh khối tảo Spirulina. Giá trị pH của nước khoáng
Kim Bôi, Hòa Bình là 7,94 thuận lợi cho sự phát triển của tảo Spirulina. Chỉ số pH
này tương đương với pH của nước khoáng Mỹ An, Thừa Thiên Huế là 7,78 trong
nghiên cứu của Trần Phương Hà, Vũ Thị Thanh Tâm [2]. Hàm lượng HCO3- trong
nước là nguồn cơ chất cho tảo sinh trưởng, nước khoáng Kim Bôi, Hòa Bình giá trị
HCO3- là 1.800 mg/l, cao hơn nhiều so với nước khoáng Thanh Tân và Mỹ An..
3.2. Lựa chọn chủng tảo Spirulina platensis sinh trưởng phù hợp với
nguồn nước khoáng Kim Bôi
Việc lựa chọn chủng tảo phù hợp với nguồn nước khoáng Kim Bôi để nuôi
sinh khối đóng vai trò quan trọng nhằm mục đích thu hoạch được sinh khối tảo có
năng suất tối đa, chất lượng sinh khối tốt. Chúng tôi đánh giá sinh trưởng của 5
chủng tảo sau 21 ngày thí nghiệm. Kết quả được trình bày ở hình 1.
Hình 1. Tốc độ sinh trưởng của các chủng tảo thí nghiệm
Từ biểu đồ hình 1 cho thấy, có 5 chủng tảo thí nghiệm thì đều phát triển được
trong điều kiện nguồn nước khoáng Kim Bôi. Tuy nhiên, quá trình sinh trưởng có sự
khác biệt. Chủng SP2 sinh trưởng trội hơn trong khoảng từ 6-15 ngày, tuy nhiên sau
đó chủng này phát triển chậm lại, còn các chủng SP4, SP8, T48 đều sinh trưởng trội hơn
từ 15 ngày trở đi. Riêng chủng T38 phát triển chậm nhất. Chúng tôi nhận thấy rằng, cả 4
chủng SP2, SP4, T48 và SP8 đều cho sinh khối tảo cao trong thời gian thí nghiệm.
Với mục đích tận dụng nguồn nước khoáng Kim Bôi, Hòa Bình để ứng dụng
nuôi sinh khối tảo ra ngoài thực tế tại địa phương. Các yếu tố ảnh hưởng đến khả
năng sinh trưởng của tảo được xem xét dựa trên cơ sở phù hợp với điều kiện khí hậu
tại tỉnh Hòa Bình, trong đó nhiệt độ đóng vai trò quan trọng quyết định năng suất
nuôi tảo. Chúng tôi tiến hành khảo sát ảnh hưởng của nhiệt độ đến khả năng sinh
trưởng của các chủng tảo SP2, SP4, T48 và SP8 trong quy mô phòng thí nghiệm.
Tảo được nuôi trồng trong khoảng nhiệt độ từ 18-34oC. Kết quả thí nghiệm được thể
hiện tại hình 2.
0
0,5
1
1,5
2
1 3 6 9 12 15 18 21
O
D
Ngày đo
SP2TN SP4TN SP8TN T38TN T48TN
Thông tin khoa học công nghệ
Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 18, 07/2019 94
Hình 2. Ảnh hưởng của nhiệt độ đến khả năng sinh trưởng của các chủng tảo
Mỗi loài tảo cần nuôi ở một khoảng nhiệt độ nước thích hợp, ngoài ngưỡng
nhiệt độ tảo sẽ không phát triển và có thể bị chết [9]. Quan sát trong quá trình thí
nghiệm nuôi tuyển chọn cho thấy, các chủng tảo đều sinh trưởng tốt nhất ở nhiệt độ
26oC. Chủng SP2 cho sinh khối vượt trội khi nhiệt độ nuôi từ 24-26oC, khi nhiệt độ
>26oC khả năng sinh trưởng giảm dần, giá trị OD445 nm tại 34oC thấp nhất là 0,21.
Chủng SP4 và SP8 cho sinh khối ổn định khi thay đổi nhiệt độ từ 24-28oC, tuy nhiên
khối lượng sinh khối lại thấp hơn nhiều so với 2 chủng còn lại. Chủng T48 thể hiện
khả năng thích nghi rộng hơn trong khoảng 24-32oC, giá trị OD445 nm xác định được
dao động trong khoảng từ 0,82-1, tốc độ sinh trưởng tương đối ổn định, có sự phân
bố đều trong bình thí nghiệm ngay khi cho vào môi trường thử nghiệm không có
sục, trong khi các chủng còn lại có mật độ ở phần giữa lớn hơn trên bề mặt. Kết quả
này phù hợp với nghiên cứu của Godia (2002) [10], Cheunbarn và Peerapornpisal
[11]. Vì vậy, chúng tôi chọn chủng tảo T48 để tiến hành nuôi thu sinh khối.
3.3. Khả năng sinh trưởng của chủng T48 trong môi trường khoáng thử
nghiệm
3.3.1. Khả năng sinh trưởng của chủng T48
Chủng T48 được chọn sử dụng để nuôi thu sinh khối thử nghiệm tại phòng thí
nghiệm của Viện Y sinh Nhiệt đới. Kết quả đánh giá khả năng sinh trưởng thu sinh
khối của chủng T48 trong điều kiện nuôi bằng nước khoáng Kim Bôi được trình bày
trong hình 3.
Kết quả cho thấy, trong 3 ngày đầu tảo phát triển khá chậm, OD445 nm tăng từ
0,499 đến 0,603. Sau thời gian thích ứng 10 ngày tiếp theo S. platensis phát triển
nhanh tăng từ 0,603 đến 1,309. Theo Đặng Đình Kim, khi OD445 nm từ 1,2- 1,5 thu
sinh khối thì tảo sẽ có chất lượng tốt nhất [6]. Do vậy, chúng tôi tiến hành thu hoạch
sinh khối tảo khi giá trị OD445 nm đạt khoảng 1,3. Kết quả thí nghiệm cũng cho thấy,
thời gian thu sinh khối tảo ban đầu là 15 ngày, tiếp theo cứ từ 12-13 ngày lại thu
sinh khối một lần và sự sinh trưởng của S. platensis T48 tương đối ổn định trong
suốt quá trình nuôi. Như vậy, kết quả nghiên cứu cho thấy nguồn nước khoáng Kim
Bôi phù hợp để nuôi tảo S. platensis, giúp tảo tăng trưởng tốt, có triển vọng khi áp
dụng nuôi ngoài thực tế.
0
0,5
1
1,5
2
18 20 22 24 26 28 30 32 34
O
D
Nhiệt độ
SP2 SP4 T48 SP8
Thông tin khoa học công nghệ
Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 18, 07/2019 95
Hình 3. Khả năng sinh trưởng của chủng T48
3.3.2. Đánh giá sự biến động của pH trong môi trường nuôi tảo
Sự thay đổi pH trong môi trường nuôi sinh khối chủng T48 được thể hiện ở
hình 4.
Hình 4. Biến đổi pH của môi trường nuôi tảo S.platensis
Từ đồ thị trong hình 4 cho thấy, giá trị pH ban đầu 8,2; giá trị pH có xu hướng
tăng chậm và luôn nằm trong khoảng từ 8,5 đến 10,49. Giá trị pH có tác động rất lớn
đến quá trình sinh trưởng và phát triển của tảo. Mỗi loài tảo có dải pH thích hợp
khác nhau. Đối với tảo Spirulina này dải pH thích hợp nằm trong khoảng từ 8,1 - 11
[6]. Vì vậy trong suốt quá trình khảo sát, thí nghiệm luôn duy trì trong khoảng pH
thích hợp 8,1-11. Trong quá trình sinh trưởng, tảo sử dụng carbon ở dạng HCO3- và
chuyển hóa từ HCO3- thành CO32- làm pH luôn có xu hướng tăng lên. Sau mỗi lần
thu hoạch, khi ta cung cấp nguồn carbon từ HCO3- làm giảm pH của môi trường
thuận lợi cho tảo sinh trưởng. Sự biến động về pH khi thu sinh khối và bổ sung thêm
nguồn carbon được thể hiện một cách rõ nét ở các ngày 18, 30, 42, 54 và 63. Hàm
lượng HCO3- trong nước khoáng Kim Bôi, Hòa Bình tương đối cao (1800 mg/l) có
tác dụng làm giảm giá trị pH của môi trường. Vì vậy bằng việc bổ sung nước
khoáng vào bể nuôi tảo hàng ngày để bù lượng nước bay hơi, góp phần làm cho pH
của môi trường nuôi tăng chậm.
0,499
0,603
0,825
1,004
1,309
0,669
0,989
1,121
1,386
0,534
0,912
1,123
1,29
0,682
0,898
1,123
1,327
0,653
0,932
1,327
0,563
0
0,2
0,4
0,6
0,8
1
1,2
1,4
1,6
3 6 9 12 15 18 21 24 27 30 33 36 39 42 45 48 51 54 57 60 63
O
D
Ngày đo
0
2
4
6
8
10
12
3 6 9 12 15 18 21 24 27 30 33 36 39 42 45 48 51 54 57 60 63
pH
Ngày đo
pH
pH
Thông tin khoa học công nghệ
Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 18, 07/2019 96
3.3.3. Đánh giá sự biến động của HCO3- trong môi trường nuôi tảo
Tảo sử dụng nguồn carbon chính là HCO3-. Sử dụng nguồn carbon nhiều hay ít
ảnh hưởng đến khả năng tăng sinh khối tảo. Sự thay đổi tỷ lệ HCO3-, CO32- trong bể
nuôi tảo được trình bày trong hình 5.
Hình 5. Thay đổi tỷ lệ HCO3-, CO32- trong môi trường nuôi tảo
Đường đồ thị trong hình 5 cho thấy, tảo phát triển càng mạnh thì hàm lượng
HCO3- trong môi trường càng giảm và hàm lượng CO32- càng tăng. Tảo sử dụng
HCO3- như một nguồn cơ chất để sinh trưởng. Do đó, khi mật độ tảo trong môi
trường tăng, hàm lượng HCO3- giảm và ngược lại khi mật độ tảo trong môi trường
giảm, nhu cầu sử dụng HCO3- giảm nên hàm lượng HCO3- có xu hướng tăng nhẹ. Sự
biến động giữa HCO3- và CO32- theo sự sinh trưởng của tảo và hàm lượng HCO3- bổ
sung. Trong thời gian 15 ngày đầu là khoảng thời gian tảo phát triển, hàm lượng
HCO3- giảm dần theo thời gian, từ 8000 mg/l ở ngày đầu tiên xuống còn 5490 mg/l ở
ngày thứ 15 và CO32- tăng từ 1200 mg/l lên 2700 mg/l. Sau mỗi lần thu sinh khối
tảo, tương ứng với các ngày nuôi 15, 27, 39, 51, 60, hàm lượng HCO3- có tăng do
được bổ sung thêm lượng HCO3- và hàm lượng CO32- giảm nhẹ do ảnh hưởng của
pH giảm làm một phần nhỏ CO32- chuyển thành HCO3-. Trong suốt quá trình thí
nghiệm, hàm lượng CO32- luôn có xu hướng tăng.
3.4. Đánh giá chất lượng sinh khối chủng T48 khi nuôi bằng nước khoáng
Kim Bôi
Sau khi thu hoạch và sấy phun ở 130oC trong 3s, chất lượng sinh khối tảo khô
sẽ được phân tích. Năng suất trung bình đạt 16 g tảo tươi/lit ở mỗi đợt thu. Kết quả
phân tích một số thành phần sinh hóa của tảo khô được trình bày trong bảng 2.
0
2000
4000
6000
8000
10000
12000
14000
16000
3 6 9 12 15 18 21 24 27 30 33 36 39 42 45 48 51 54 57 60 63
N
ồn
g
độ
m
g/
l
Ngày đo
CO3 (mg/l)
HCO3- (mg/l)
Thông tin khoa học công nghệ
Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 18, 07/2019 97
Bảng 2. Thành phần sinh hóa chính của tảo khô
STT Các chỉ tiêu phân tích Đơn vị Kết quả
1 Độ ẩm % 5,5
2 Protein % 69,53
3 Lipit % 4,34
4 Tro % 7,53
5 Chì (Pb) ppm 0,228
6 Cadimi (Cd) ppm < 0,05
7 Thủy ngân (Hg) ppm < 0,05
8 Asen (As) ppm < 0,05
Kết quả trong bảng 2 cho thấy, hàm lượng protein trong tảo thu được khi nuôi
bằng nguồn nước khoáng Kim Bôi đạt khoảng 69,53% KLK). Giá trị này cao hơn
nhiều so với hàm lượng protein của tảo Spirulina khi nuôi ở nguồn nước khoáng Mỹ
An (56,23%KLK), Tháp Bà (41,98% KLK), Dục Mỹ (57,66% KLK) [2,9]. Hàm
lượng các kim loại nặng trong tảo thấp, nằm trong giới hạn cho phép theo Quyết
định số 46/2007/QĐ-BYT về việc ban hành “Quy định giới hạn tối đa ô nhiễm sinh
học và hóa học trong thực phẩm” [12].
4. KẾT LUẬN
- Nước khoáng Kim Bôi, Hòa Bình có giá trị pH 7,94; hàm lượng kim loại
nặng (Pb, Cd, As, Hg) thấp, trong giới hạn theo quy chuẩn kỹ thuật Việt Nam, hàm
lượng bicarbonat tương đối cao (1800 mg/l) phù hợp để nuôi thu sinh khối tảo S.
platensis.
- Sau khi khảo sát sự sinh trưởng của 5 chủng tảo S. Platensis khi nuôi trồng
trong nguồn nước khoáng Kim Bôi, chúng tôi đã tuyển chọn được chủng T48 có khả
năng thích nghi rộng trong khoảng nhiệt độ 24-32oC, khả năng sinh trưởng nhanh và ổn
định từ 13-15 ngày cho khối lượng sinh khối lớn khi mật độ tảo ban đầu có OD445 nm là
0,603. Tảo nuôi trong điều kiện phòng thí nghiệm thu được có hàm lượng protein
cao đạt 69,53% khối lượng khô, hàm lượng các kim loại nặng thấp nằm trong giới
hạn cho phép theo tiêu chuẩn Việt Nam để sử dụng làm thực phẩm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dương Đức Tiến, Phân loại vi khuẩn lam Việt Nam, NXB Nông nghiệp, 1996.
2. Trần Phương Hà, Vũ Thị Thanh Tâm, Nghiên cứu tận dụng nguồn nước suối
khoáng tại Thừa Thiên Huế để sản xuất Spirulina làm thực phẩm chức năng,
Báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu khoa học, Viện Hàn lâm Khoa học và Công
nghệ Việt Nam, 2017.
Thông tin khoa học công nghệ
Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 18, 07/2019 98
3. Baldia, S.F., Nishijima, T., Hata, Y., Effects of physico-chemical factors and
nutrients on the growth of Spirulina platensis isolated form lake
Kojima,Japan, Nippon Suisan Gakkaishi, 1991, 57(3):481-490.
4. Hu Q., Industrial Production of Microalgal Cell-mas and Secondyry Products
-Major Industrial Species, Handbook of microalgal culture: biotechnology and
applied phycology, 2004, pp.264-272.
5. Nguyễn Thị Bích Ngọc, Nghiên cứu sử dụng nguồn nước khoáng để xây dựng
quy trình sản xuất tảo đảm bảo chất lượng làm nguyên liệu chế biến thức ăn
cho người và động vật nuôi thủy sản, Báo cáo kết quả KHCN, 2010.
6. Đặng Đình Kim, Giáo trình kỹ thuật nhân giống và nuôi sinh khối sinh vật phù
du, NXB Nông nghiệp, 2002.
7. Nguyễn Hữu Thước, Nguyễn Tiến Cư, Đặng Hoàng Phước Hiền, Đặng Đình
Kim, Thực Nghiệm nuôi trồng liên tục tảo Spirulina platensis ở tỉnh Thuận
Hải, Tạp chí Sinh vật học 2, 1980, tr.12-14.
8. Mustafa Tüzen, “Determination of heavy metals in soil, mushroom and plant
samples by atomic absorption spectrometry”, Microchemical Journal, 2003,
74(3):289-297
9. Payer H.D., Chiemvichak Y., Hosakul K., Kong-Panichkul C., Kraidej L.,
Nguitragul M., Reungmanipytoon S., Bủi P., “Temperature as an 41
important Borowitzka climactic factor duringmass production of microscopic
algae”, Algae biomass. G. Shelef and C.J.Soeder (Eds). Elsevier/North-
Holland Biomedical press, New York, 1980, pp. 389-399.
10. Godia, Culture of Spirulina platensis in human urine for biomass production
and O2 evolution, Journal of Zhejiang University Science, 2002, Nov 13;
99(3):319-30.
11. Cheunbarn. S., Peerapornpisal Y., Cultivation of Spirulina platensis using
anaerobically swine wastewater treatment effluent, International Journal of
Agriculture & Biology, 2010, 12(4):586-590.
12. Quyết định số 46/2007/QĐ-BYT của Bộ Y tế ngày 19/12/2007 về việc ban
hành “Quy định giới hạn tối đa ô nhiễm sinh học và hóa học trong thực phẩm”.
Nhận bài ngày 18 tháng 02 năm 2019
Phản biện xong ngày 06 tháng 5 năm 2019
Hoàn thiện ngày 19 tháng 5 năm 2019
(1) Viện Y sinh Nhiệt đới, Trung tâm Nhiệt đới Việt - Nga
(2) Viện Công nghệ Môi trường, Viện HLKH&CN Việt Nam
Các file đính kèm theo tài liệu này:
danh_gia_su_sinh_truong_cua_tao_lam_spirulina_platensis_nuoi.pdf