KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
Cả hai loài nhện bắt mồi N. longispinosus và
N. californicus đều có sức ăn tất cả các pha nhện
đỏ hai chấm lớn nhất ở pha trưởng thành cái, tiếp
theo là pha nhện bắt mồi tuổi 3 và trưởng thành
đực, sức ăn thấp nhất ở pha nhện bắt mồi tuổi 2.
Pha trứng và nhện tuổi 1 của nhện đỏ hai
chấm bị cả hai loài nhện bắt mồi ăn nhiều nhất,
tiếp theo là nhện tuổi 2, tuổi 3 và thấp nhất ở pha
trưởng thành cái.
Sức ăn của hai loài nhện bắt mồi
N. longispinosus và N. californicus với hầu hết
các pha của nhện đỏ hai chấm không khác nhau
một cách rõ rệt.
Kết quả của nghiên cứu này cho thấy loài
nhện bắt mồi bản địa N. longispinosus có sức ăn
không hề thua kém loài nhện bắt mồi
N. californicus hiện đang được thương mại hóa
rộng rãi trên thế giới, chứng tỏ tiềm năng sử
dụng loài nhện bắt mồi này. Tuy nhiên các
nghiên cứu về phương pháp nhân nuôi hàng loạt
loài nhện bắt mồi này cần được tiếp tục tiến hành
để có thể thương mại hóa loài nhện bắt mồi này
trong tương lai.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 2 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá sức ăn của hai loài nhện bắt mồi (Acari: Phytoseiidae) với nhện đỏ hai chấm Tetranychus Urticae, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kết quả nghiên cứu Khoa học BVTV – Số 3/2019
3
ĐÁNH GIÁ SỨC ĂN CỦA HAI LOÀI NHỆN BẮT MỒI (Acari: Phytoseiidae)
VỚI NHỆN ĐỎ HAI CHẤM Tetranychus urticae
Evaluation Predation Capacity of two Predatory Mites
(Acari: Phytoseiidae) Fed on two Spotted Mite Tetranychus urticae
Nguyễn Đức Tùng
Bộ môn Côn trùng, Học vi n Nông nghi p Vi t N m
Ngày nhận bài: 06.05.2019 Ngày chấp nhận: 05/6/2019
Abstract
Neoseiulus longispinosus Evans is a native predatory mite of Vietnam. Neoseiulus californicus (McGregor) is
a commercial predatory mite. Both predators are using to control spider mite Tetranychus urticae. In current
study, the predation capacity of both predatory mites on all stages of spider mite T. urticae were investigated. The
result shows that the predation capacity of adult females of both predatory mites were highest, followed by
deutonymph and adult male and were lowest with protonymph. Eggs and larva of the spider mite were the highest
predation by both of predatory mites. Predation capacities of N. longispinosus and N. californicus were not
significant diffirence when they fed on most stages of the spider mite.
Keywords: Neoseiulus longispinosus Evans, Neoseiulus californicus (McGregor), Tetranychus urticae Koch
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhện bắt mồi Neoseiulus longispinosus
Evans (Acari: Phytoseiidae) được xác định là loài
thiên địch quan trọng của nhện đỏ trên nhiều loại
cây trồng tại Việt Nam như trên đậu đỗ (Nguyễn
Đức Tùng, 2009), bông (Mai Văn Hào, 2010), các
loại rau ăn quả (bầu, bí, dưa, cà) (Nguyễn Thị
Phương Thảo và Nguyễn Thị Hồng Vân, 2013)
hay trên cây có múi, chè (Lương Thị Huyền và
cs. 2016). Nhện bắt mồi Neoseiulus californicus
(McGregor) (Acari: Phytoseiidae) là một loài nhện
bắt mồi nhện đỏ hiện đang được thương mại
rộng rãi trên thế giới (Knapp et al. 2017). Sức ăn
là một chỉ tiêu quan trọng trong đánh giá tiềm
năng cũng như so sánh giữa các loài nhện bắt
mồi. Nhằm xác định tiềm năng sử dụng nhện bắt
mồi N. longispinosus, một loài bản địa của Việt
Nam so với loài N. californicus, trong nghiên cứu
này sức ăn của nhện non tuổi 2, tuổi 3, trưởng
thành đực và trưởng thành cái của hai loài nhện
bắt mồi với tất cả các pha nhện đỏ hai chấm
Tetranychus urticae Koch (Acari: Tetranichidae)
trứng, nhện non tuổi 1, 2, 3 và trưởng thành cái
được tiến hành nghiên cứu.
2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Vật liệu nghiên cứu
- Nhện đỏ hai chấm Tetranychus urticae và
nhện bắt mồi N. longispinosus thu trên đậu cô ve
tại Cổ Bi, Gia Lâm, Hà Nội.
- Nhện N. californicus được cung cấp bởi
công ty Koppert, Hà Lan.
2.2 Phƣơng pháp nuôi nguồn nhện đỏ và
nhện bắt mồi
2.2.1.Phương pháp nuôi nguồn nh n đỏ
Nhện đỏ T. urticae sau khi thu ngoài ruộng
được soi dưới kính hiển vi soi nổi và chuyển lên
cây đậu cô ve lùn sạch để nhân nguồn. Bốn chậu
đậu, mỗi chậu trồng 4 cây đậu đã được nhiễm
nhện được chuyển vào trong lồng lưới mịn kích
thước 40x40x60 cm và đặt trên một khay nước
để cách ly. Khi nhện đỏ phát triển kín tất cả các
lá, các lá sẽ được ngắt khỏi cây và chuyển lên
các cây đậu sạch mới. Để có nguồn nhện đỏ
đồng đều về độ tuổi, nhện trưởng thành nhện đỏ
được chuyển sang các đĩa lá sạch. Đĩa lá được
làm bằng cách đặt ngửa lá đậu cô ve sạch trên
một tấm mút mỏng 1 cm và đặt trong hộp nhựa
kích thước 17 x 12 x 7cm có chứa nước cao 1
cm. Các cạnh của lá được phủ bởi các băng giấy
ăn nhằm ngăn nhện đỏ chạy trốn. Hàng ngày
chuyển nhện trưởng thành cái sang các đĩa lá
mới, trứng đẻ trên đĩa lá cũ được tiếp tục nuôi để
thu được nhện đỏ đồng đều về tuổi nhằm cung
cấp cho thí nghiệm thử thức ăn.
2.2.2. Phương pháp nuôi nguồn nh n bắt mồi
Nhện bắt mồi được nuôi tại nhiệt độ phòng
trên đĩa lá đậu cô ve. Đĩa lá được làm tương tự
như đã mô tả ở trên. Hai ngày một lần, một
Kết quả nghiên cứu Khoa học BVTV – Số 3/2019
4
miếng lá với đầy nhện đỏ được lấy từ nguồn
nhện đỏ và cho vào đĩa lá, đồng thời trứng nhện
bắt mồi được thu và chuyển sang đĩa lá mới
nhằm có được các đợt nhện bắt mồi đồng đều về
độ tuổi. Trong trường hợp đĩa lá bị hỏng, dùng
máy hút chuyển nhện bắt mồi sang đĩa lá mới với
thức ăn là nhện đỏ.
2.3 Phƣơng pháp nghiên cứu sức ăn nhện
bắt mồi
Thí nghiệm thử sức ăn được tiến hành trên
đĩa lá với các pha nhện bắt mồi tuổi 2, 3, trưởng
thành đực và trưởng thành cái (3 ngày tuổi và đã
giao phối), mỗi pha nhện bắt mồi được thử sức
ăn trên tất cả các pha nhện đỏ gồm trứng, nhện
non tuổi 1, 2, 3, trưởng thành đực và cái 1 ngày
tuổi. Trong các thử nghiệm tiền thí nghiệm, nhện
bắt mồi tuổi 1 không thấy ăn hoặc ăn rất ít vẫn có
thể chuyển sang tuổi 2 chính vì vậy trong nghiên
cứu này, nhện bắt mồi tuổi 1 không được tiến
hành thử sức ăn. Đĩa lá được làm bằng cách đặt
ngửa miếng lá đậu cô ve sạch hình vuông 4x4
cm trên miếng mút ẩm kích thước 5x5x1 cm và
đặt trong khay nhựa vuông kích thước 9x9x3 cm
có chứa nước, dùng các dải giấy ăn viền xung
quanh miếng lá để cung cấp nước cho nhện bắt
mồi và hạn chế chúng chạy ra ngoài. Nhện bắt
mồi tuổi 2, tuổi 3, trưởng thành đực, trưởng
thành cái được cho nhịn đói trong 24 giờ trong
các tuýp nhựa dài 7,5 cm đường kính 1 cm, sau
đó từng cá thể được chuyển sang các đĩa lá có
25 cá thể nhện đỏ tuổi 1, 2, 3, trưởng thành cái
hoặc trứng. Đối với pha trứng nhện đỏ do khó di
chuyển nên trước khi thí nghiệm 24 giờ, 5 nhện
cái trưởng thành được chuyển sang đĩa lá cho
đẻ trứng, trước khi tiến hành thí nghiệm nhện
trưởng thành cái được chuyển ra ngoài, đồng
thời loại bỏ bớt số lượng trứng dư thừa chỉ để lại
25 trứng/đĩa lá. Sau 24 giờ, đếm số lượng trứng
hoặc nhện vật mồi tuổi 1, 2, 3 hoặc nhện trưởng
thành cái còn lại để xác định sức ăn của mỗi pha
nhện bắt mồi. Mỗi thí nghiệm thử sức ăn của một
pha nhện bắt mồi với một pha nhện vật mồi được
tiến hành nhắc lại 15 lần. Thí nghiệm được tiến
hành tại nhiệt độ 29°C và ẩm độ 80%.
2.4 Phƣơng pháp xử lý số liệu
Tất cả số liệu được xử lý thống kê trên excel
và phần mềm SPSS phiên bản 20. Số liệu được
kiểm tra phân bố chuẩn dựa trên kiểm định
Kolmogorov–Smirnov. Khi số liệu không phải
phân bố chuẩn kiểm định Kruskal Wallis được
dùng để xác định sự sai khác giữa các pha vật
mồi và giữa hai loài nhện bắt mồi. Nếu sự sai
khác là rõ rệt, kiểm định Mann-Whitney U sẽ
được tiếp tục tiến hành để xác định chính xác sai
khác giữa mỗi cặp pha vật mồi. Trong trường
hợp phân bố chuẩn, kiểm định One Way ANOVA
được sử dụng. Trong tất cả các kiểm định giá trị
P nhỏ hơn hoặc bằng 0,05 chứng tỏ sai khác có
ý nghĩa.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Sức ăn là một trong những chỉ tiêu quan trọng
đề đánh giá tiềm năng một loài nhện bắt mồi.
Chính vì vậy trong thí nghiệm đầu tiên, các pha
nhện bắt mồi N. longispinosus được cho ăn tất
cả các pha của nhện đỏ hai chấm, kết quả được
trình bày trong bảng 1.
Bảng 1. Sức ăn của các pha nhện bắt mồi N. longispinosus trên các pha
nhện đỏ hai chấm T. urticae
Pha nhện bắt mồi n
Sức ăn các pha nhện đỏ TB±SE (trứng hoặc con/ngày)
Trứng
Nhện non
tuổi 1
Nhện non
tuổi 2
Nhện non
tuổi 3
Trưởng
thành cái
Nhện non tuổi 2 15 4,73±0,44a 4,87±0,39a 3,80±0,24a 1,40±0,13a 0,53±0,13a
Nhện non tuổi 3 15 7,67±0,66b 7,93±0,56b 5,87±0,31b 3,53±0,26b 0,87±0,13ab
Trưởng thành đực 15 7,80±0,44b 7,93±0,38b 6,00±0,31b 3,87±0,24b 1,00±0,14b
Trưởng thành cái 15 17,33±0,67c 16,47±0,49c 11,00±0,45c 7,93±0,25c 1,53±0,17c
F/ χ
2
95,030 116,712 83,524 49,679 18,180
df 3 3 3 3 3
P <0,001 <0,001 <0,001 <0,001 <0,001
Ghi ch : n là số cá thể theo dõi; Các chữ giống nh u trong cùng một hàng dọc biểu diễn sự s i
khác không rõ r t ở mức P> 0,05 với kiểm định One-W y ANOVA, kiểm định M nn-Whitney Test; F-,
df-, và P- là giá trị củ kiểm định One-Way ANOVA cho mẫu phân bố chuẩn; χ
2
-, df- và P- là giá trị củ
kiểm Kruskal Wallis cho mẫu phân bố không chuẩn.
Kết quả nghiên cứu Khoa học BVTV – Số 3/2019
5
Qua bảng 1 cho thấy, sức ăn của trưởng thành
cái của nhện bắt mồi N. longispinosus trên tất cả
các pha của nhện đỏ là cao nhất với các giá trị
trung bình khi ăn trên các pha trứng, tuổi 1, tuổi 2,
tuổi 3, trưởng thành cái của nhện đỏ lần lượt là:
17,33 (trứng/ngày); 16,47; 11,00; 7,93 và 1,53
(con/ngày). Nhện bắt mồi tuổi 3 và nhện trưởng
thành đực có sức ăn các pha nhện đỏ T. urticae
không khác nhau một cách rõ rệt. Nhện bắt mồi
tuổi 2 có sức ăn thấp nhất khi ăn trứng, nhện non
tuổi 1, 2 và 3 của nhện đỏ hai chấm lần lượt là
4,73 trứng/ngày; 4,87; 3,80 và 1,40 con/ngày. Tuy
nhiên sức ăn trưởng thành cái nhện đỏ của nhện
bắt mồi tuổi 2 và 3 không khác nhau rõ rệt lần lượt
là 0,53 và 0,87 con/ngày. Trong các pha nhện đỏ
hai chấm, trứng và nhện non tuổi 1 bị nhện bắt
mồi ăn nhiều nhất, tiếp theo là nhện non tuổi 2 và
tuổi 3, ít nhất là trưởng thành cái.
Sức ăn của trưởng thành cái nhện bắt mồi
N. longispinosus trong nghiên cứu này 17,33
(trứng/ngày); 16,47 nhện tuổi 1; 11,00 nhện tuổi
2 hoặc 7,93 nhện tuổi 3 trong 1 ngày cao hơn so
với công bố của Song et al. (2016) khi báo cáo
sức ăn của nhện bắt mồi N. longispinosus ăn
trứng là 13,25 quả/ngày và ăn nhện non tuổi 1
hoặc tuổi 2-3 lần lượt là 9,81 và 8,69 con/ngày.
Bảng 2. Sức ăn của các pha nhện bắt mồi N. californicus trên các pha
nhện đỏ hai chấm T. urticae
Pha nhện bắt mồi n
Sức ăn các pha nhện đỏ TB±SE (trứng hoặc con/ngày)
Trứng
Nhện non
tuổi 1
Nhện non
tuổi 2
Nhện non
tuổi 3
Trưởng
thành cái
Nhện non tuổi 2 15 4,47±0,34a 5,07±0,38a 3,67±0,27a 2,33±0,21a 0,47±0,13a
Nhện non tuổi 3 15 7,07±0,40b 7,60±0,54b 5,73±0,27b 3,87±0,27b 0,87±0,09b
Trưởng thành đực 15 7,20±0,42b 7,60±0,49b 6,00±0,28b 3,73±0,25b 1,00±0,10b
Trưởng thành cái 15 16,07±0,73c 16,27±0,69c 10,93±0,41c 6,60±0,31c 1,60±0,19c
F/ χ
2
104,805 83,773 98,249 40,961 23,906
df 3 3 3 3 3
P <0,001 <0,001 <0,001 <0,001 <0,001
Ghi ch : n là số cá thể theo dõi; Các chữ giống nh u trong cùng một hàng dọc biểu diễn sự s i
khác không rõ r t ở mức P> 0,05 với kiểm định One-W y ANOVA, kiểm định M nn-Whitney Test; F-,
df-, và P- là giá trị củ kiểm định One-Way ANOVA cho mẫu phân bố chuẩn; χ
2
-, df- và P- là giá trị củ
kiểm Kruskal Wallis cho mẫu phân bố không chuẩn.
Bảng 2 cho thấy, trưởng thành cái nhện bắt
mồi N. californicus có sức ăn cao nhất khi ăn tất
cả các pha của nhện đỏ hai chấm lần lượt 16,07
trứng/ngày; 16,27 nhện tuổi 1; 10,93 nhện tuổi
2; 6,60 nhện tuổi 3 và 1,60 nhện trưởng thành
cái bị ăn trong 24 giờ. Sức ăn của nhện bắt mồi
tuổi 3 và trưởng thành đực đối với tất cả các
pha nhện đỏ hai chấm đều khác nhau không rõ
rệt. Sức ăn thấp nhất là nhện bắt mồi tuổi 2 với
4,47 trứng/ngày và nhện non tuổi 1, 2, 3 và
trưởng thành cái lần lượt là 5,07; 3,67; 2,33 và
0,47 con/ngày.
Qua hình 1 có thể thấy sức ăn của gần như
tất cả các pha phát dục nhện bắt mồi N.
longispinosus và N. californicus không có sự
khác nhau rõ rệt khi ăn các pha trứng, nhện non
tuổi 1, nhện non tuổi 2 và trưởng thành cái của
nhện đỏ hai chấm. Sự khác biệt rõ rệt chỉ thấy ở
nhện bắt mồi tuổi 2 và nhện cái trưởng thành
khi ăn nhện đỏ hai chấm tuổi 3. Nhện bắt mồi
tuổi 2 loài N. californicus ăn nhiều nhện non tuổi
3 của nhện đỏ T. urticae hơn so với loài
N. longispinosus (U= 42,000; Z= -3,143;
P=0,002), ngược lại sức ăn của loài
N. longispinosus ăn nhện non tuổi 3 của nhện
đỏ lớn hơn loài N. californicus với các giá trị
trung bình lần lượt là: 7,93 và 6,60 (con/ngày)
(U= 44,500; Z= -2,897; P=0,004).
Sức ăn của nhện trưởng thành cái của cả
hai loài N. longispinosus và N. californicus
với pha trưởng thành cái nhện đỏ hai chấm
T. urticae trong nghiên cứu này lần lượt là
1,53 và 1,60 con/ngày thấp hơn so với báo
cáo của Lương Thị Huyền (2017) với sức ăn
của hai loài nhện với trưởng thành nhện đỏ
hai chấm là 2,22 và 2,71 con/ngày. Tuy nhiên
sức ăn trứng của cả hai loài trong nghiên
cứu này (17,33 trứng /ngày với
N. longispinosus và 16,07 trứng/ngày với
N. californicus) cao hơn so với báo cáo của
Lương Thị Huyền (2017) (tương ứng với hai
loài nhện bắt mồi là 12,52 và 14,02
Kết quả nghiên cứu Khoa học BVTV – Số 3/2019
6
quả/ngày). Sự khác biệt này có thể do điều
kiện thí nghiệm ở hai mức nhiệt độ khác
nhau (29
o
C ở nghiên cứu này và 27,5
o
C ở
thí nghiệm của Lương Thị Huyền (2017)).
Hình 1. Sức ăn của các pha nhện bắt mồi N. longispinosus và N. californicus
ăn các pha nhện đỏ hai chấm T. urticae
Ghi ch : “*” biểu diễn sự s i khác rõ r t giữ h i loài nh n bắt mồi khi ăn cùng một pha
nh n đỏ ở mức P≤ 0,05
Sức ăn của cả hai loài nhện bắt mồi đối với
nhện trưởng thành cái nhện đỏ hai chấm đều
thấp nhất so với các pha vật mồi khác. Kết quả
này có thể do nhện đỏ trưởng thành với nhiều
lông dài trên cơ thể hơn so với nhện non đã
khiến cho việc tiếp cận con mồi của nhện bắt mồi
gặp trở ngại dẫn đến số lượng nhện trưởng
thành cái bị ăn thấp hơn hẳn so với các pha
khác. Điều này đã được chứng minh bởi Yano và
Shirotsuka (2013) khi báo cáo các lông trên cơ
thể nhện đỏ cam chanh Panonychus citri dài và
hướng về các phía đã cản trở nhện bắt mồi tiếp
xúc với chúng.
4. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
Cả hai loài nhện bắt mồi N. longispinosus và
N. californicus đều có sức ăn tất cả các pha nhện
đỏ hai chấm lớn nhất ở pha trưởng thành cái, tiếp
theo là pha nhện bắt mồi tuổi 3 và trưởng thành
đực, sức ăn thấp nhất ở pha nhện bắt mồi tuổi 2.
Pha trứng và nhện tuổi 1 của nhện đỏ hai
chấm bị cả hai loài nhện bắt mồi ăn nhiều nhất,
tiếp theo là nhện tuổi 2, tuổi 3 và thấp nhất ở pha
trưởng thành cái.
Sức ăn của hai loài nhện bắt mồi
N. longispinosus và N. californicus với hầu hết
các pha của nhện đỏ hai chấm không khác nhau
một cách rõ rệt.
Kết quả của nghiên cứu này cho thấy loài
nhện bắt mồi bản địa N. longispinosus có sức ăn
không hề thua kém loài nhện bắt mồi
N. californicus hiện đang được thương mại hóa
rộng rãi trên thế giới, chứng tỏ tiềm năng sử
dụng loài nhện bắt mồi này. Tuy nhiên các
Kết quả nghiên cứu Khoa học BVTV – Số 3/2019
7
nghiên cứu về phương pháp nhân nuôi hàng loạt
loài nhện bắt mồi này cần được tiếp tục tiến hành
để có thể thương mại hóa loài nhện bắt mồi này
trong tương lai.
Lời cảm ơn
Chúng tôi chân thành cảm ơn Quỹ Phát triển
khoa học và công nghệ Quốc gia (NAFOSTED)
đã tài trợ cho nghiên cứu này thông qua đề tài
mã số FWO.106-NN.2015.01. Chúng tôi xin gửi
lời cảm ơn tới sinh viên Trần Ngọc Liên lớp
K58BVTVA Học viện Nông nghiệp Việt Nam đã
hỗ trợ cho nghiên cứu này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Knapp, M., Van Houten, Y., Van Baal, E. and
Groot, T., 2017. Use of predatory mites in commercial
biocontrol: current status and future prospects.
Acarologia, 58(Suppl), pp.72-82.
2. Lương Thị Huyền, Nguyễn Thu Thuận, Nguyễn
Thị Tuyết Nhung, Cao Văn Chí, Nguyễn Văn Đĩnh,
2016. Vòng đời và tỷ lệ tăng tự nhiên của loài nhện
nhỏ bắt mồi Neoseiulus longispinosus Evans (Acari:
Phytoseiidae) trên các loại thức ăn. Tạp chí KH Nông
nghiệp Việt Nam 2016, tập 14, số 9:1323-1330
3. Lương Thị Huyền, 2017. Ảnh hưởng của nhiệt
độ, ẩm độ và thức ăn đến sự gia tăng quần thể của
nhện bắt mồi Neoseiulus longispinosus Evans và khả
năng sử dụng chúng trong phòng chống sinh học nhện
đỏ cam chanh Panonychus citri McGregor (Acari:
Tetranychidae). Luận án Tiến sĩ Nông nghiệp, Học
viện Nông nghiệp Việt Nam.
4. Mai Văn Hào, 2010. Nghiên cứu biện pháp
quản lý tổng hợp nhện đỏ hai chấm Tetranychus
urticae Koch hại bông vụ đông xuân tại Nam Trung Bộ.
Luận án Tiến sĩ Nông nghiệp, Trường Đại học Nông
nghiệp Hà Nội.
5. Nguyễn Đức Tùng, 2009. Nghiên cứu đặc
điểm sinh vật học và khả năng khống chế nhện hai
chấm Tetranychus urticae Koch (Acari:
Tetranychidae) của nhện bắt mồi Neoseiulus
longispinosus (Evans) (Acari: Phytoseiidae). Hội
nghị khoa học toàn quốc về sinh học và tài nguyên
sinh vật lần thứ 3, tháng 10-2009. NXB Nông
nghiệp, Hà Nội. tr. 1745-1750.
6. Nguyễn Thị Phương Thảo và Nguyễn Thị Hồng
Vân, 2013. Ảnh hưởng của các ngưỡng nhiệt độ lên đặc
điểm sinh học và bảng sống của loài bét bắt mồi
Amblyseius longispinosus (Acari: Phytoseiidae). Tạp chí
Sinh học. 35 (2). tr. 169-177.
7. Song Z.W, B.X. Zhang and D.S. Li, 2016. Prey
Consumption and Functional Response of Neoseiulus
californicus and Neoseiulus longispinosus (Acari:
Phytoseiidae) on Tetranychus urticae and Tetranychus
kanzawai (Acari: Phytoseiidae). Systematic & Applied
Acarology. 21 (7). pp. 936-946 (2016).
8. Yano, S. and Shirotsuka, K., 2013. Lying down
with protective setae as an alternative antipredator
defence in a non-webbing spider mite. SpringerPlus,
2(1), p.637.
Phản biện: TS. Nguyễn Thị Nhung
MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI VÀ SINH HỌC CỦA RỆP SÁP GIẢ ĐU ĐỦ
Paracoccus marginatus (Hemiptera: Pseudococcidae) GÂY HẠI TRÊN CÂY SẮN
Morphological and Biological Characteristics of Papaya Mealybug,
Paracoccus marginatus Williams and Granara de Willink
(Hemiptera: Pseudococcidae) on Cassava
Phạm Huỳnh Đông Anh và Lê Khắc Hoàng
Đại học Nông lâm thành phố Hồ Chí Minh
Ngày nhận bài: 29.03.2019 Ngày chấp nhận: 29.05.2019
Abstract
Viet Nam is the second largest exporter of cassava products in the world. Currently, insect pests have affected
the productivity and quality of cassava, which has severely damaged the economy. In that, the papaya mealybugs
(Paracoccus marginatus) usually present and damage on cassava in Viet Nam, but research and documentation
of this pest are limited. The morphology and biology of P. marginatus on cassava were investigated. The
observation shown that, P. marginatus females passed through three instars (first, second and third instar). Males
passed through two instars (first, second instar), prepupal stage and pupal stages. The adult female has no
Các file đính kèm theo tài liệu này:
danh_gia_suc_an_cua_hai_loai_nhen_bat_moi_acari_phytoseiidae.pdf