Đánh giá sức tải trong hoạt động du lịch - Sự cần thiết cho quy hoạch và quản lí phát triển du lịch biển
Đánh giá sức tải trong hoạt động du
lịch là một hướng nghiên cứu không mới
trên thế giới. Tuy nhiên, ở nước ta công
việc này chưa được coi trọng, nhất là
trong công tác đánh giá tác động môi
trường cho các dự án phát triển du lịch,
trong công tác quy hoạch các dự án du
lịch vùng biển đảo.
Mặt khác, việc đánh giá sức tải
cũng còn nhiều hạn chế như là chúng ta
chỉ tính toán sức tải cho từng loại hoạt
động du lịch tại một khu vực nào đó chứ
chưa có một công thức nào dùng để tính
toán sức tải cho nhiều dạng hoạt động du
lịch diễn ra cùng lúc. Thật khó có thể áp
dụng tất cả những tiêu chuẩn về sức tải
trên thế giới cho các vùng du lịch ven
biển ở Việt Nam vì tính chất, đặc trưng
của mỗi nơi khác nhau. Tuy nhiên, những
tiêu chuẩn nêu ra trên đây có thể giúp các
nhà quy hoạch và quản lí du lịch sử dụng
để đánh giá được sức tải du lịch trong
quá trình khai thác và phát triển du lịch
biển, đảo.
8 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 651 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá sức tải trong hoạt động du lịch - Sự cần thiết cho quy hoạch và quản lí phát triển du lịch biển, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 38 năm 2012
_____________________________________________________________________________________________________________
ĐÁNH GIÁ SỨC TẢI TRONG HOẠT ĐỘNG DU LỊCH
- SỰ CẦN THIẾT CHO QUY HOẠCH VÀ QUẢN LÍ
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BIỂN
NGUYỄN VĂN HOÀNG*
TÓM TẮT
Trong những năm gần đây, số lượng các khu nghỉ dưỡng và số lượng du khách
không ngừng gia tăng tại các vùng ven biển ở nước ta. Sự gia tăng này kéo theo nhiều tác
động tiêu cực đến môi trường, kinh tế - xã hội. Vì vậy cần phải có phương pháp đánh giá
sức tải trong hoạt động du lịch, giúp các nhà quy hoạch và quản lí du lịch có thể xác định
được khả năng tải phù hợp của các khu du lịch biển nhằm hạn chế những tác động tiêu cực
mà hoạt động du lịch mang lại.
Từ khóa: du lịch biển, quy hoạch du lịch, đánh giá sức tải.
ABSTRACT
Tourism carrying capacity assessment – a need to plan
and manage coastal tourism development
In recent years, the number of resorts and tourists has been highly increasing in
coastal tourism areas. This increase causes many adverse social and environmental
impacts. This article introduces some tourism carrying capacity assessment methods based
on formulation and criteria. Tourism planners and managers can assess appropriately
capacity in coastal touristic areas to reduce adverse impacts.
Keywords: coastal tourism, tourism planning, carrying capacity assessment.
1. Đặt vấn đề
Sau chiến tranh thế giới lần thứ II,
du lịch trên phạm vi toàn cầu đã phát
triển nhanh với tốc độ bình quân về
khách 6,93%/năm, về thu nhập
11,8%/năm và trở thành một trong những
ngành kinh tế hàng đầu trong nền kinh tế
thế giới [3]. Theo số liệu của Tổ chức Du
lịch Thế giới (UNWTO), năm 2010
khách du lịch quốc tế trên toàn thế giới
đạt 935 triệu lượt người, tăng 58 triệu
lượt người so với năm 2009 và tăng 22
triệu lượt người so với năm 2008.
Châu Á – Thái Bình Dương là khu
vực tăng trưởng mạnh nhất trong năm
* ThS, Trường Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn, ĐHQG TPHCM
2010. Số lượng khách quốc tế đến khu
vực này đạt 204 triệu lượt khách, cao hơn
con số 181 triệu của năm 2009, riêng khu
vực Đông Nam Á đạt gần 70 triệu lượt
khách quốc tế. Ở Việt Nam, du lịch được
xem là một trong những ngành kinh tế
quan trọng, số lượt khách du lịch quốc tế
đến Việt Nam cũng không ngừng tăng từ
3,7 triệu lượt khách năm 2009 lên 5 triệu
lượt khách năm 2010 và đạt 6 triệu lượt
khách năm 2011.
Những số liệu thống kê cho thấy
rằng du lịch trên thế giới nói chung và
Việt Nam nói riêng không ngừng tăng
trưởng và phát triển. Trong số các loại
hình du lịch đáp ứng nhu cầu của du
khách hiện nay không thể không nói đến
76
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Nguyễn Văn Hoàng
_____________________________________________________________________________________________________________
loại hình du lịch biển. Du lịch biển đã
phát triển mạnh mẽ ở các nước thuộc
vùng biển Địa Trung Hải, vùng biển
Caribe và một số nước trong khu vực
Châu Á – Thái Bình Dương. Riêng Việt
Nam, với bờ biển dài 3260km, có khoảng
125 bãi tắm lớn nhỏ, trong đó có nhiều
bãi tắm đẹp đã và đang được khai thác
phục vụ cho hoạt động du lịch.
Trong những năm qua, Việt Nam đã
thu hút nhiều dự án đầu tư vào hoạt động
du lịch biển, kết quả là có rất nhiều khu
resort (khu nghỉ mát) được xây dựng suốt
dọc chiều dài đường bờ biển, tiêu biểu là
các khu resort ở Mũi Né (Bình Thuận),
Hội An (Quảng Nam), Phú Quốc (Kiên
Giang) Bên cạnh những lợi ích có thể
đóng góp vào nền kinh tế địa phương,
cũng có những thách thức về môi trường
tự nhiên và xã hội cần được xem xét, như:
- Các tác động ngắn hạn liên quan
đến các giai đoạn phát triển của điểm du
lịch: san ủi mặt bằng, xây dựng cơ sở hạ
tầng, biến đổi cảnh quan, ô nhiễm tiếng
ồn, ô nhiễm không khí
- Các tác động dài hạn liên quan đến
hoạt động của điểm du lịch: xả thải, ô
nhiễm nguồn nước, biến đổi sử dụng đất,
suy thoái cảnh quan do khai thác quá
mức, quá tải tại các điểm du lịch
Nhằm hạn chế những tác động tiêu
cực mà hoạt động du lịch có thể mang lại,
chúng tôi cho rằng cần phải đánh giá sức
tải trong hoạt động du lịch biển cho công
tác quy hoạch và quản lí hoạt động du lịch.
2. Đánh giá sức tải trong hoạt động
du lịch
Đánh giá sức tải trong hoạt động du
lịch biển sẽ giúp các nhà quy hoạch, quản
lí du lịch có tầm nhìn chiến lược để từng
bước thực hiện mục tiêu phát triển du lịch
bền vững cho vùng ven biển.
2.1. Sức tải và công thức đánh giá sức
tải trong hoạt động du lịch
2.1.1. Khái niệm
Năm 1981, Tổ chức du lịch thế giới
đã đưa ra khái niệm sức tải trong hoạt
động du lịch như sau:
“Sức tải trong hoạt động du lịch là
số lượng du khách cực đại có thể tham
quan một điểm du lịch cùng một thời gian
mà không phải là nguyên nhân phá hủy
đến môi trường sinh thái, đồng thời
không làm giảm đi chất lượng của môi
trường ảnh hưởng đến sự hài lòng của du
khách” [6].
Khái niệm sức tải trong hoạt động
du lịch là một khái niệm rộng và được
hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau:
- Ở góc độ vật lí – sức tải vật lí: Là
giới hạn tuyệt đối về mặt khách du lịch
tại một vùng mà nơi đó có thể chịu đựng
được. Sức tải vật lí thường được quan
tâm đến khả năng cung cấp điện, cung
cấp nước, hệ thống xử lí chất thải, mạng
lưới giao thông vận tải, thông tin liên
lạc của nơi đón tiếp khách du lịch.
- Ở góc độ xã hội – sức tải xã hội: Là
giới hạn về lượng du khách mà tại đó bắt
đầu xuất hiện những tác động tiêu cực từ
hoạt động du lịch đến đời sống văn hóa –
xã hội của khu vực, cuộc sống bình
thường của cộng đồng địa phương có
cảm giác bị phá vỡ, bị xâm nhập.
- Ở góc độ môi trường – sức tải môi
trường: Là số lượng cực đại khách du
lịch tại một vùng có thể tiếp nhận mà hệ
sinh thái môi trường không bị ảnh hưởng.
2.1.2. Công thức đánh giá sức tải
77
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 38 năm 2012
_____________________________________________________________________________________________________________
- Công thức tính toán sức tải tiềm năng (PCC) theo Boullón [4]:
Tổng lượng khách đến hàng ngày = Sức tải x hệ số luân chuyển
- Công thức tính toán sức tải thực
(RCC) theo Ceballos – Lascuráin [4]:
1 2 100100 100
100 100 100
nCfCf CfRCC PCCx x x −− −=
Trong đó:
PCC : Sức tải tiềm năng
Cf : Hệ số hiệu chỉnh
Hệ số hiệu chỉnh được biểu diễn
dưới dạng % và được tính theo công
thức:
1 100
t
MCf x
M
=
Trong đó:
M1 : Cường độ giới hạn của biến số
Mt : Tổng cường độ của biến số
2.2. Đánh giá sức tải trong hoạt động
du lịch ở một số nước và các tổ chức
quốc tế
Đánh giá sức tải trong hoạt động du
lịch biển đã được một số tổ chức thực
hiện như: Tổ chức Du lịch Thế giới
(UNWTO), Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên
Thế giới (IUCN), Chương trình Môi
trường của Liên Hiệp Quốc (UNEP),
Những chương trình hành động ưu tiên
(PAP). Các nhà nghiên cứu ở một số
trường đại học trên thế giới đã thực hiện
nhiều đề tài liên quan đến lĩnh vực này.
Chúng tôi xin trích dẫn danh mục một số
đề tài có liên quan như sau:
- Indicators of sustainable
development for tourism destinations: A
guidebook: Được WTO biên soạn và phát
hành năm 2004, giới thiệu về những chỉ
số phát triển bền vững tại các nơi đón
tiếp khách du lịch, tại sao phải sử dụng
các chỉ số phát triển du lịch bền vững,
các bước tiến hành thiết lập các chỉ số
phát triển bền vững, áp dụng những chỉ
số này trong quy hoạch và quản lí du
lịch...
- Guidelines for carrying capacity
assessment for tourism in Mediterranean
coastal areas: Do UNEP – PAP biên
soạn năm 1997, giới thiệu khái niệm về
đánh giá sức tải, sự cần thiết phải đánh
giá sức tải trong hoạt động du lịch, những
lợi ích mang lại trong đánh giá sức tải,
phương pháp và những tiêu chuẩn đánh
giá sức tải trong du lịch biển tại vùng
biển Địa Trung Hải
- Defining, measuring and evaluating
carrying capacity in European tourism
destinations: Đề tài này được thực hiện
bởi một nhóm nghiên cứu thuộc đại học
Aegean, Athens, Hi Lạp năm 2001. Nội
Giờ mở cửa (hoặc thời gian hoạt động)
Thời gian tham quan trung bình của một khách
Hệ số luân chuyển =
Tổng diện tích sử dụng cho du lịch
Tiêu chuẩn trung bình cho một du khách
Sức tải =
78
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Nguyễn Văn Hoàng
_____________________________________________________________________________________________________________
dung chủ yếu giới thiệu về phương pháp
đánh giá sức tải và những chỉ số đánh giá
sức tải tại các điểm du lịch ở châu Âu.
- Carrying capacity assessment of
Pulau Payar Marine park, Malaysia –
Bay of Bengal Programme: Do Li Ching
Lim thực hiện năm 1998, giới thiệu về hệ
sinh thái trong khu bảo tồn biển, phương
pháp đánh giá sức tải sinh thái ở rạn san
hô, phương pháp đánh giá sức tải về mặt
xã hội trong khu bảo tồn biển thông qua
bảng hỏi
- Sustainable Coastal tourism
handbook for the Philippines: Do Carsten
M. Huttche, Alan T. White, Ma. Monina
M. Flores thực hiện năm 2002. Đây là sổ
tay hướng dẫn về phát triển du lịch bền
vững vùng ven biển ở Philipines, giới
thiệu về những công cụ quy hoạch du lịch
bền vững, phát triển du lịch sinh thái,
đánh giá tác động môi trường trong hoạt
động du lịch, quản lí môi trường trong
hoạt động du lịch biển
2.3. Đánh giá sức tải trong hoạt động
du lịch ở Việt Nam
Sau khi nghiên cứu những tài liệu,
chúng tôi nhận thấy việc đánh giá sức tải
trong hoạt động du lịch biển rất được thế
giới quan tâm. Ở Việt Nam chưa có nhiều
đề tài nghiên cứu về đánh giá sức tải
trong hoạt động du lịch biển.
Khi nghiên cứu sức tải đối với hoạt
động du lịch biển, đặc biệt là vùng ven
bờ, chúng ta có thể áp dụng mô hình tổng
quát xem xét mối quan hệ không gian
giữa hệ thống lãnh thổ du lịch – môi
trường ven biển – sức tải trong du lịch
(xem hình 1):
Hình 1. Các loại khả năng tải ưu tiên của các đới du lịch ven biển
Nguồn: [2]
Hình 1 cho thấy vùng ven biển
được chia làm 4 khu vực như sau:
- Khu vực 1 – vùng nội địa: Là vùng
nằm sâu trong đất liền, là khu vực cung
cấp dịch vụ và tiện nghi cho du khách
nên các nhà quy hoạch cần chú trọng về
sức tải vật lí trong việc tính toán xây
dựng cơ sở hạ tầng, hệ thống nhà hàng,
79
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 38 năm 2012
_____________________________________________________________________________________________________________
khách sạn sao cho phù hợp với những
tiêu chuẩn cho phép.
- Khu vực 2 – cồn cát (tuy nhiên
không phải vùng biển nào cũng có cồn
cát): Đây là khu vực dành cho lối đi, rừng
phòng hộ, thảm thực vật (nếu có), là khu
vực chuyển tiếp. Các nhà quy hoạch cần
chú trọng về sức tải môi trường ở khu
vực này.
- Khu vực 3 – bãi biển: Là khu vực
dành cho hoạt động nghỉ ngơi và giải trí.
Đây là khu vực không được xây dựng bất
kì công trình nào, các nhà quy hoạch,
quản lí du lịch cần có biện pháp chống
xói mòn đất, xâm thực của sóng biển,
thủy triều. Đặc biệt khu vực này cần chú
trọng đến sức tải về mặt xã hội nhằm hạn
chế những xung đột có thể xảy ra giữa các
đối tượng tham gia vào hoạt động du lịch.
- Khu vực 4 – biển: Là khu dành cho
hoạt động nghỉ ngơi và giải trí, đây cũng
là khu vực không được xây dựng bất kì
công trình nào. Các nhà nghiên cứu cần
chú ý đến sức tải về môi trường ở khu
vực này như chất lượng nước biển: các
chỉ số về nhu cầu ôxi sinh hóa, nhu cầu
ôxi hóa học, tổng chất thải rắn lơ lửng, độ
đục của nước biển...
Tuy nhiên, việc tính toán sức tải
cho vùng ven bờ còn phụ thuộc vào rất
nhiều hoạt động kinh tế - xã hội khác chứ
không riêng gì hoạt động du lịch. Vì vậy,
mô hình này sẽ giúp các nhà quy hoạch
và quản lí phát triển du lịch biển xác định
được chiến lược và quan điểm quy hoạch
cho phù hợp nhất nhằm tránh những sai
lầm có thể dẫn đến những hậu quả khó
khắc phục.
2.4. Một số tiêu chuẩn để tính toán sức tải
Chúng tôi xin giới thiệu một số tiêu
chuẩn có thể áp dụng để tính toán sức tải
trong công tác quy hoạch du lịch ở vùng
ven biển Việt Nam như sau (xem bảng 1,
2, 3):
Bảng 1. Các tiêu chuẩn để đánh giá sức tải vùng ven bờ
Các dạng sức tải Các tiêu chuẩn
Sức tải vật lí
- Tiêu chuẩn xây dựng cơ sở hạ tầng tại khu vực vùng nội địa
là 40m2/giường khách.
- Tiêu chuẩn xây dựng để đảm bảo chất lượng môi trường là
50m2/giường khách.
Sức tải xã hội
- Mật độ khách sử dụng trên bãi biển nằm trong khoảng từ 5-
25m2/người.
- Mật độ khách được nhiều người chấp nhận nhất là là 1.000
người/ha (10m2/người)
Sức tải môi trường
Giới hạn số lượng vi khuẩn có trong nước biển:
- Đối với coliform: < 10.000 MPN/ 100ml
- Đối với faecal coliform: < 2.000 MPN/ 100ml
Nguồn: [2]
80
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Nguyễn Văn Hoàng
_____________________________________________________________________________________________________________
Bảng 2. Tiêu chuẩn quy hoạch các khu du lịch ven biển
Các loại phòng nghỉ Diện tích phòng nghỉ
a. Khách sạn
- Giá rẻ
- Trung bình
- Sang trọng
b. Làng du lịch ven biển
c. Các căn hộ trong khu resort ven biển
- Phòng 1 giường
- Phòng 2 giường
- Phòng 3 giường
10m2/giường
19m2/giường
30m2/giường
15m2/giường
53m2
80m2
110m2
Cơ sở hạ tầng Nhu cầu sử dụng
5 Nước sinh hoạt (lít/người/ngày)
- Vùng mát mẻ
- Vùng nóng bức
b. Mặt bằng xử lí chất thải
c. Chỗ đậu xe
200 – 300
500 – 1000
0,3ha/1000 người
5-25% tổng diện tích khu nghỉ dưỡng
Tiện nghi cho du khách Nhu cầu sử dụng
a. Hồ bơi – diện tích mặt nước
b. Không gian mở (resort ven biển)
c. Cửa hàng
3 m2/người
20 - 40m2/giường
0,67m2/giường
Mật độ resort Nhu cầu sử dụng
a. Tây Ban Nha, Hi Lạp, Bali, Hawaii
b. Làng du lịch biển ở Địa Trung Hải
60 - 100 giường/ha
20 giường/ha
Nguồn: [6]
Bảng 3. Tiêu chuẩn sức tải cho một số hoạt động du lịch biển
Sức tải bãi biển (loại bãi) m2/người
a. Bình dân
b. Trung bình
c. Khá
d. Sang trọng
10
15
20
30
Hoạt động bơi lặn m2/người
a. Lặn có khí tải
b. Lặn có sử dụng ống thở/tắm biển
50
25
Nguồn: [6]
Như vậy, dựa vào một số tiêu chuẩn
về đánh giá sức tải và quy hoạch du lịch
vùng ven biển, chúng ta có thể áp dụng
công thức tính toán sức tải tiềm năng
theo Boullón [4] để xác định được khả
năng khai thác cũng như khả năng đáp
ứng của một điểm du lịch nào đó vùng
ven bờ. Để tính toán được sức tải thực,
chúng ta cần phải xác định được những
hệ số hiệu chỉnh (Cf) nảy sinh trong quá
trình nghiên cứu – đó là những yếu tố tác
81
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 38 năm 2012
_____________________________________________________________________________________________________________
động đến khả năng tải của một điểm du
lịch.
2.5. Trường hợp điển cứu về tính toán
sức tải ở đảo Hòn Mun, vịnh Nha
Trang, tỉnh Khánh Hòa
Dưới đây là ví dụ về kết quả tính
toán sức tải tiềm năng và sức tải thực cho
đảo Hòn Mun thuộc khu bảo tồn biển
vịnh Nha Trang tỉnh Khánh Hòa dựa vào
công thức và một số tiêu chuẩn theo
WTO [6] như đã trình bày ở trên. Để tính
toán sức tải tiềm năng cho đảo Hòn Mun,
chúng tôi tiến hành tính toán diện tích
mặt nước có thể khai thác được đối với
hai hoạt động chủ yếu tại đây là tắm biển
và lặn biển ngắm san hô. Diện tích mặt
nước có thể khai thác hoạt động du lịch
tại Hòn Mun dao động từ 100.000m2 –
120.000m2, tiêu chuẩn trung bình cho
một khách đối với hai hoạt động trên
được thể hiện ở kết quả tính toán trong
bảng 4 sau đây:
Bảng 4. Kết quả tính toán sức tải tiềm năng ở Hòn Mun
Tiêu chuẩn trung bình (m2/người) Sức tải tối đa (người)
Tiêu chuẩn an toàn cho du khách và san
hô là 25m2/người đối với hoạt động bơi
và lặn có ống thở.
Sức tải tối đa lượng khách có thể bơi và
lặn có ống thở tại khu vực này dao động
từ 4000 – 4800 người.
Tiêu chuẩn an toàn cho du khách và san
hô là 50m2/người đối với hoạt động lặn
biển có sử dụng khí tải.
Sức tải tối đa lượng khách có thể lặn có
sử dụng khí tải tại khu vực này dao động
từ 2000 – 2400 người.
Tổng lượng khách đến hàng ngày trong
khoảng thời gian từ 8 giờ sáng đến 18 giờ
đối với hoạt động bơi và lặn có ống thở1.
Tổng lượng khách hàng ngày có thể bơi
lặn tại khu vực này dao động từ 40.000 –
48.000 người.
Tổng lượng khách đến hàng ngày trong
khoảng thời gian từ 8 giờ sáng đến 18 giờ
đối với hoạt động lặn có có sử dụng khí
tải2.
Tổng lượng khách hàng ngày có thể lặn
có sử dụng khí tải tại khu vực này dao
động từ 10.000 – 12.000 người.
Nguồn: [1]
Để tính toán sức tải thực cho hoạt
động lặn biển có sử dụng khí tải, chúng
tôi tiến hành xác định những hệ số hiệu
chỉnh (Cf) về thời gian nắng, gió và hệ số
hiệu chỉnh về thời gian mưa, độ đục của
nước biển Đây là những yếu tố tiêu
biểu ảnh hưởng đến hoạt động lặn biển.
Kết quả thu được như sau:
Kết quả tính toán sức tải thực sau
khi đã áp dụng công thức của Ceballos –
Lascuráin cho thấy khu vực đảo Hòn
Mun có thể đón tiếp mỗi ngày một lượng
khách đến lặn biển có sử dụng khí tải dao
động từ 6318 đến 7582 người (giảm đi
rất nhiều so với sức tải tiềm năng dao
động từ 10.000 đến 12.000 người [1].
Như vậy, về lí thuyết, chúng ta có
thể tính toán được số lượng du khách cực
đại mà Hòn Mun có thể tiếp nhận được
đối với từng loại hoạt động du lịch cùng
82
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Nguyễn Văn Hoàng
_____________________________________________________________________________________________________________
một thời điểm nào đó trong ngày cũng
như tổng lượng khách đến mỗi ngày. Tuy
nhiên, thực tế cho thấy rằng sức tải của
một điểm du lịch còn phụ thuộc rất lớn
vào nhiều yếu tố tác động khác từ bên
ngoài, trong đó có cả hành vi ứng xử môi
trường của khách du lịch. Việc định
lượng sức tải ở Hòn Mun chỉ mang tính
chất tương đối để các nhà quản lí du lịch
có thể kiểm soát được một lượng khách
du lịch phù hợp.
3. Kết luận
Đánh giá sức tải trong hoạt động du
lịch là một hướng nghiên cứu không mới
trên thế giới. Tuy nhiên, ở nước ta công
việc này chưa được coi trọng, nhất là
trong công tác đánh giá tác động môi
trường cho các dự án phát triển du lịch,
trong công tác quy hoạch các dự án du
lịch vùng biển đảo.
Mặt khác, việc đánh giá sức tải
cũng còn nhiều hạn chế như là chúng ta
chỉ tính toán sức tải cho từng loại hoạt
động du lịch tại một khu vực nào đó chứ
chưa có một công thức nào dùng để tính
toán sức tải cho nhiều dạng hoạt động du
lịch diễn ra cùng lúc. Thật khó có thể áp
dụng tất cả những tiêu chuẩn về sức tải
trên thế giới cho các vùng du lịch ven
biển ở Việt Nam vì tính chất, đặc trưng
của mỗi nơi khác nhau. Tuy nhiên, những
tiêu chuẩn nêu ra trên đây có thể giúp các
nhà quy hoạch và quản lí du lịch sử dụng
để đánh giá được sức tải du lịch trong
quá trình khai thác và phát triển du lịch
biển, đảo.
1 Hệ số luân chuyển = 10 giờ/1 giờ cho mỗi du khách lặn có ống thở
2 Hệ số luân chuyển = 10 giờ/2 giờ cho mỗi du khách lặn có khí tải
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Văn Hoàng (2007), Đánh giá sức tải sinh thái đối với các điểm du lịch ven
bờ và hải đảo trong vịnh Nha Trang tỉnh Khánh Hòa, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành
Sử dụng và bảo vệ tài nguyên môi trường, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn TPHCM.
2. Nguyễn Đình Hòe, Vũ Văn Hiếu (2001), Du lịch bền vững, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội.
3. Phạm Trung Lương (2003), Quản lí phát triển du lịch biển, Tài liệu Dự án khu bảo
tồn biển Hòn Mun, Khóa tập huấn quốc gia về quản lí khu bảo tồn biển.
4. Carsten M. Huttche, Alan T. White, Ma Monina M. Flores (2002), Sustainable
coastal tourism handbook for the Philippines, Coastal Resource Management Project
of the Department of Environment and Natural Resources, Philippines.
5. Li Ching Lim (1998), Carrying capacity assessment of Pulau Payar marine park,
Malaysia – Bay of Bengal Programme, India.
6. WTO (1981), Proceedings of the Workshop on Resort planning and Development,
Baguio city, Philippines, WRP/info Note 4. WTO commission for East Asia and the
Pacific.
(Ngày Tòa soạn nhận được bài: 14-02-2012; ngày phản biện đánh giá: 22-3-2012;
ngày chấp nhận đăng: 07-5-2012)
83
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 08_nguyen_van_hoang_0921.pdf