Từ phân tích biểu đồ ROC, điểm cắt tối ưu
của cortisol tối đa sau synacthen là 21,4 μg/dL
cho độ nhạy và độ chuyên lần lượt là 78% và
79%; độ đúng là 77%. Tăng giá trị điểm cắt của
cortisol tối đa sau tiêm synacthen độ nhạy sẽ
tăng nhưng độ chuyên sẽ giảm. Ở ngưỡng điểm
cắt 21,4 μg/dL này cho giá trị tiên đoán (+) là 90%
và giá trị tiên đoán (‐) là 59%. Kết quả phù hợp
với nghiên cứu phân tích tổng hợp của Dorin và
cộng sự đánh giá về giá trị của nghiệm pháp
kích thích bằng cosyntropin, đề nghị ngưỡng
cortisol huyết tương đáp ứng với cosyntropin từ
18,1 ‐ 21,7 μg/dL (500 – 600 nmol/L) dùng để
đánh giá chẩn đoán suy thượng thận thứ phát,
cho độ đặc hiệu 95% và độ nhạy là 57%(2).
Nghiên cứu của chúng tôi đánh giá trên những
bệnh nhân dùng glucocorticoid dài hạn, khả
năng cao bị ức chế trục hạ đồi – tuyến yên –
thượng thận, do đó có thể chấp nhận dùng
ngưỡng cortisol cao và chẩn đoán dương tính
giả để không bỏ sót và ngưng quá sớm
glucocorticoid ở bệnh nhân chưa phục hồi chức
năng thượng thận. Nếu bệnh nhân bị chẩn đoán
là suy thượng thận thứ phát nhưng thực sự đã
phục hồi bình thường (dương tính giả) có thể
tiếp tục giảm liều glucocorticoid và bệnh nhân sẽ
được đánh giá lại thượng thận sau đó.
Nói chung, cho đến nay các nghiên cứu
trước và nghiên cứu của chúng tôi thấy ngưỡng
cortisol nền buổi sáng trong huyết tương khoảng
10 mcg/dL có một số hạn chế trong chẩn đoán
suy thượng thận. Nghiệm pháp Synacthen 250
mcg có thể dùng thuận tiện để chẩn đoán suy
thượng thận do thuốc glucocorticoid, thay vì
phải dùng nghiệm pháp hạ đường huyết bằng
insulin vẫn được xem là xét nghiệm chuẩn để
chẩn đoán suy thượng thận thứ phát(4).
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 26/01/2022 | Lượt xem: 207 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá suy chức năng thượng thận ở bệnh nhân dùng Glucocorticoid dài hạn bằng các nghiệm pháp động, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 4 * 2014 Nghiên cứu Y học
69
ĐÁNH GIÁ SUY CHỨC NĂNG THƯỢNG THẬN Ở BỆNH NHÂN
DÙNG GLUCOCORTICOID DÀI HẠN BẰNG CÁC NGHIỆM PHÁP ĐỘNG
Trần Quang Nam*, Nguyễn Thy Khuê*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá suy thượng thận thứ phát trên bệnh nhân đang dùng glucocorticoid dài hạn bằng các
nghiệm pháp động.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Thiết kế cắt ngang, thực hiện tại khoa Nội tiết, bệnh viện Nhân
dân 115 từ 2/2009 tới 9/2012. Chọn bệnh nhân từ 16 tới 70 tuổi, đang dùng glucocorticoid dài hạn đang trong
giai đoạn liều thấp duy trì, có chỉ định đánh giá chức năng vỏ thượng thận. Bệnh nhân được làm nghiệm pháp
Synacthen tác dụng ngắn 250μg (đo cortisol huyết tương 0 phút trước, 30 phút và 60 phút sau tiêm Synacthen),
sau đó ít nhất 3 ngày thực hiện nghiệm pháp hạ đường huyết bằng insulin. Tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán suy
thượng thận dựa vào cortisol huyết tương tối đa < 18 mcg/dL trong nghiệm pháp hạ đường huyết bằng insulin.
Kết quả: Có 101 bệnh nhân, tuổi trung bình 36 ± 12 năm, 66% là nữ. Tỉ lệ bệnh nhân suy thượng thận
đánh giá bởi nghiệm pháp hạ đường huyết là 71%. Phân tích đường cong ROC của nồng độ cortisol huyết tương
buổi sáng có diện tích dưới đường cong là 0,71 (95% KTC: 0,6‐0,8; p<0,0005). Ngưỡng điểm cắt của cortisol nền
trong chẩn đoán suy chức năng vỏ thượng thận là 9,9 μg/dL, ở mức này sẽ cho độ nhạy là 64% và độ chuyên là
72%. Nghiệm pháp Synacthen có diện tích dưới đường cong ROC (receiver operating characteristic) của cortisol
huyết tương tối đa là 0,84 (95% KTC: 0,75 ‐ 0,90; p <0,0001) và điểm cắt cortisol huyết tương tối đa là 21,4
μg/dL trong chẩn đoán suy thượng thận thứ phát với độ nhạy 78% và độ đặc hiệu 79%.
Kết luận: Suy thượng thận thứ phát rất thường gặp trên bệnh nhân dùng glucocorticoid dài hạn với tỉ lệ là
71%. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy cortisol huyết tương nền trong chẩn đoán suy thượng thận thứ phát có
một số hạn chế. Nghiệm pháp synacthen tác dụng ngắn 250 μg có với ngưỡng cortisol huyết tương tối đa là 21,4
μg/dL có giá trị dùng trong đánh giá chức năng thượng thận ở những người dùng glucocorticoid dài hạn trước
khi ngưng thuốc.
Từ khóa: Cortisol huyết tương, suy thượng thận, nghiệm pháp synacthen ngắn, nghiệm pháp hạ đường
huyết bằng insulin
ABSTRACT
EVALUATION OF ADRENAL FUNCTION BY DYNAMIC TESTS
IN LONG‐TERM GLUCOCORTICOID USERS
Tran Quang Nam, Nguyen Thy Khue * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ No 4 ‐ 2014: 69 ‐ 76
Objective: To assess secondary adrenal insufficiency in long‐term glucocorticoid users before withdrawal of
glucocorticoid by using dynamic tests (Synacthen test and insulin hypoglycemia test).
Method: Cross sectional study was conducted at People Hospital 115, Ho Chi Minh City from 2/2009 to
2/2012. Long‐term glucocorticoid users from 16 to 70 years of age on low dose of glucocorticoid were recruited.
All patients had adrenal function assessment. Synachten test (STT) 250 μg was performed first and then insulin
hypoglycemia test (IHT) performed at least 3 days later. Adrenal insufficiency was defined as maximal plasma
cortisol in IHT less than 18 μg/dL. The IHT was used as the ʹgold standardʹ in assessing the HPA axis.
Results: 101 patients (66% female) had mean age of 36 ± 12 years. Proportion of adrenal insufficiency was
71%. For diagnosis of secondary adrenal insufficiency, morning basal cortisol concentration had area under ROC
curve of 0.71 (95% CI: 0.6‐0.8; p<0.0005) and cut off at 9.9 μg/dL (sensitivity of 64% and specificity of 72%.
* Bộ Môn Nội Tiết, Đại Học Y Dược TP HCM ** Bộ Môn Nội Tiết, Đại Học Y Dược TP HCM
Tác giả liên lạc: ThS.BS Trần Quang Nam ĐT: 0908386382 Email: tranqnam@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 4 * 2014
70
Synacthen test was used for diagnosis of secondary adrenal insufficiency with area under ROC curve of 0.84
(95% CI: 0.75‐0.90; p<0.0001) and maximal plasma cortisol cut off at 21.4 μg/dL with sensitivity of 78% and
specificity of 79%.
Conclusion: secondary adrenal insufficiency was very frequent at 71% in long‐term glucocorticoid users.
Morning basal cortisol concentration had some limitations in assessing adrenal function. Maximal plasma
cortisol value of 21.4 μg/dL as cut‐off in short Synacthen test (250 μg) was valid test for assessing adrenal
function.
Keywords: Basal plasma cortisol, adrenal insufficiency, short synacthen test, insulin hypoglycemia test
ĐẶT VẤN ĐỀ
Một trong các biến chứng quan trọng ở
những bệnh nhân dùng glucocorticoid dài hạn là
trục hạ đồi ‐ tuyến yên ‐ thượng thận bị ức chế
chức năng dẫn tới làm giảm khả năng đáp ứng
đối với các tình trạng stress (như nhiễm trùng,
chấn thương, phẫu thuật) và bệnh nhân có thể
rơi vào tình trạng nguy kịch nếu không được bù
glucocorticoid kịp thời(9). Đây là tình trạng suy
thượng thận thứ phát, tần suất có thể thay đổi
tùy theo nghiên cứu từ 56% ‐77%(1,7,10). Trước
khi muốn ngưng thuốc cần đánh giá sự hoạt
động của vỏ thượng thận, tránh ngưng đột ngột
có thể đưa đến nguy cơ suy thượng thận cấp.
Mặc dù nghiệm pháp hạ đường huyết được
xem là tiêu chuẩn vàng để khảo sát dự trữ trục
HĐ‐TY‐TT, nhưng thực hiện phải mất nhiều thời
gian, công sức và có chống chỉ định trong bệnh
tim thiếu máu cục bộ, tiền căn động kinh. Do đó
thường bệnh nhân được dùng các xét nghiệm
thay thế. Xét nghiệm cortisol huyết tương nền
buổi sáng ít có giá trị trong tiên đoán khả năng
đáp ứng của thượng thận với kích thích. Nghiệm
pháp kích thích bằng Synacthen (ACTH) được
nhiều nghiên cứu cho thấy có thể gián tiếp đánh
giá trục HĐ‐TY‐TT ở những người có suy
thượng thận thứ phát dài hạn. Nghiệm pháp này
dựa trên cơ sở cho rằng giảm ACTH
(adrenocorticotropic hormone) kéo dài dẫn tới
teo thượng thận, do đó sẽ không đáp ứng với
ACTH ngoại sinh. Về lý thuyết, nghiệm pháp
ACTH 250 μg liều cao có thể gây âm tính giả, bỏ
sót những trường hợp suy thượng thận thứ phát
nhẹ, trong khi đó dùng liều thấp ACTH 1 μg sẽ
nhạy hơn trong xác định bệnh nhân bị ức chế
nhẹ trục HĐ‐TY‐TT. Tuy nhiên, chưa rõ nghiệm
pháp ACTH liều thấp hay liều cao ưu điểm
hơn(2,8). Ngưỡng cortisol đáp ứng bình thường
với ACTH trong nghiệm pháp synacthen cũng
thay đổi tùy nghiên cứu từ 500 tới 600 nmol/L
(từ 18,1 – 21,7 μg/dL).
Ở Việt Nam cho tới nay chưa có báo cáo về
đánh giá biến chứng của dùng glucocorticoid
dài hạn trên trục hạ đồi ‐ tuyến yên ‐ thượng
thận bằng cách dùng các nghiệm pháp động
này. Do đó nghiên cứu này thực hiện để đánh
giá tình trạng suy chức năng vỏ thượng thận
do dùng glucocorticoid dài hạn bằng các
nghiệm pháp động.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang, được tiến hành tại
khoa nội tiết Bệnh Viện Nhân Dân 115, TP Hồ Chí
Minh từ tháng 2 năm 2009 tới tháng 9 năm 2012.
Đối tượng nghiên cứu
Bệnh nhân đang dùng glucocorticoid dài hạn
hoặc có tiền căn dùng glucocorticoid.
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Các bệnh nhân tuổi từ 16 tới 70, đang dùng
glucocorticoid kéo dài (>=2 tuần).
Đang dùng liều glucocorticoid duy trì
tương đương hay thấp hơn prednisone từ 5 tới
10 mg hoặc methylprednisolone 4 tới 8 mg mỗi
ngày. Liều này ổn định ít nhất 2 tuần trước
nghiên cứu.
Tiền căn dùng thuốc nguồn gốc không rõ
loại (khả năng chứa glucocorticoid) có biểu
hiện Cushing (da mỏng, dễ bầm máu, vẻ mặt
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 4 * 2014 Nghiên cứu Y học
71
Cushing....) và cortisol huyết thanh buổi
sáng thấp.
Tiêu chuẩn loại trừ
Dùng glucocorticoid dưới 2 tuần; Đang có
bệnh lý cấp tính; Đang dùng liều glucocorticoid
tấn công kiểm soát bệnh lý theo chỉ định; Có
chống chỉ định của nghiệm pháp hạ đường
huyết bằng insulin (bệnh tim thiếu máu cục bộ,
tiền căn động kinh); Đang dùng thuốc có chứa
estrogen; Chu kỳ thức ngủ thay đổi (ví dụ: làm
ca đêm).
Bệnh nhân được giải thích về ý nghĩa nghiên
cứu này và đồng ý ký tên vào bản ưng thuận
tham gia vào nghiên cứu, sau đó mới tiến hành
nghiên cứu. Nếu bệnh nhân dưới 18 tuổi phải có
cha hoặc mẹ đồng ý ký tên vào bản ưng thuận.
Bệnh nhân sẽ không phải trả chi phí khám bệnh
và xét nghiệm liên quan tới nghiên cứu.
Phương pháp chọn mẫu
Được tính theo công thức N=(Z2 1‐α/2 p(1‐
p))/d2. Trong đó Z1‐α/2=1.96; α=0.05; d= 0,1 và p là
tỉ lệ bệnh nhân dùng glucocorticoid dài hạn bị
suy thượng thận thứ phát theo nghiên cứu dẫn
đường của chúng tôi trên 29 bệnh nhân là
65,5%(12). Dự tính thực tế có thể mất mẫu 10%, cỡ
mẫu sẽ là 100 bệnh nhân
Qui trình thực hiện nghiên cứu
Sau khi dùng glucocorticoid kéo dài điều trị
khi bệnh lý chính đã ổn định bệnh nhân được
bác sĩ điều trị cho giảm liều và duy trì liều thấp.
Nếu bệnh nhân thỏa tiêu chí chọn bệnh như trên
và không có tiêu chuẩn loại trừ sẽ được đưa vào
nghiên cứu.
Các bệnh nhân được thu thập các đặc tính về
lâm sàng và cận lâm sàng
Tuổi (năm), giới tính.
Bệnh lý chính có chỉ định glucocorticoid.
Mạch, huyết áp (mmHg), cân nặng (kg),
chiều cao (mét), vòng eo (cm).
Biểu hình cushing: mặt tròn đỏ, da mỏng, dễ
bầm máu, mập vùng trung tâm, rạn da, teo cơ.
Đường huyết đói.
Đánh giá chức năng thượng thận
Trước khi đánh giá chức năng thượng thận,
prednisone hoặc methylprednisolone sẽ được
ngưng sử dụng trong 48 giờ. Bệnh nhân sẽ nhịn
đói qua đêm, cả 2 nghiệm pháp được bắt đầu
trong khoảng từ 7‐10 giờ sáng. Mỗi bệnh nhân
được làm cả 2 nghiệm pháp Synacthen liều 250
μg tác dụng ngắn và nghiệm pháp hạ đường
huyết bằng insulin thực hiện vào 2 buổi sáng
khác nhau, cách nhau ít nhất 3 ngày. Nghiệm
pháp Synacthen tác dụng ngắn 250 μg được
thực hiện vào 1 ngày, sau đó nghiệm pháp hạ
đường huyết bằng insulin được tiến hành trong
1 ngày khác.
Nghiệm pháp Synacthen (ACTH tổng hợp) tác
dụng ngắn 250μg
Được thực hiện như sau: tiêm mạch 1 ống
Synacthen 250μg tác dụng ngắn. Đo cortisol
huyết tương nền vào trước khi tiêm thuốc (0
phút), sau khi tiêm 30 phút và 60 phút. Căn cứ
vào đáp ứng cortisol huyết tương tối đa trong
nghiệm pháp Synacthen để đánh giá khả năng
đáp ứng của vỏ thượng thận suy chức năng
hay không.
Nghiệm pháp hạ đường huyết bằng insulin
Bắt đầu tiến hành vào buổi sáng sau khi
nhịn đói qua đêm. Bệnh nhân nằm trên giường
trong thời gian làm nghiệm pháp, được bác sĩ
và điều dưỡng theo dõi sát. Kim luồn được đặt
vào tĩnh mạch ở hố phía trước khuỷu tay, sau
đó được tiêm mạch insulin người tác dụng
nhanh Actrapid 0,1 IU/kg. Nếu bệnh nhân béo
phì hoặc đái tháo đường típ 2 sẽ được cho liều
insulin Actrapid là 0,15 IU/kg cân nặng. Các
biểu hiện lâm sàng của hạ đường huyết được
theo dõi sát và đo đường huyết mao mạch
bằng máy đo tại giường. Mẫu máu được lấy
đo cortisol vào các thời điểm 0, 30, 60, 90, 120
phút sau khi tiêm insulin. Nghiệm pháp được
xem là đạt yêu cầu khi ghi nhận mức hạ
đường huyết dưới 45 mg/dL(3). Khi bệnh nhân
có triệu chứng hạ đường huyết sẽ để kéo dài 5
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 4 * 2014
72
phút và sau đó tiêm mạch glucose 30% 40ml
để bệnh nhân hết triệu chứng.
Kết quả nghiệm pháp hạ đường huyết được
xem là tiêu chuẩn vàng tham chiếu xác định suy
chức năng vỏ thượng thận. Nghiệm pháp được
gọi là âm tính (chức năng thượng thận bình
thường) khi nồng độ cortisol tối đa (xác định là
giá trị cortisol tối đa sau khi có kích thích hạ
đường huyết dưới 45mg/dL) trong khi làm
nghiệm pháp ≥ 18 μg/dL. Nghiệm pháp dương
tính (suy vỏ thượng thận) khi nồng độ cortisol
tối đa trong khi làm nghiệm pháp < 18 μg/dL(11).
Phương pháp đo cortisol huyết tương
Phương pháp đo cortisol huyết tương dùng
trong nghiên cứu này: nồng độ cortisol huyết
tương được bằng phương pháp miễn dịch vi hạt
hóa phát quang (Chemiluminescent
microparticle immunoassay) với hệ thống máy
Architect, công ty Abbott, của Mỹ. Hệ số biến
thiên (coefficient of variation) ở từng mức đo
cortisol là 4% (ở mức cortisol là 2,9 μg/dL), 2,5%
(ở mức cortisol là 39,8 μg/dL), và là 3,3% (ở mức
cortisol là 53,3 μg/dL. Xét nghiệm thực hiện tại
Trung tâm chẩn đoán y khoa MEDIC đã được
cấp giấy chứng nhận của Trung tâm kiểm chuẩn
xét nghiệm Thành phố Hồ Chí Minh.
Phương pháp phân tích số liệu
Số liệu được nhập vào Excel 2010 và xử lý
bằng phần mềm Stata/SE 10.0 cho Window.
Cortisol huyết tương được trình bày dưới dạng
trung bình (TB) ± độ lệch chuẩn (ĐLC). Các biến
số liên tục có phân phối không chuẩn được trình
bày bằng trung vị (tối thiểu, tối đa). So sánh giữa
2 trung bình của 2 nhóm bằng phép kiểm t. Hệ
số tương quan Pearson dùng đánh giá sự tương
quan giữa 2 biến số liên tục có phân phối chuẩn.
Dùng phép kiểm tương quan Spearman đánh
giá tương quan nếu có biến số liên tục có phân
phối không chuẩn. Xác định đường cong ROC
(the receiver operaring characteristics) cho giá trị
cortisol huyết tương nền buổi sáng và cortisol
huyết tương tối đa trong nghiệm pháp
Synacthen tác dụng ngắn 250μg trong đánh giá
chức năng thượng thận, dùng nghiệm pháp hạ
đường huyết bằng insulin làm tham chiếu. Phân
tích được xem là có ý nghĩa thống kê khi p< 0,05.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Đặc điểm chung của các bệnh nhân tham gia
nghiên cứu
Có 101 bệnh nhân dùng glucocorticoid dài
hạn có đủ tiêu chuẩn đưa vào nghiên cứu. Đặc
điểm của các bệnh nhân này được trình bày
trong bảng 1. Tuổi trung bình của dân số nghiên
cứu là 36±12 năm. Nữ giới chiếm 66% (67/101).
Đa số bệnh nhân đang dùng glucocorticoid do
có chỉ định điều trị bệnh lý hội chứng thận hư
nguyên phát (57%), lupus đỏ (21%) và viêm
khớp dạng thấp (9%). Có một số bệnh nhân có
tiền căn sử dụng thuốc không rõ loại (11%) và
xuất hiện các biểu hiện lâm sàng gợi ý suy
thượng thận do glucocorticoid ngoại sinh, do đó
được chỉ định đánh giá chức năng vỏ thượng
thận tiết cortisol. Các bệnh nhân tham gia nghiên
cứu có liều glucocorticoid duy trì được tính ra
liều tương đương prednisone có trung vị là 4 mg
(tối thiểu là 2 mg, tối đa là 10mg).
Bảng 1. Đặc điểm của nhóm bệnh nhân nghiên cứu
Đặc điểm Kết quả
Số bệnh nhân 101
Tuổi (năm, TB+/- ĐLC) 36 ± 12
Giới Nam 34 (34%)
Nữ 67 (66%)
BMI (kg/m2) 21,3 ± 3,2
Vòng eo (cm) 73,5 ± 8,9
Huyết áp tâm thu (mmHg) 117 ± 13
Huyết áp tâm trương (mmHg) 72 ± 9
Bệnh lý có chỉ
định
glucocorticoid
Hội chứng thận hư 58 (57%)
Lupus đỏ 20 (21%)
Viêm khớp dạng thấp 9 (9%)
Dùng thuốc không rõ loại 11 (11%)
Khác (COPD, hen phế quản,
Giảm tiểu cầu vô căn)
3 (3%)
COPD: bệnh phổi tắc nghẽn mạn; BMI: chỉ số khối cơ thể
=cân nặng (kg)/chiều cao (m)2; TB: trung bình; ĐLC: độ
lệch chuẩn
Kết quả của nghiệm pháp hạ đường huyết
bằng insulin
Trong quá trình thực hiện nghiệm pháp hạ
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 4 * 2014 Nghiên cứu Y học
73
đường huyết cho kết quả nồng độ cortisol huyết
tương trung bình vào các thời điểm 0 phút, 30
phút, 60 phút, 90 phút và 120 phút lần lượt là 9,5
± 4,6 μg/dL ; 9,8 ± 5,3 μg/dL; 14,1 ± 6,4 μg/dL;
12,2 ± 5,9 μg/dL và 10,2 ± 5,7 μg/dL. Nồng độ
cortisol tối đa trung bình là 14,7 ± 6,5 μg/dL. Liều
trung vị insulin Actrapid được dùng cho các
bệnh nhân là 5 IU (tối thiểu là 3,5 IU và tối đa là
22 IU). Có 89 bệnh nhân (88%) dùng 1 liều
actrapid và 12 bệnh nhân (12%) phải dùng 2 lần
tiêm mạch actrapid mới đạt được mục tiêu
đường huyết hạ thấp. Quá trình thực hiện
nghiệm pháp ghi nhận 93 bệnh nhân (92%) có
biểu hiện triệu chứng hạ đường huyết như đói,
lạnh, vã mồ hôi, hoa mắt, chóng mặt, còn lại 8
bệnh nhân (9%) không có triệu chứng hạ đường
huyết khi đường huyết hạ đạt mục tiêu.
Kết quả nghiệm pháp hạ đường huyết cho
thấy tỉ lệ suy chức năng vỏ thượng thận (có
cortisol tối đa <18 μg/dL sau kích thích hạ đường
huyết) do glucocorticoid dùng dài hạn là 71%
(72/101 bệnh nhân).
Kết quả nghiệm pháp Synacthen tác dụng ngắn
250μg
Nồng độ cortisol huyết tương trung bình tại
thời điểm 0 phút là 8,4 ± 4,7 μg/dL, tăng lên sau
tiêm Synacthen tại thời điểm 30 phút là 17,5 ± 7,7
μg/dL và tại thời điểm 60 phút là 19,7 ± 8,7
μg/dL. Nồng độ cortisol huyết tương tối đa sau
khi tiêm synacthen là 19,9 ± 8,7 μg/dL. Có 88
bệnh nhân (87%) có cortisol đạt mức tối đa tại 60
phút và 13 bệnh nhân (13%) có cortisol đạt mức
tối đa tại 30 phút. Không có phản ứng phụ nào
được ghi nhận trong quá trình làm nghiệm pháp
synacthen ở các bệnh nhân nghiên cứu.
So sánh đáp ứng tối đa của cortisol huyết
tương sau tiêm synacthen 250μg cao hơn có ý
nghĩa so với đáp ứng cortisol tối đa trong
nghiệm pháp hạ đường huyết (19,9 μg/dL so với
14,7 μg/dL; p<0,001).
Giá trị chẩn đoán suy chức năng vỏ thượng
thận của cortisol huyết tương nền buổi sáng
trong nghiệm pháp hạ đường huyết
Nồng độ cortisol huyết tương nền buổi sáng
và cortisol huyết tương tối đa được dùng phép
biến đổi log10 trước khi phân tích tương quan
tuyến tính. Chúng tôi xác định thấy có sự tương
quan giữa log10 của cortisol huyết tương nền
buổi sáng lúc 0 phút và log10 của cortisol huyết
tương tối đa trong nghiệm pháp hạ đường huyết
với hệ số r = 0,8 có ý nghĩa thống kê với p<0,001.
Hình 1. Đường cong ROC của cortisol huyết tương
buổi sáng trong chẩn đoán suy chức năng vỏ thượng
thận thứ phát. (diện tích dưới đường cong = 0,71;
95% KTC: 0,6‐0,8; p=0,0005)
Lấy nghiệm pháp hạ đường huyết làm tham
chiếu xác định có suy chức năng vỏ thượng thận
hay không. Phân tích đường cong ROC của nồng
độ cortisol huyết tương buổi sáng có diện tích
dưới đường cong là 0,71 (95% KTC: 0,6‐0,8;
p<0,0005). Kết quả cho thấy ngưỡng điểm cắt của
cortisol nền trong chẩn đoán suy chức năng vỏ
thượng thận là 9,9 μg/dL, ở mức này sẽ cho độ
nhạy là 64% và độ chuyên là 72%. Khi dùng
ngưỡng cortisol nền buổi sáng 9,9 μg/dL có thể
chẩn đoán suy chức năng vỏ thượng thận thứ
phát với độ đúng là 64%.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 4 * 2014
74
Giá trị chẩn đoán suy chức năng vỏ thượng
thận của cortisol huyết tương tối đa trong
nghiệm pháp Synacthen 250 μg
Chúng tôi phân tích thấy có sự tương quan
giữa nồng độ cortisol huyết tương tối đa sau khi
kích thích bằng ACTH trong nghiệm pháp
Synacthen và nồng độ cortisol huyết tương tối
đa trong nghiệm pháp hạ đường huyết với hệ số
tương quan r = 0,71 với p<0,0001.
Hình 2. Tương quan giữa cortisol tối đa trong
nghiệm pháp (NP) Synacthen và cortisol tối đa trong
nghiệm pháp hạ đường huyết.
Phân tích đường cong ROC của nồng độ
cortisol huyết tương tối đa trong nghiệm pháp
Synacthen 250 μg có diện tích dưới đường cong
là 0,84 (95% KTC: 0,75‐0,90; p<0,0001) (hình 3).
Hình 3. Đường cong ROC của nghiệm pháp
Synacthen 250μg trong chẩn đoán suy chức năng vỏ
thượng thận thứ phát. (diện tích dưới đường cong là
0,84 (95% KTC: 0,75‐0,90; p<0,0001)
Kết quả cho thấy điểm cắt của cortisol nền
trong chẩn đoán suy chức năng vỏ thượng thận
là 21,4 μg/dL, ở mức này sẽ cho độ nhạy là 78%
và độ chuyên là 79%. Với ngưỡng cortisol tối đa
21,4 μg/dL sau tiêm synacthen 250 μg có thể
chẩn đoán suy chức năng vỏ thượng thận thứ
phát với độ đúng là 77%. (xem bảng 2)
Bảng2. Kết quả của phân tích đường cong ROC của cortisol huyết tương tối đa trong nghiệm pháp synacthen
ngắn 250 μg
Cortisol huyết tương
tối đa sau Synacthen (µg/dL)
Độ nhạy (%) Độ chuyên (%) TSKD (+) TSKD (-) GTTĐ+ GTTĐ-
10,3 22 100 0,78 100 34
15,2 38 97 10,9 0,65 96 38
18,5 60 86 4,3 0,47 92 46
20,2 71 83 4,1 0,35 91 53
21,4* 78 79 3,8 0,28 90 59
22,4 79 69 2,6 0,3 86 57
23 83 66 2,4 0,25 86 61
28,2 96 38 1,5 0,11 79 79
33 100 24 1,3 0 77 100
TSKD: tỉ số khả dĩ; GTTĐ: giá trị tiên đoán
BÀN LUẬN
Chúng tôi đã khảo sát 101 bệnh nhân có chỉ
định đánh giá chức năng vỏ thượng thận sau 1
thời gian dài dùng glucocorticoid hoặc những
bệnh nhân có tiền căn dùng thuốc khả năng
chứa glucocorticoid và có triệu chứng gợi ý suy
0
10
20
30
C
or
tis
ol
to
ái ñ
a
tro
ng
N
P
ha
ï ñ
öô
ønn
g
hu
ye
át (
μg/
dL
)
0 20 40 60
Cortisol toái ña trong NP Synacthen (μg/dL)
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 4 * 2014 Nghiên cứu Y học
75
chức năng vỏ thượng thận. Theo tác giả Hopkins
and Leinung có hướng dẫn cách giảm liều và
ngưng glucocorticoid sau thời gian điều trị kéo
dài, trước khi ngưng nên đánh giá bằng cách đo
cortisol huyết tương nền buổi sáng và sau đó
nếu cần sẽ dùng thêm nghiệm pháp kích thích
bằng (ACTH) synacthen(6). Ở Việt Nam cho tới
thời điểm hiện nay chưa có nghiên cứu nào đánh
giá thượng thận bằng các nghiệm pháp động
được công bố.
Tỉ lệ suy chức năng vỏ thượng thận 71%
trong nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp
với các nghiên cứu trước trên bệnh nhân dùng
glucocorticoid uống dài hạn. Đối với
glucocorticoid dùng đường uống với liều dược
lý thời gian kéo dài, khi đã giảm liều thấp thì
luôn thấy có suy chức năng vỏ thượng thận với
thay đổi tùy nghiên cứu từ 40% tới
65%(1,7).Chúng tôi thấy cortisol huyết tương nền
buổi sáng có tương quan chặt với cortisol huyết
tương tối đa trong nghiệm pháp hạ đường huyết
bằng insulin. Phân tích đường biểu diễn đường
cong ROC có diện tích dưới đường cong là 0,71
và cho thấy ngưỡng cortisol huyết tương nền là
9,9 mcg/dL có cho độ nhạy là 64% và độ chuyên
là 72%. Có 36% âm giả, bệnh nhân vẫn còn suy
chức năng vỏ thượng thận thứ phát do
glucocorticoid nhưng được xem là bình thường
do đó ngưng thuốc glucocorticoid sớm, không
theo dõi thì bệnh nhân vẫn có nguy cơ suy chức
năng vỏ thượng thận cấp nếu có stress cấp tính.
Do đó, dùng cortisol nền buổi sáng đơn thuần có
thể không đủ tin cậy xác định chức năng của
thượng thận vì có thể dẫn tới chẩn đoán nhầm
trong một số trường hợp giống như kết quả của
các nghiên cứu trước đây của Hagg và Erturk(3,5).
Do đó một số trường hợp cần phải làm các
nghiệm pháp động kích thích để xác định chẩn
đoán suy thượng thận thứ phát. Nghiệm pháp
Synacthen 250 μg được khuyến cáo có thể dùng
thay thế nghiệm pháp hạ đường huyết bằng
insulin để đánh giá trục hạ đồi ‐ tuyến yên ‐
thượng thận ở bệnh nhân có bệnh lý tuyến yên(2).
Kết quả của chúng tôi cho thấy có mối tương
quan có ý nghĩa giữa cortisol huyết tương tối đa
trong nghiệm pháp synacthen và trong nghiệm
pháp hạ đường huyết bằng insulin (r=0,71 với
p<0,0001). Điều này phù hợp với nghiên cứu của
Kane và cộng sự cho kết quả mối tương quan
chặt chẽ giữa nồng độ cortisol tối đa trong 2
nghiệm pháp(7).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, phân tích
đường biểu diễn ROC dựa trên tính độ nhạy
và độ đặc hiệu của từng ngưỡng cortisol huyết
tương tối đa sau tiêm Synacthen 250 μg cho
thấy diện tích dưới đường cong ROC là 0,84
(95% KTC: 0,75‐0,90; p < 0,0001), do đó xét
nghiệm này có giá trị dùng đánh giá dự trữ
trục HĐ‐TY‐TTT. Cũng tương tự các nghiên
cứu trước đây cho thấy nghiệm pháp kích
thích bằng ACTH liều cao trong chẩn đoán suy
thượng thận thứ phát có diện tích dưới đường
cong ROC từ 0,79– 0,9(2,8).
Từ phân tích biểu đồ ROC, điểm cắt tối ưu
của cortisol tối đa sau synacthen là 21,4 μg/dL
cho độ nhạy và độ chuyên lần lượt là 78% và
79%; độ đúng là 77%. Tăng giá trị điểm cắt của
cortisol tối đa sau tiêm synacthen độ nhạy sẽ
tăng nhưng độ chuyên sẽ giảm. Ở ngưỡng điểm
cắt 21,4 μg/dL này cho giá trị tiên đoán (+) là 90%
và giá trị tiên đoán (‐) là 59%. Kết quả phù hợp
với nghiên cứu phân tích tổng hợp của Dorin và
cộng sự đánh giá về giá trị của nghiệm pháp
kích thích bằng cosyntropin, đề nghị ngưỡng
cortisol huyết tương đáp ứng với cosyntropin từ
18,1 ‐ 21,7 μg/dL (500 – 600 nmol/L) dùng để
đánh giá chẩn đoán suy thượng thận thứ phát,
cho độ đặc hiệu 95% và độ nhạy là 57%(2).
Nghiên cứu của chúng tôi đánh giá trên những
bệnh nhân dùng glucocorticoid dài hạn, khả
năng cao bị ức chế trục hạ đồi – tuyến yên –
thượng thận, do đó có thể chấp nhận dùng
ngưỡng cortisol cao và chẩn đoán dương tính
giả để không bỏ sót và ngưng quá sớm
glucocorticoid ở bệnh nhân chưa phục hồi chức
năng thượng thận. Nếu bệnh nhân bị chẩn đoán
là suy thượng thận thứ phát nhưng thực sự đã
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 4 * 2014
76
phục hồi bình thường (dương tính giả) có thể
tiếp tục giảm liều glucocorticoid và bệnh nhân sẽ
được đánh giá lại thượng thận sau đó.
Nói chung, cho đến nay các nghiên cứu
trước và nghiên cứu của chúng tôi thấy ngưỡng
cortisol nền buổi sáng trong huyết tương khoảng
10 mcg/dL có một số hạn chế trong chẩn đoán
suy thượng thận. Nghiệm pháp Synacthen 250
mcg có thể dùng thuận tiện để chẩn đoán suy
thượng thận do thuốc glucocorticoid, thay vì
phải dùng nghiệm pháp hạ đường huyết bằng
insulin vẫn được xem là xét nghiệm chuẩn để
chẩn đoán suy thượng thận thứ phát(4).
KẾT LUẬN
Suy thượng thận thứ phát rất thường gặp
trên bệnh nhân dùng glucocorticoid dài hạn với
tỉ lệ là 71%. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy
cortisol nền chẩn đoán suy thượng thận có
ngưỡng là 9,9 mcg/dL với độ nhạy là 64% và độ
chuyên là 72%. Nghiệm pháp synacthen tác
dụng ngắn 250 μg trong chẩn đoán suy thượng
thận thứ phát ở những người dùng
glucocorticoid dài hạn trước khi ngưng thuốc có
ngưỡng cortisol huyết tương tối đa sau nghiệm
pháp là 21,4 μg/dL với độ nhạy 78% và độ
chuyên 79%.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Desrame, J., Sabate, J. M., Agher, R., Bremont, C., Gaudric, M.,
Couturier, D., et al. (2002). Assessment of hypothalamic‐
pituitary‐adrenal axis function after corticosteroid therapy in
inflammatory bowel disease. Am J Gastroenterol, 97(7), 1785‐
1791.
2. Dorin, R. I., Qualls, C. R. & Crapo, L. M. (2003). Diagnosis of
adrenal insufficiency. Ann Intern Med, 139(3), 194‐204.
3. Erturk, E., Jaffe, C. A. & Barkan, A. L. (1998). Evaluation of the
integrity of the hypothalamic‐pituitary‐adrenal axis by insulin
hypoglycemia test. J Clin Endocrinol Metab, 83(7), 2350‐2354.
4. Giordano R, Picu A, Bonelli L & Balbo M. (2008).
Hypothalamus–pituitary–adrenal axis evaluation in patients
with hypothalamo–pituitary disorders: comparison of
different provocative tests. Clinical Endocrinology, 68, 935–941.
5. Hagg, E., Asplund, K. & Lithner, F. (1987). Value of basal
plasma cortisol assays in the assessment of pituitary‐adrenal
insufficiency. Clin Endocrinol (Oxf), 26(2), 221‐226.
6. Hopkins, R. L. & Leinung, M. C. (2005). Exogenous Cushingʹs
syndrome and glucocorticoid withdrawal. Endocrinol Metab
Clin North Am, 34(2), 371‐384.
7. Kane, K. F., Emery, P., Sheppard, M. C. & Stewart, P. M.
(1995). Assessing the hypothalamo‐pituitary‐adrenal axis in
patients on long‐term glucocorticoid therapy: the short
synacthen versus the insulin tolerance test. QJM, 88(4), 263‐
267.
8. Kazlauskaite, R., Evans, A. T., Villabona, C. V., Abdu, T. A.
M., Ambrosi, B., Atkinson, A. B., et al. (2008). Corticotropin
Tests for Hypothalamic‐Pituitary‐ Adrenal Insufficiency: A
Metaanalysis. Journal of Clinical Endocrinology & Metabolism,
93(11), 4245‐4253.
9. Krasner, A. S. (1999). Glucocorticoid‐induced adrenal
insufficiency. JAMA, 282(7), 671‐676.
10. Schlaghecke, R., Kornely, E., Santen, R. T. & Ridderskamp, P.
(1992). The effect of long‐term glucocorticoid therapy on
pituitary‐adrenal responses to exogenous corticotropin‐
releasing hormone. N Engl J Med, 326(4), 226‐230.
11. Stewart P. M. & Krone, N. P. (2011). The Adrenal Cortex. In
Shlomo Melmed (Ed.), Williams Textbook of Endocrinology (12nd
ed., pp. 479‐523): Saunders Elsevier.
12. Tran Quang Nam & Nguyen Thy Khue. (2010). Comparision
of short synacthen test (250 mcg) and insulin tolerance test for
assessing the hypothalamo‐pituitary‐adrenal function in
patients on long‐term glucocorticosteroid. Journal of ASEAN
Federation of Endocrine Societies, 25(Supplement 1), pp.23.
Ngày nhận bài báo: 16/07/2014
Ngày phản biện đánh giá bài báo: 03/08/2014
Ngày bài báo được đăng: 30/08/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_gia_suy_chuc_nang_thuong_than_o_benh_nhan_dung_glucocor.pdf