Từ phân tích biểu đồ ROC, điểm cắt tối ưu
của cortisol tối đa sau synacthen là 21,4 μg/dL
cho độ nhạy và độ chuyên lần lượt là 78% và
79%; độ đúng là 77%. Tăng giá trị điểm cắt của
cortisol tối đa sau tiêm synacthen độ nhạy sẽ
tăng nhưng độ chuyên sẽ giảm. Ở ngưỡng điểm
cắt 21,4 μg/dL này cho giá trị tiên đoán (+) là 90%
và giá trị tiên đoán (‐) là 59%. Kết quả phù hợp
với nghiên cứu phân tích tổng hợp của Dorin và
cộng sự đánh giá về giá trị của nghiệm pháp
kích thích bằng cosyntropin, đề nghị ngưỡng
cortisol huyết tương đáp ứng với cosyntropin từ
18,1 ‐ 21,7 μg/dL (500 – 600 nmol/L) dùng để
đánh giá chẩn đoán suy thượng thận thứ phát,
cho độ đặc hiệu 95% và độ nhạy là 57%(2).
Nghiên cứu của chúng tôi đánh giá trên những
bệnh nhân dùng glucocorticoid dài hạn, khả
năng cao bị ức chế trục hạ đồi – tuyến yên –
thượng thận, do đó có thể chấp nhận dùng
ngưỡng cortisol cao và chẩn đoán dương tính
giả để không bỏ sót và ngưng quá sớm
glucocorticoid ở bệnh nhân chưa phục hồi chức
năng thượng thận. Nếu bệnh nhân bị chẩn đoán
là suy thượng thận thứ phát nhưng thực sự đã
phục hồi bình thường (dương tính giả) có thể
tiếp tục giảm liều glucocorticoid và bệnh nhân sẽ
được đánh giá lại thượng thận sau đó.
Nói chung, cho đến nay các nghiên cứu
trước và nghiên cứu của chúng tôi thấy ngưỡng
cortisol nền buổi sáng trong huyết tương khoảng
10 mcg/dL có một số hạn chế trong chẩn đoán
suy thượng thận. Nghiệm pháp Synacthen 250
mcg có thể dùng thuận tiện để chẩn đoán suy
thượng thận do thuốc glucocorticoid, thay vì
phải dùng nghiệm pháp hạ đường huyết bằng
insulin vẫn được xem là xét nghiệm chuẩn để
chẩn đoán suy thượng thận thứ phát(4).
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
8 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 544 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá suy chức năng thượng thận ở bệnh nhân dùng Glucocorticoid dài hạn bằng các nghiệm pháp động, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 4 * 2014 Nghiên cứu Y học
 69
ĐÁNH GIÁ SUY CHỨC NĂNG THƯỢNG THẬN Ở BỆNH NHÂN  
DÙNG GLUCOCORTICOID DÀI HẠN BẰNG CÁC NGHIỆM PHÁP ĐỘNG 
Trần Quang Nam*, Nguyễn Thy Khuê* 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Đánh giá suy thượng thận thứ phát trên bệnh nhân đang dùng glucocorticoid dài hạn bằng các 
nghiệm pháp động. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Thiết kế cắt ngang, thực hiện tại khoa Nội tiết, bệnh viện Nhân 
dân 115 từ 2/2009 tới 9/2012. Chọn bệnh nhân từ 16 tới 70 tuổi, đang dùng glucocorticoid dài hạn đang trong 
giai đoạn liều thấp duy trì, có chỉ định đánh giá chức năng vỏ thượng thận. Bệnh nhân được làm nghiệm pháp 
Synacthen tác dụng ngắn 250μg (đo cortisol huyết tương 0 phút trước, 30 phút và 60 phút sau tiêm Synacthen), 
sau đó ít nhất 3 ngày thực hiện nghiệm pháp hạ đường huyết bằng insulin. Tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán suy 
thượng thận dựa vào cortisol huyết tương tối đa < 18 mcg/dL trong nghiệm pháp hạ đường huyết bằng insulin. 
Kết quả: Có 101 bệnh nhân, tuổi trung bình 36 ± 12 năm, 66% là nữ. Tỉ lệ bệnh nhân suy thượng thận 
đánh giá bởi nghiệm pháp hạ đường huyết là 71%. Phân tích đường cong ROC của nồng độ cortisol huyết tương 
buổi sáng có diện tích dưới đường cong là 0,71 (95% KTC: 0,6‐0,8; p<0,0005). Ngưỡng điểm cắt của cortisol nền 
trong chẩn đoán suy chức năng vỏ thượng thận là 9,9 μg/dL, ở mức này sẽ cho độ nhạy là 64% và độ chuyên là 
72%. Nghiệm pháp Synacthen có diện tích dưới đường cong ROC (receiver operating characteristic) của cortisol 
huyết tương tối đa là 0,84 (95% KTC: 0,75 ‐ 0,90; p <0,0001) và điểm cắt cortisol huyết tương tối đa là 21,4 
μg/dL trong chẩn đoán suy thượng thận thứ phát với độ nhạy 78% và độ đặc hiệu 79%. 
Kết luận: Suy thượng thận thứ phát rất thường gặp trên bệnh nhân dùng glucocorticoid dài hạn với tỉ lệ là 
71%. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy cortisol huyết tương nền trong chẩn đoán suy thượng thận thứ phát có 
một số hạn chế. Nghiệm pháp synacthen tác dụng ngắn 250 μg có với ngưỡng cortisol huyết tương tối đa là 21,4 
μg/dL có giá trị dùng trong đánh giá chức năng thượng thận ở những người dùng glucocorticoid dài hạn trước 
khi ngưng thuốc. 
Từ khóa: Cortisol huyết tương, suy thượng thận, nghiệm pháp synacthen ngắn, nghiệm pháp hạ đường 
huyết bằng insulin 
ABSTRACT 
EVALUATION OF ADRENAL FUNCTION BY DYNAMIC TESTS  
IN LONG‐TERM GLUCOCORTICOID USERS  
Tran Quang Nam, Nguyen Thy Khue * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ No 4 ‐ 2014: 69 ‐ 76 
Objective: To assess secondary adrenal insufficiency in long‐term glucocorticoid users before withdrawal of 
glucocorticoid by using dynamic tests (Synacthen test and insulin hypoglycemia test). 
Method: Cross sectional study was conducted at People Hospital 115, Ho Chi Minh City from 2/2009 to 
2/2012. Long‐term glucocorticoid users from 16 to 70 years of age on low dose of glucocorticoid were recruited. 
All patients had adrenal function assessment. Synachten test (STT) 250 μg was performed first and then insulin 
hypoglycemia test (IHT) performed at  least 3 days later. Adrenal  insufficiency was defined as maximal plasma 
cortisol in IHT less than 18 μg/dL. The IHT was used as the ʹgold standardʹ in assessing the HPA axis. 
Results: 101 patients (66% female) had mean age of 36 ± 12 years. Proportion of adrenal insufficiency was 
71%. For diagnosis of secondary adrenal insufficiency, morning basal cortisol concentration had area under ROC 
curve of 0.71 (95% CI: 0.6‐0.8; p<0.0005) and cut off at 9.9 μg/dL (sensitivity of 64% and specificity of 72%. 
* Bộ Môn Nội Tiết, Đại Học Y Dược TP HCM  ** Bộ Môn Nội Tiết, Đại Học Y Dược TP HCM 
Tác giả liên lạc: ThS.BS Trần Quang Nam  ĐT: 0908386382   Email: tranqnam@yahoo.com 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 4 * 2014
 70
Synacthen  test was used  for diagnosis of secondary adrenal  insufficiency with area under ROC curve of 0.84 
(95% CI: 0.75‐0.90; p<0.0001) and maximal plasma cortisol cut off at 21.4 μg/dL with sensitivity of 78% and 
specificity of 79%.  
Conclusion: secondary adrenal insufficiency was very frequent at 71% in long‐term glucocorticoid users. 
Morning  basal  cortisol  concentration  had  some  limitations  in  assessing  adrenal  function. Maximal  plasma 
cortisol  value  of  21.4  μg/dL  as  cut‐off  in  short Synacthen  test  (250  μg) was valid  test  for  assessing  adrenal 
function. 
Keywords: Basal plasma cortisol, adrenal insufficiency, short synacthen test, insulin hypoglycemia test 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Một  trong  các  biến  chứng  quan  trọng  ở 
những bệnh nhân dùng glucocorticoid dài hạn là 
trục hạ đồi ‐ tuyến yên  ‐ thượng thận bị ức chế 
chức năng dẫn tới  làm giảm khả năng đáp ứng 
đối với các  tình  trạng stress  (như nhiễm  trùng, 
chấn thương, phẫu thuật) và bệnh nhân có thể 
rơi vào tình trạng nguy kịch nếu không được bù 
glucocorticoid kịp  thời(9). Đây  là  tình  trạng suy 
thượng  thận  thứ phát,  tần suất có  thể  thay đổi 
tùy  theo  nghiên  cứu  từ  56%  ‐77%(1,7,10).  Trước 
khi muốn  ngưng  thuốc  cần  đánh  giá  sự  hoạt 
động của vỏ thượng thận, tránh ngưng đột ngột 
có thể đưa đến nguy cơ suy thượng thận cấp.  
Mặc dù nghiệm pháp hạ đường huyết được 
xem là tiêu chuẩn vàng để khảo sát dự trữ trục 
HĐ‐TY‐TT, nhưng thực hiện phải mất nhiều thời 
gian, công sức và có chống chỉ định trong bệnh 
tim thiếu máu cục bộ, tiền căn động kinh. Do đó 
thường  bệnh  nhân  được  dùng  các  xét  nghiệm 
thay  thế. Xét  nghiệm  cortisol huyết  tương nền 
buổi sáng  ít có giá trị trong tiên đoán khả năng 
đáp ứng của thượng thận với kích thích. Nghiệm 
pháp  kích  thích  bằng  Synacthen  (ACTH)  được 
nhiều nghiên cứu cho thấy có thể gián tiếp đánh 
giá  trục  HĐ‐TY‐TT  ở  những  người  có  suy 
thượng thận thứ phát dài hạn. Nghiệm pháp này 
dựa  trên  cơ  sở  cho  rằng  giảm  ACTH 
(adrenocorticotropic  hormone)  kéo  dài  dẫn  tới 
teo  thượng  thận, do  đó  sẽ không  đáp  ứng với 
ACTH  ngoại  sinh. Về  lý  thuyết,  nghiệm  pháp 
ACTH 250 μg liều cao có thể gây âm tính giả, bỏ 
sót những trường hợp suy thượng thận thứ phát 
nhẹ, trong khi đó dùng liều thấp ACTH 1 μg sẽ 
nhạy hơn  trong  xác  định bệnh nhân bị  ức  chế 
nhẹ trục HĐ‐TY‐TT. Tuy nhiên, chưa rõ nghiệm 
pháp  ACTH  liều  thấp  hay  liều  cao  ưu  điểm 
hơn(2,8). Ngưỡng cortisol đáp ứng bình  thường 
với ACTH  trong nghiệm pháp  synacthen  cũng 
thay  đổi  tùy nghiên  cứu  từ 500  tới 600 nmol/L 
(từ 18,1 – 21,7 μg/dL).  
Ở Việt Nam cho tới nay chưa có báo cáo về 
đánh giá biến  chứng  của dùng glucocorticoid 
dài hạn  trên  trục hạ đồi  ‐  tuyến yên  ‐  thượng 
thận  bằng  cách dùng  các  nghiệm  pháp  động 
này. Do đó nghiên cứu này thực hiện để đánh 
giá  tình  trạng  suy  chức năng vỏ  thượng  thận 
do  dùng  glucocorticoid  dài  hạn  bằng  các 
nghiệm pháp động. 
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên  cứu  cắt  ngang,  được  tiến  hành  tại 
khoa nội tiết Bệnh Viện Nhân Dân 115, TP Hồ Chí 
Minh từ tháng 2 năm 2009 tới tháng 9 năm 2012. 
Đối tượng nghiên cứu 
Bệnh nhân đang dùng glucocorticoid dài hạn 
hoặc có tiền căn dùng glucocorticoid.  
Tiêu chuẩn chọn bệnh 
Các bệnh nhân tuổi từ 16 tới 70, đang dùng 
glucocorticoid kéo dài (>=2 tuần). 
Đang  dùng  liều  glucocorticoid  duy  trì 
tương đương hay thấp hơn prednisone từ 5 tới 
10 mg hoặc methylprednisolone 4 tới 8 mg mỗi 
ngày.  Liều  này  ổn  định  ít  nhất  2  tuần  trước 
nghiên cứu. 
Tiền căn dùng  thuốc nguồn gốc không rõ 
loại  (khả  năng  chứa  glucocorticoid)  có  biểu 
hiện Cushing (da mỏng, dễ bầm máu, vẻ mặt 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 4 * 2014 Nghiên cứu Y học
 71
Cushing....)  và  cortisol  huyết  thanh  buổi  
sáng thấp. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Dùng  glucocorticoid  dưới  2  tuần;  Đang  có 
bệnh lý cấp tính; Đang dùng liều glucocorticoid 
tấn  công  kiểm  soát  bệnh  lý  theo  chỉ  định; Có 
chống  chỉ  định  của  nghiệm  pháp  hạ  đường 
huyết bằng insulin (bệnh tim thiếu máu cục bộ, 
tiền căn động kinh); Đang dùng  thuốc có chứa 
estrogen; Chu kỳ thức ngủ thay đổi (ví dụ:  làm 
ca đêm). 
Bệnh nhân được giải thích về ý nghĩa nghiên 
cứu này và  đồng ý ký  tên vào bản  ưng  thuận 
tham gia vào nghiên cứu, sau đó mới tiến hành 
nghiên cứu. Nếu bệnh nhân dưới 18 tuổi phải có 
cha hoặc mẹ đồng ý ký tên vào bản ưng thuận. 
Bệnh nhân sẽ không phải trả chi phí khám bệnh 
và xét nghiệm liên quan tới nghiên cứu. 
Phương pháp chọn mẫu 
Được  tính  theo  công  thức  N=(Z2  1‐α/2  p(1‐
p))/d2. Trong đó Z1‐α/2=1.96; α=0.05; d= 0,1 và p là 
tỉ  lệ bệnh nhân dùng glucocorticoid dài hạn bị 
suy thượng thận thứ phát theo nghiên cứu dẫn 
đường  của  chúng  tôi  trên  29  bệnh  nhân  là 
65,5%(12). Dự tính thực tế có thể mất mẫu 10%, cỡ 
mẫu sẽ là 100 bệnh nhân 
Qui trình thực hiện nghiên cứu  
Sau khi dùng glucocorticoid kéo dài điều trị 
khi bệnh  lý  chính  đã  ổn  định bệnh nhân  được 
bác sĩ điều trị cho giảm liều và duy trì liều thấp. 
Nếu bệnh nhân thỏa tiêu chí chọn bệnh như trên 
và không có tiêu chuẩn loại trừ sẽ được đưa vào 
nghiên cứu. 
Các bệnh nhân được thu thập các đặc tính về 
lâm sàng và cận lâm sàng 
Tuổi (năm), giới tính. 
Bệnh lý chính có chỉ định glucocorticoid. 
Mạch,  huyết  áp  (mmHg),  cân  nặng  (kg), 
chiều cao (mét), vòng eo (cm).   
Biểu hình cushing: mặt tròn đỏ, da mỏng, dễ 
bầm máu, mập vùng trung tâm, rạn da, teo cơ. 
Đường huyết đói. 
Đánh giá chức năng thượng thận 
Trước khi đánh giá chức năng thượng thận, 
prednisone  hoặc methylprednisolone  sẽ  được 
ngưng sử dụng trong 48 giờ. Bệnh nhân sẽ nhịn 
đói qua đêm, cả 2 nghiệm pháp được bắt đầu 
trong khoảng từ 7‐10 giờ sáng. Mỗi bệnh nhân 
được làm cả 2 nghiệm pháp Synacthen liều 250 
μg  tác dụng ngắn  và nghiệm pháp hạ  đường 
huyết  bằng  insulin  thực hiện  vào  2 buổi  sáng 
khác nhau,  cách nhau  ít nhất 3 ngày. Nghiệm 
pháp  Synacthen  tác  dụng  ngắn  250  μg  được 
thực hiện vào 1 ngày, sau đó nghiệm pháp hạ 
đường huyết bằng insulin được tiến hành trong 
1 ngày khác. 
Nghiệm pháp Synacthen (ACTH tổng hợp) tác 
dụng ngắn 250μg 
Được thực hiện như sau: tiêm mạch 1 ống 
Synacthen  250μg  tác  dụng  ngắn.  Đo  cortisol 
huyết  tương nền vào  trước khi  tiêm  thuốc  (0 
phút), sau khi tiêm 30 phút và 60 phút. Căn cứ 
vào đáp ứng cortisol huyết tương tối đa trong 
nghiệm pháp Synacthen để đánh giá khả năng 
đáp  ứng  của  vỏ  thượng  thận  suy  chức  năng 
hay không. 
Nghiệm pháp hạ đường huyết bằng insulin 
Bắt  đầu  tiến  hành  vào  buổi  sáng  sau  khi 
nhịn đói qua đêm. Bệnh nhân nằm trên giường 
trong thời gian  làm nghiệm pháp, được bác sĩ 
và điều dưỡng theo dõi sát. Kim luồn được đặt 
vào tĩnh mạch ở hố phía trước khuỷu tay, sau 
đó  được  tiêm  mạch  insulin  người  tác  dụng 
nhanh Actrapid 0,1 IU/kg. Nếu bệnh nhân béo 
phì hoặc đái tháo đường típ 2 sẽ được cho liều 
insulin Actrapid  là  0,15  IU/kg  cân  nặng. Các 
biểu hiện  lâm sàng của hạ đường huyết được 
theo  dõi  sát  và  đo  đường  huyết  mao  mạch 
bằng máy  đo  tại  giường. Mẫu máu  được  lấy 
đo cortisol vào các thời điểm 0, 30, 60, 90, 120 
phút sau khi tiêm insulin. Nghiệm pháp được 
xem  là  đạt  yêu  cầu  khi  ghi  nhận  mức  hạ 
đường huyết dưới 45 mg/dL(3). Khi bệnh nhân 
có triệu chứng hạ đường huyết sẽ để kéo dài 5 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 4 * 2014
 72
phút và  sau  đó  tiêm mạch glucose  30%  40ml 
để bệnh nhân hết triệu chứng.  
Kết quả nghiệm pháp hạ đường huyết được 
xem là tiêu chuẩn vàng tham chiếu xác định suy 
chức năng vỏ thượng thận. Nghiệm pháp được 
gọi  là  âm  tính  (chức  năng  thượng  thận  bình 
thường) khi nồng độ cortisol tối đa (xác định là 
giá  trị  cortisol  tối  đa  sau  khi  có  kích  thích  hạ 
đường  huyết  dưới  45mg/dL)  trong  khi  làm 
nghiệm pháp ≥ 18 μg/dL. Nghiệm pháp dương 
tính  (suy vỏ  thượng  thận) khi nồng  độ cortisol 
tối đa trong khi làm nghiệm pháp < 18 μg/dL(11).  
Phương pháp đo cortisol huyết tương 
Phương pháp đo cortisol huyết tương dùng 
trong  nghiên  cứu  này:  nồng  độ  cortisol  huyết 
tương được bằng phương pháp miễn dịch vi hạt 
hóa  phát  quang  (Chemiluminescent 
microparticle  immunoassay)  với  hệ  thống máy 
Architect,  công  ty Abbott,  của Mỹ. Hệ  số  biến 
thiên  (coefficient  of  variation)  ở  từng mức  đo 
cortisol là 4% (ở mức cortisol là 2,9 μg/dL), 2,5% 
(ở mức cortisol là 39,8 μg/dL), và là 3,3% (ở mức 
cortisol  là 53,3 μg/dL. Xét nghiệm  thực hiện  tại 
Trung  tâm  chẩn  đoán y khoa MEDIC  đã  được 
cấp giấy chứng nhận của Trung tâm kiểm chuẩn 
xét nghiệm Thành phố Hồ Chí Minh. 
Phương pháp phân tích số liệu 
Số  liệu  được nhập vào Excel 2010 và xử  lý 
bằng  phần  mềm  Stata/SE  10.0  cho  Window. 
Cortisol huyết tương được trình bày dưới dạng 
trung bình (TB) ± độ lệch chuẩn (ĐLC). Các biến 
số liên tục có phân phối không chuẩn được trình 
bày bằng trung vị (tối thiểu, tối đa). So sánh giữa 
2 trung bình của 2 nhóm bằng phép kiểm t. Hệ 
số tương quan Pearson dùng đánh giá sự tương 
quan giữa 2 biến số liên tục có phân phối chuẩn. 
Dùng  phép  kiểm  tương  quan  Spearman  đánh 
giá tương quan nếu có biến số  liên tục có phân 
phối không  chuẩn. Xác  định  đường  cong ROC 
(the receiver operaring characteristics) cho giá trị 
cortisol  huyết  tương  nền  buổi  sáng  và  cortisol 
huyết  tương  tối  đa  trong  nghiệm  pháp 
Synacthen tác dụng ngắn 250μg trong đánh giá 
chức năng  thượng  thận, dùng nghiệm pháp hạ 
đường huyết bằng insulin làm tham chiếu. Phân 
tích được xem là có ý nghĩa thống kê khi p< 0,05. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU  
Đặc  điểm  chung  của  các bệnh nhân  tham gia 
nghiên cứu 
Có  101  bệnh  nhân dùng  glucocorticoid dài 
hạn có đủ tiêu chuẩn đưa vào nghiên cứu. Đặc 
điểm  của  các  bệnh  nhân  này  được  trình  bày 
trong bảng 1. Tuổi trung bình của dân số nghiên 
cứu  là 36±12 năm. Nữ giới chiếm 66%  (67/101). 
Đa  số bệnh nhân  đang dùng glucocorticoid do 
có chỉ định điều  trị bệnh  lý hội chứng  thận hư 
nguyên  phát  (57%),  lupus  đỏ  (21%)  và  viêm 
khớp dạng  thấp  (9%). Có một số bệnh nhân có 
tiền căn  sử dụng  thuốc không  rõ  loại  (11%) và 
xuất  hiện  các  biểu  hiện  lâm  sàng  gợi  ý  suy 
thượng thận do glucocorticoid ngoại sinh, do đó 
được  chỉ  định  đánh  giá  chức  năng  vỏ  thượng 
thận tiết cortisol. Các bệnh nhân tham gia nghiên 
cứu  có  liều glucocorticoid duy  trì  được  tính  ra 
liều tương đương prednisone có trung vị là 4 mg 
(tối thiểu là 2 mg, tối đa là 10mg).  
Bảng 1. Đặc điểm của nhóm bệnh nhân nghiên cứu 
Đặc điểm Kết quả 
Số bệnh nhân 101 
Tuổi (năm, TB+/- ĐLC) 36 ± 12 
Giới Nam 34 (34%) 
Nữ 67 (66%) 
BMI (kg/m2) 21,3 ± 3,2
Vòng eo (cm) 73,5 ± 8,9
Huyết áp tâm thu (mmHg) 117 ± 13 
Huyết áp tâm trương (mmHg) 72 ± 9 
Bệnh lý có chỉ 
định 
glucocorticoid 
Hội chứng thận hư 58 (57%) 
Lupus đỏ 20 (21%) 
Viêm khớp dạng thấp 9 (9%) 
Dùng thuốc không rõ loại 11 (11%) 
Khác (COPD, hen phế quản,
Giảm tiểu cầu vô căn) 
3 (3%) 
COPD: bệnh phổi tắc nghẽn mạn; BMI: chỉ số khối cơ thể 
=cân nặng (kg)/chiều cao (m)2; TB: trung bình; ĐLC: độ 
lệch chuẩn 
Kết  quả  của  nghiệm  pháp  hạ  đường  huyết 
bằng insulin 
Trong quá  trình  thực hiện nghiệm pháp hạ 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 4 * 2014 Nghiên cứu Y học
 73
đường huyết cho kết quả nồng độ cortisol huyết 
tương  trung bình vào  các  thời  điểm 0 phút, 30 
phút, 60 phút, 90 phút và 120 phút lần lượt là 9,5 
± 4,6  μg/dL  ; 9,8 ± 5,3  μg/dL; 14,1 ± 6,4  μg/dL; 
12,2  ± 5,9  μg/dL và 10,2  ±  5,7  μg/dL. Nồng  độ 
cortisol tối đa trung bình là 14,7 ± 6,5 μg/dL. Liều 
trung  vị  insulin  Actrapid  được  dùng  cho  các 
bệnh nhân là 5 IU (tối thiểu là 3,5 IU và tối đa là 
22  IU).  Có  89  bệnh  nhân  (88%)  dùng  1  liều 
actrapid và 12 bệnh nhân (12%) phải dùng 2 lần 
tiêm  mạch  actrapid  mới  đạt  được  mục  tiêu 
đường  huyết  hạ  thấp.  Quá  trình  thực  hiện 
nghiệm pháp ghi nhận 93 bệnh nhân  (92%)  có 
biểu hiện triệu chứng hạ đường huyết như đói, 
lạnh, vã mồ hôi, hoa mắt, chóng mặt, còn  lại 8 
bệnh nhân (9%) không có triệu chứng hạ đường 
huyết khi đường huyết hạ đạt mục tiêu.  
Kết quả nghiệm pháp hạ  đường huyết  cho 
thấy  tỉ  lệ  suy  chức  năng  vỏ  thượng  thận  (có 
cortisol tối đa <18 μg/dL sau kích thích hạ đường 
huyết)  do  glucocorticoid  dùng  dài  hạn  là  71% 
(72/101 bệnh nhân). 
Kết quả nghiệm pháp Synacthen tác dụng ngắn 
250μg  
Nồng độ cortisol huyết tương trung bình tại 
thời điểm 0 phút là 8,4 ± 4,7 μg/dL, tăng lên sau 
tiêm Synacthen tại thời điểm 30 phút là 17,5 ± 7,7 
μg/dL  và  tại  thời  điểm  60  phút  là  19,7  ±  8,7 
μg/dL. Nồng độ cortisol huyết tương tối đa sau 
khi  tiêm  synacthen  là  19,9  ±  8,7  μg/dL. Có  88 
bệnh nhân (87%) có cortisol đạt mức tối đa tại 60 
phút và 13 bệnh nhân (13%) có cortisol đạt mức 
tối đa tại 30 phút. Không có phản ứng phụ nào 
được ghi nhận trong quá trình làm nghiệm pháp 
synacthen ở các bệnh nhân nghiên cứu.  
So  sánh  đáp  ứng  tối  đa  của  cortisol  huyết 
tương  sau  tiêm  synacthen  250μg  cao hơn  có  ý 
nghĩa  so  với  đáp  ứng  cortisol  tối  đa  trong 
nghiệm pháp hạ đường huyết (19,9 μg/dL so với 
14,7 μg/dL; p<0,001). 
Giá  trị  chẩn  đoán  suy  chức  năng  vỏ  thượng 
thận  của  cortisol  huyết  tương  nền  buổi  sáng 
trong nghiệm pháp hạ đường huyết 
Nồng độ cortisol huyết tương nền buổi sáng 
và cortisol huyết  tương  tối đa được dùng phép 
biến  đổi  log10  trước khi phân  tích  tương quan 
tuyến tính. Chúng tôi xác định thấy có sự tương 
quan  giữa  log10  của  cortisol  huyết  tương  nền 
buổi sáng lúc 0 phút và log10 của cortisol huyết 
tương tối đa trong nghiệm pháp hạ đường huyết 
với hệ số r = 0,8 có ý nghĩa thống kê với p<0,001. 
Hình 1. Đường cong ROC của cortisol huyết tương 
buổi sáng trong chẩn đoán suy chức năng vỏ thượng 
thận thứ phát. (diện tích dưới đường cong = 0,71; 
95% KTC: 0,6‐0,8; p=0,0005) 
Lấy nghiệm pháp hạ đường huyết làm tham 
chiếu xác định có suy chức năng vỏ thượng thận 
hay không. Phân tích đường cong ROC của nồng 
độ  cortisol  huyết  tương  buổi  sáng  có  diện  tích 
dưới  đường  cong  là  0,71  (95%  KTC:  0,6‐0,8; 
p<0,0005). Kết quả cho thấy ngưỡng điểm cắt của 
cortisol nền  trong  chẩn  đoán  suy  chức năng vỏ 
thượng  thận  là 9,9 μg/dL, ở mức này  sẽ cho  độ 
nhạy  là  64%  và  độ  chuyên  là  72%.  Khi  dùng 
ngưỡng cortisol nền buổi sáng 9,9 μg/dL có  thể 
chẩn  đoán  suy  chức  năng  vỏ  thượng  thận  thứ 
phát với độ đúng là 64%.  
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 4 * 2014
 74
Giá  trị  chẩn  đoán  suy  chức  năng  vỏ  thượng 
thận  của  cortisol  huyết  tương  tối  đa  trong 
nghiệm pháp Synacthen 250 μg 
Chúng  tôi phân  tích  thấy có sự  tương quan 
giữa nồng độ cortisol huyết tương tối đa sau khi 
kích  thích  bằng  ACTH  trong  nghiệm  pháp 
Synacthen và nồng  độ  cortisol huyết  tương  tối 
đa trong nghiệm pháp hạ đường huyết với hệ số 
tương quan r = 0,71 với p<0,0001.  
Hình 2. Tương quan giữa cortisol tối đa trong 
nghiệm pháp (NP) Synacthen và cortisol tối đa trong 
nghiệm pháp hạ đường huyết. 
Phân  tích  đường  cong  ROC  của  nồng  độ 
cortisol huyết  tương  tối  đa  trong nghiệm pháp 
Synacthen 250 μg có diện tích dưới đường cong 
là 0,84 (95% KTC: 0,75‐0,90; p<0,0001) (hình 3).  
Hình  3.  Đường  cong  ROC  của  nghiệm  pháp 
Synacthen 250μg trong chẩn đoán suy chức năng vỏ 
thượng thận thứ phát. (diện tích dưới đường cong là 
0,84 (95% KTC: 0,75‐0,90; p<0,0001) 
Kết quả  cho  thấy  điểm  cắt  của  cortisol nền 
trong chẩn đoán suy chức năng vỏ thượng thận 
là 21,4 μg/dL, ở mức này sẽ cho độ nhạy là 78% 
và độ chuyên là 79%. Với ngưỡng cortisol tối đa 
21,4  μg/dL  sau  tiêm  synacthen  250  μg  có  thể 
chẩn  đoán  suy  chức năng vỏ  thượng  thận  thứ 
phát với độ đúng là 77%. (xem bảng 2) 
Bảng2. Kết quả của phân tích đường cong ROC của cortisol huyết tương tối đa trong nghiệm pháp synacthen 
ngắn 250 μg 
Cortisol huyết tương 
tối đa sau Synacthen (µg/dL) 
Độ nhạy (%) Độ chuyên (%) TSKD (+) TSKD (-) GTTĐ+ GTTĐ- 
10,3 22 100 0,78 100 34 
15,2 38 97 10,9 0,65 96 38 
18,5 60 86 4,3 0,47 92 46 
20,2 71 83 4,1 0,35 91 53 
21,4* 78 79 3,8 0,28 90 59 
22,4 79 69 2,6 0,3 86 57 
23 83 66 2,4 0,25 86 61 
28,2 96 38 1,5 0,11 79 79 
33 100 24 1,3 0 77 100 
TSKD: tỉ số khả dĩ; GTTĐ: giá trị tiên đoán 
BÀN LUẬN 
Chúng tôi đã khảo sát 101 bệnh nhân có chỉ 
định đánh giá chức năng vỏ thượng thận sau 1 
thời  gian  dài  dùng  glucocorticoid  hoặc  những 
bệnh  nhân  có  tiền  căn  dùng  thuốc  khả  năng 
chứa glucocorticoid và có triệu chứng gợi ý suy 
0
10
20
30
C
or
tis
ol
 to
ái ñ
a 
tro
ng
 N
P 
ha
ï ñ
öô
ønn
g 
hu
ye
át (
μg/
dL
)
0 20 40 60
Cortisol toái ña trong NP Synacthen (μg/dL)
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 4 * 2014 Nghiên cứu Y học
 75
chức năng vỏ thượng thận. Theo tác giả Hopkins 
and  Leinung  có  hướng  dẫn  cách  giảm  liều  và 
ngưng glucocorticoid sau  thời gian điều  trị kéo 
dài, trước khi ngưng nên đánh giá bằng cách đo 
cortisol  huyết  tương  nền  buổi  sáng  và  sau  đó 
nếu cần  sẽ dùng  thêm nghiệm pháp kích  thích 
bằng  (ACTH)  synacthen(6). Ở Việt Nam  cho  tới 
thời điểm hiện nay chưa có nghiên cứu nào đánh 
giá  thượng  thận  bằng  các  nghiệm  pháp  động 
được công bố.  
Tỉ  lệ  suy  chức  năng  vỏ  thượng  thận  71% 
trong nghiên  cứu  của  chúng  tôi  cũng phù hợp 
với các nghiên cứu  trước  trên bệnh nhân dùng 
glucocorticoid  uống  dài  hạn.  Đối  với 
glucocorticoid dùng đường uống với  liều dược 
lý  thời gian kéo dài, khi  đã giảm  liều  thấp  thì 
luôn thấy có suy chức năng vỏ thượng thận với 
thay  đổi  tùy  nghiên  cứu  từ  40%  tới 
65%(1,7).Chúng tôi thấy cortisol huyết tương nền 
buổi sáng có tương quan chặt với cortisol huyết 
tương tối đa trong nghiệm pháp hạ đường huyết 
bằng insulin. Phân tích đường biểu diễn đường 
cong ROC có diện tích dưới đường cong là 0,71 
và cho thấy ngưỡng cortisol huyết tương nền là 
9,9 mcg/dL có cho độ nhạy là 64% và độ chuyên 
là 72%. Có 36% âm giả, bệnh nhân vẫn còn suy 
chức  năng  vỏ  thượng  thận  thứ  phát  do 
glucocorticoid nhưng được xem  là bình  thường 
do  đó ngưng  thuốc  glucocorticoid  sớm,  không 
theo dõi thì bệnh nhân vẫn có nguy cơ suy chức 
năng vỏ thượng thận cấp nếu có stress cấp tính. 
Do đó, dùng cortisol nền buổi sáng đơn thuần có 
thể  không  đủ  tin  cậy  xác  định  chức  năng  của 
thượng  thận vì có  thể dẫn  tới chẩn đoán nhầm 
trong một số trường hợp giống như kết quả của 
các nghiên cứu trước đây của Hagg và Erturk(3,5). 
Do  đó  một  số  trường  hợp  cần  phải  làm  các 
nghiệm pháp động kích thích để xác định chẩn 
đoán  suy  thượng  thận  thứ phát. Nghiệm pháp 
Synacthen 250 μg được khuyến cáo có thể dùng 
thay  thế  nghiệm  pháp  hạ  đường  huyết  bằng 
insulin  để  đánh  giá  trục  hạ  đồi  ‐  tuyến  yên  ‐ 
thượng thận ở bệnh nhân có bệnh lý tuyến yên(2).  
Kết quả của chúng tôi cho thấy có mối tương 
quan có ý nghĩa giữa cortisol huyết tương tối đa 
trong nghiệm pháp synacthen và  trong nghiệm 
pháp  hạ  đường  huyết  bằng  insulin  (r=0,71  với 
p<0,0001). Điều này phù hợp với nghiên cứu của 
Kane và  cộng  sự  cho kết quả mối  tương quan 
chặt  chẽ  giữa  nồng  độ  cortisol  tối  đa  trong  2 
nghiệm pháp(7).  
Trong nghiên cứu của chúng tôi, phân tích 
đường biểu diễn ROC dựa  trên  tính  độ nhạy 
và độ đặc hiệu của từng ngưỡng cortisol huyết 
tương  tối  đa  sau  tiêm  Synacthen  250  μg  cho 
thấy diện  tích dưới  đường  cong ROC  là  0,84 
(95%  KTC:  0,75‐0,90;  p  <  0,0001),  do  đó  xét 
nghiệm  này  có  giá  trị  dùng  đánh  giá  dự  trữ 
trục HĐ‐TY‐TTT.  Cũng  tương  tự  các  nghiên 
cứu  trước  đây  cho  thấy  nghiệm  pháp  kích 
thích bằng ACTH liều cao trong chẩn đoán suy 
thượng thận thứ phát có diện tích dưới đường 
cong ROC từ 0,79– 0,9(2,8). 
Từ phân  tích biểu đồ ROC, điểm cắt  tối ưu 
của  cortisol  tối  đa  sau  synacthen  là 21,4  μg/dL 
cho  độ nhạy và  độ  chuyên  lần  lượt  là  78% và 
79%; độ đúng  là 77%. Tăng giá trị điểm cắt của 
cortisol  tối  đa  sau  tiêm  synacthen  độ  nhạy  sẽ 
tăng nhưng độ chuyên sẽ giảm. Ở ngưỡng điểm 
cắt 21,4 μg/dL này cho giá trị tiên đoán (+) là 90% 
và giá trị tiên đoán (‐) là 59%. Kết quả phù hợp 
với nghiên cứu phân tích tổng hợp của Dorin và 
cộng  sự  đánh  giá  về  giá  trị  của  nghiệm  pháp 
kích  thích  bằng  cosyntropin,  đề  nghị  ngưỡng 
cortisol huyết tương đáp ứng với cosyntropin từ 
18,1  ‐  21,7  μg/dL  (500  –  600  nmol/L)  dùng  để 
đánh giá chẩn đoán suy  thượng  thận  thứ phát, 
cho  độ  đặc  hiệu  95%  và  độ  nhạy  là  57%(2). 
Nghiên cứu của chúng tôi đánh giá trên những 
bệnh  nhân  dùng  glucocorticoid  dài  hạn,  khả 
năng  cao  bị  ức  chế  trục  hạ  đồi  –  tuyến  yên  – 
thượng  thận,  do  đó  có  thể  chấp  nhận  dùng 
ngưỡng  cortisol  cao  và  chẩn  đoán  dương  tính 
giả  để  không  bỏ  sót  và  ngưng  quá  sớm 
glucocorticoid ở bệnh nhân chưa phục hồi chức 
năng thượng thận. Nếu bệnh nhân bị chẩn đoán 
là suy  thượng  thận  thứ phát nhưng  thực sự đã 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 4 * 2014
 76
phục  hồi  bình  thường  (dương  tính  giả)  có  thể 
tiếp tục giảm liều glucocorticoid và bệnh nhân sẽ 
được đánh giá lại thượng thận sau đó. 
Nói  chung,  cho  đến  nay  các  nghiên  cứu 
trước và nghiên cứu của chúng tôi thấy ngưỡng 
cortisol nền buổi sáng trong huyết tương khoảng 
10 mcg/dL có một  số hạn chế  trong chẩn  đoán 
suy  thượng  thận. Nghiệm pháp  Synacthen  250 
mcg  có  thể dùng  thuận  tiện  để  chẩn  đoán  suy 
thượng  thận  do  thuốc  glucocorticoid,  thay  vì 
phải dùng nghiệm pháp hạ đường huyết bằng 
insulin  vẫn  được  xem  là  xét nghiệm  chuẩn  để 
chẩn đoán suy thượng thận thứ phát(4).  
KẾT LUẬN 
Suy  thượng  thận  thứ  phát  rất  thường  gặp 
trên bệnh nhân dùng glucocorticoid dài hạn với 
tỉ lệ là 71%. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy 
cortisol  nền  chẩn  đoán  suy  thượng  thận  có 
ngưỡng là 9,9 mcg/dL với độ nhạy là 64% và độ 
chuyên  là  72%.  Nghiệm  pháp  synacthen  tác 
dụng ngắn 250 μg trong chẩn đoán suy thượng 
thận  thứ  phát  ở  những  người  dùng 
glucocorticoid dài hạn trước khi ngưng thuốc có 
ngưỡng cortisol huyết tương tối đa sau nghiệm 
pháp  là  21,4  μg/dL  với  độ  nhạy  78%  và  độ 
chuyên 79%. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Desrame, J., Sabate, J. M., Agher, R., Bremont, C., Gaudric, M., 
Couturier,  D.,  et  al.  (2002).  Assessment  of  hypothalamic‐
pituitary‐adrenal axis function after corticosteroid therapy  in 
inflammatory bowel disease. Am  J Gastroenterol, 97(7), 1785‐
1791. 
2. Dorin, R. I., Qualls, C. R. & Crapo, L. M. (2003). Diagnosis of 
adrenal insufficiency. Ann Intern Med, 139(3), 194‐204. 
3. Erturk, E., Jaffe, C. A. & Barkan, A. L. (1998). Evaluation of the 
integrity of the hypothalamic‐pituitary‐adrenal axis by insulin 
hypoglycemia test. J Clin Endocrinol Metab, 83(7), 2350‐2354. 
4. Giordano  R,  Picu  A,  Bonelli  L  &  Balbo  M.  (2008). 
Hypothalamus–pituitary–adrenal  axis  evaluation  in patients 
with  hypothalamo–pituitary  disorders:  comparison  of 
different provocative tests. Clinical Endocrinology, 68, 935–941. 
5. Hagg,  E., Asplund, K. &  Lithner,  F.  (1987). Value  of  basal 
plasma cortisol assays  in the assessment of pituitary‐adrenal 
insufficiency. Clin Endocrinol (Oxf), 26(2), 221‐226. 
6. Hopkins, R. L. & Leinung, M. C. (2005). Exogenous Cushingʹs 
syndrome  and  glucocorticoid withdrawal.  Endocrinol Metab 
Clin North Am, 34(2), 371‐384. 
7. Kane,  K.  F.,  Emery,  P.,  Sheppard, M.  C. &  Stewart,  P. M. 
(1995). Assessing  the  hypothalamo‐pituitary‐adrenal  axis  in 
patients  on  long‐term  glucocorticoid  therapy:  the  short 
synacthen versus  the  insulin  tolerance  test. QJM, 88(4), 263‐
267. 
8. Kazlauskaite, R., Evans, A. T., Villabona, C. V., Abdu, T. A. 
M., Ambrosi, B., Atkinson, A. B., et al.  (2008). Corticotropin 
Tests  for  Hypothalamic‐Pituitary‐  Adrenal  Insufficiency:  A 
Metaanalysis.  Journal  of  Clinical  Endocrinology & Metabolism, 
93(11), 4245‐4253. 
9. Krasner,  A.  S.  (1999).  Glucocorticoid‐induced  adrenal 
insufficiency. JAMA, 282(7), 671‐676. 
10. Schlaghecke, R., Kornely, E., Santen, R. T. & Ridderskamp, P. 
(1992).  The  effect  of  long‐term  glucocorticoid  therapy  on 
pituitary‐adrenal  responses  to  exogenous  corticotropin‐
releasing hormone. N Engl J Med, 326(4), 226‐230. 
11. Stewart P. M. & Krone, N. P. (2011). The Adrenal Cortex. In 
Shlomo Melmed (Ed.), Williams Textbook of Endocrinology (12nd 
ed., pp. 479‐523): Saunders Elsevier. 
12. Tran Quang Nam & Nguyen Thy Khue. (2010). Comparision 
of short synacthen test (250 mcg) and insulin tolerance test for 
assessing  the  hypothalamo‐pituitary‐adrenal  function  in 
patients on  long‐term glucocorticosteroid.  Journal  of ASEAN 
Federation of Endocrine Societies, 25(Supplement 1), pp.23. 
Ngày nhận bài báo:       16/07/2014 
Ngày phản biện đánh giá bài báo:   03/08/2014 
Ngày bài báo được đăng:     30/08/2014 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
danh_gia_suy_chuc_nang_thuong_than_o_benh_nhan_dung_glucocor.pdf