Tác động của acetaminophen phụ thuộc vào
liều và thời gian phơi nhiễm thể hiện ở tỉ lệ
phôi chết cũng như mức độ nghiêm trọng và
phức tạp của những bất thường hình thái.
Chúng tôi cũng quan sát được mức độ nghiêm
trọng của dị dạng cũng gia tăng như phù nề lớn
hơn, tăng dị dạng hình thái đuôi và hoại tử Từ
bảng 1 cho thấy, chỉ số TI >1 tại tất cả các giai
đoạn đánh giá và kết quả này cũng tương đồng
với kết quả của Ingrid và cs [11]. Từ đó chúng
tôi đưa ra kết luận acetaminophen là chất có
ảnh hưởng đến quá trình phát triển hình thái
phôi cá ngựa vằn. Chỉ số TI tại thời điểm 48 giờ
(TI = 2,56) có giá trị lớn nhất trong các thời
điểm đánh giá. Kết hợp với sự giảm mạnh của
giá trị EC50 trong giai đoạn phơi nhiễm 24 - 48
giờ, ta nhận thấy acetaminophen tác động lớn
nhất vào hình thái ở giai đoạn hình thành và
phát triển cơ quan mà không phải ở giai đoạn
sau hoàn thiện. Bên cạnh đó, một số công bố
kết quả nghiên cứu cũng chứng minh tính độc
của acetaminophen lên sự phát triển cơ quan
như thận, khuyết tật ống tiền thận và gây độc
gan [3, 10]
7 trang |
Chia sẻ: huyhoang44 | Lượt xem: 823 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá tác động của Acetaminophen lên sự phát triển phôi cá ngựa vằn (Danio rerio), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 32, Số 1 (2016) 60-66
60
Đánh giá tác động của Acetaminophen lên sự phát triển
phôi cá ngựa vằn (Danio rerio)
Dương Thùy Linh, Hoàng Thị Mỹ Hạnh, Nguyễn Lai Thành*
Khoa Sinh, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc Gia Hà Nội,
334 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội, Việt Nam
Tóm tắt
Trong nhiều thập kỷ, acetaminophen là chất thuộc nhóm thuốc hạ nhiệt - giảm đau được sử dụng rộng rãi ở
nhiều đối tượng kể cả trẻ sơ sinh và phụ nữ mang thai. Tuy nhiên, chưa có những nghiên cứu chuyên sâu đánh
giá ảnh hưởng của acetaminophen lên sự phát triển của phôi thai. Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng phôi
cá ngựa vằn để đánh giá ảnh hưởng của acetaminophen lên sự phát triển từ giai đoạn sớm tới khi ấu thể kết thúc
giai đoạn tạo hình và hoàn thiện về hình thái. Giá trị TI thu được sau khi phơi nhiễm phôi cá ngựa vằn ở các
nồng độ khác nhau đều lớn hơn một. Bên cạnh đó, các bất thường về hình thái như phù màng noãn hoàng, phù
não, dị dạng đuôi, hoại tử, tụ máu và giảm sắc tố của ấu thể đã được quan sát. Kết quả thu được trong nghiên cứu
này cho thấy acetaminophen có ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình phát triển phôi cá ngựa vằn đặc biệt là khả
năng gây dị dạng.
Nhận ngày 26 tháng 9 năm 2015, Chỉnh sửa ngày 07 tháng 11 năm 2015, Chấp nhận đăng ngày 25 tháng 3 năm 2016
Từ khóa: Acetaminophen; độc tính; cá ngựa vằn; Danio rerio; dị dạng.
1. Đặt vấn đề *
Acetaminophen là thành phần chính của đa
số loại thuốc giảm đau - hạ sốt thương mại đang
được sử dụng. Theo số liệu năm 2008 của tổ
chức FDA, Mỹ, khoảng 24,6 tỉ liều
acetaminophen được sử dụng mỗi năm và có xu
hướng tăng [5]. Loại thuốc này được sử dụng
phổ biến, kể cả cho trẻ sơ sinh và phụ nữ mang
thai. Trong những năm vừa qua, đã có nhiều
nghiên cứu chỉ ra mức độ nguy hiểm khi sử
dụng quá liều acetamophen cũng như dùng
thuốc trong thời gian dài đặc biệt trong thời kỳ
mang thai. Tháng 10 năm 2013, các nhà khoa
học Canada, đã thống kê các trường hợp mang
thai từ năm 1999 đến năm 2008, kết luận rằng:
“Những đứa trẻ bị tiếp xúc lâu dài với
acetaminophen tại giai đoạn thai nhi cho thấy
_______
*
Tác giả liên hệ. ĐT.: 84-4-35588478
Email: thannl@vnu.edu.vn
những phát triển bất lợi về hành vi khi trẻ được
3 tuổi” [1]. Trong nghiên cứu mới công bố vào
tháng 2 năm 2014, các nhà khoa học Đan Mạch
đã thống kê trên 64.000 bà mẹ và trẻ em chỉ ra
rằng, những bà mẹ dùng acetaminophen trong
quá trình mang thai có ảnh hưởng đến triệu
chứng tăng động giảm chú ý (ADHD) của trẻ
nhỏ sau này [6].
Tuy nhiên, ảnh hưởng của acetaminophen
lên sự phát triển của phôi thai chưa có những
kết quả nghiên cứu thực sự rõ ràng do hạn chế
của phương pháp và đối tượng nghiên cứu trước
đây. Mô hình thử độc tính trên động vật có vú
bậc cao (như: chuột, thỏ, gà) là giải pháp
hiệu quả nhưng bị hạn chế bởi các vấn đề về
đạo đức nghiên cứu, ngân sách và thời gian.
Trong những thập niên gần đây, mô hình thử
độc trên phôi cá ngựa vằn (Danio rerio) khắc
phục những khó khăn trên (sinh sản nhanh, dễ
nuôi trong phòng thí nghiệm, 85% hệ gen tương
đồng với hệ gen người và quá trình phát triển
D.T. Linh và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 32, Số 1 (2016) 60-66 61
phôi tương tự như ở động vật bậc cao) [3, 4].
Năm 2009, công trình nghiên cứu của David và
cs đã chỉ ra ảnh hưởng của acetaminophen lên
sự phát triển của cá ngựa vằn ở giai đoạn sớm
(phôi vị), giai đoạn nở và giai đoạn ấu thể. Theo
những công bố trong bài báo, tác giả tập trung
đánh giá ảnh hưởng của acetaminophen ở nồng
độ thấp (từ 0 – 100 mg/l) và trường diễn (kéo
dài trong 7 ngày) thể hiện ở những kết quả quan
sát được ở giai đoạn phát triển phôi vị, mất sắc
tố và những dị dạng ở vây và đuôi trong giai
đoạn ấu thể [2]. Trong quá trình phát triển của
cá ngựa vằn, phôi cá được bao bọc bởi một lớp
màng phôi (chorion). Do đó, tại giai đoạn này,
phôi cá ngựa vằn chưa có sự tiếp xúc trực tiếp
với acetaminophen qua đường tiêu hóa như ở
giai đoạn ấu thể do đó sẽ là mô hình hữu ích mô
phỏng sự tiếp xúc thụ động với acetaminophen
của thai nhi. Trong nghiên cứu này, chúng tôi
đánh giá chuyên sâu ảnh hưởng của
acetaminophen ở nồng độ cao (từ 150 – 1200
mg/l) cũng như những ảnh hưởng của
acetaminophen tới sự hình thành các cơ quan
trong giai đoạn phát triển phôi cá ngựa vằn.
Những kết quả trong nghiên cứu này sẽ cung
cấp những minh chứng khoa học để cân nhắc sự
cần thiết phải đánh giá lại mức độ ảnh hưởng
của acetaminophen lên quá trình phát triển phôi
ở các đối tượng nghiên cứu có cấu trúc cơ thể
và quá trình phát triển gần với con người hơn
như ở các động vật có vú nhằm kiểm tra lại tính
an toàn của chất này lên sự phát triển phôi thai.
2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Cá ngựa vằn (Daino rerio) trưởng thành
được cung cấp bởi phòng thí nghiệm Công nghệ
Tế bào Động vật, Bộ môn Sinh học Tế bào,
khoa Sinh học, trường Đại học Khoa học Tự
nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội. Cá được nuôi
trong điều kiện 27 ± 1°C, 14 giờ sáng/10 giờ
tối, pH 7,0–7,2. Đầu chu kì sáng, cặp cá ngựa
vằn được giao phối trong 30 phút. Phôi được
thu và rửa trong dung dịch E3 (nước RO có bổ
sung NaCl, MgSO4, KCl, CaCl2) được chọn
dưới kính hiển vi để loại bỏ phôi chết, không
thụ tinh và bất thường ở giai đoạn từ 4-256 tế
bào tương ứng 1-3 giờ sau thụ tinh.
Acetaminophen (>99%, Sigma) được
pha trong dung dịch E3 với dải nồng độ tương
ứng: 150, 200, 250, 300, 400, 550, 700, 900,
1200 (mg/l). Phôi cá ngựa vằn được phơi nhiễm
mỗi nồng độ acetaminophen trên đĩa 24 giếng,
đối chứng âm được thay thế bằng dung dịch E3.
Các mẫu thí nghiệm sẽ được quan sát dưới kính
hiển vi và chụp ảnh các dị dạng bất thường thu
nhận được tại các thời điểm 24, 48, 72 và 96
giờ. Thí nghiệm được lặp lại ít nhất ba lần.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong nghiên cứu này, các tiêu chí đánh giá
thử độc tính dựa theo tiêu chuẩn OECD
(Organisation for Economic Co-operation and
Development) [8]. Phôi đạt yêu cầu được phơi
nhiễm với dải nồng độ acetaminophen khác
nhau, quan sát và ghi lại các kết quả về tỉ lệ
sống chết cũng như các dị dạng hình thái quan
sát được. Tỉ lệ dị dạng được tính theo tỉ lệ phôi
bất thường/ấu thể sống sót. Các chỉ tiêu để xác
định phôi dị dạng bao gồm: phù màng noãn
hoàng, phù não, phù mắt, phù màng bao tim,
mất sắc tố, dị dạng hình thái đuôi. Các dị dạng
hình thái xuất hiện ở các giai đoạn phát triển
khác nhau của phôi cá ngựa vằn. Hình thái
được so sánh với các mô tả trước đây của
Kimmel và cs [7]. Các chỉ tiêu để xác định phôi
chết gồm phôi đông tụ, không tách đuôi, không
hình thành thể tiết (24giờ), thiếu nhịp tim (từ 48
giờ đến 96 giờ). Từ các kết quả thử nghiệm,
chúng tôi tiến hành tính nồng độ gây chết 50%
(LC50), nồng độ gây dị dạng 50% (EC50), chỉ số
TI.
Chỉ số gây dị dạng TI (LC50/EC50) được sử
dụng nhằm đánh giá mức độ nhiễm độc của hóa
chất [12].
● TI > 1, hợp chất được coi là gây quái thai.
Tại đó nồng độ mà 50% cá ngựa vằn có bất
thường về phát triển thấp hơn nồng độ 50% hợp
chất gây chết.
● TI <1 hóa chất có ảnh hưởng chính là gây
chết.
● TI = 1, đánh giá độc tính phải được thực
hiện ở nồng độ LC50 chính xác để xác định dị
D.T. Linh và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 32, Số 1 (2016) 60-66
62
tật của cá ngựa vằn ở nồng độ đó. TI = 1 là khó
xảy ra.
Các phân tích thống kê gồm hồi quy, biểu
đồ, độ tin cậy được thực hiện với phần mềm
Graphpad Prism v.5.04.
3. Kết quả nghiên cứu
3.1. Ảnh hưởng của acetaminophen lên sức
sống phôi cá ngựa vằn
Để xác định độ độc của acetaminophen, các
đường cong đáp ứng liều tại 24 giờ, 48 giờ, 72
giờ, 96 giờ được xây dựng dựa trên tỉ lệ phôi
sống và tỉ lệ phôi dị dạng. Kết quả được thể
hiện ở hình 1.
Sau 24 giờ phơi nhiễm, acetaminophen ảnh
hưởng tới khả năng sống sót cũng như hình thái
của phôi và tăng dần theo nồng độ. Tại nồng độ
700 mg/l đã xuất hiện phôi chết, trong khi đó,
ảnh hưởng gây dị dạng được quan sát ở nồng độ
thấp hơn là 400 mg/l (Hình 1A). Sau 48 giờ
phơi nhiễm, ảnh hưởng của acetaminophen tăng
đáng kể so với thời điểm 24 giờ, thể hiện ở số
lượng phôi chết tăng lên (nồng độ 1200 mg/l số
lượng phôi chết đạt 74,3%) và nồng độ 250
mg/l đã xuất hiện dị dạng hình thái (Hình 1B).
Tại thời điểm đánh giá sau 72 giờ phơi nhiễm,
phôi chết chỉ bắt đầu được phát hiện thấy ở
nồng độ acetaminophen 550 mg/l nhưng tất cả
các phôi còn sống đều xuất hiện dị dạng. Kết
thúc thí nghiệm tại thời điểm phơi nhiễm 96
giờ, nồng độ 400 mg/l acetaminophen đã bắt
đầu làm một số phôi chết và tỷ lệ phôi chết tăng
theo chiều tăng nồng độ (hình 1D). Trong các
nồng độ phơi nhiễm, ngoài nồng độ 150 mg/l
không xuất hiện dị dạng, tất cả các nồng độ còn
lại đều có các phôi dị dạng và mức độ cũng như
tỷ lệ phôi dị dạng tỷ lệ thuận với nồng độ.
h
Hình 1: Đường cong đáp ứng liều với acetaminophen sau khi phơi nhiễm tại (A) 24 giờ,
(B) 48 giờ, (C) 72 giờ, (D) 96 giờ.
D.T. Linh và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 32, Số 1 (2016) 60-66 63
Từ những kết quả thu được từ tỷ lệ chết, tỷ
lệ dị dạng ở các nồng độ và thời gian phơi
nhiễm khác nhau, chúng tôi xác định được giá
trị LC50, EC50 thể hiện trong bảng 1. Kết quả
cho thấy giá trị TI (LC50/EC50) ở các khoảng
thời gian phơi nhiễm khác nhau đều lớn hơn 1.
Như vậy, acetaminophen có thể được xem là
một chất có khả năng gây dị dạng trên phôi cá
ngựa vằn.
Bảng 1: Các chỉ số LC50, EC50 và TI của
acetaminophen đối với phôi cá ngựa vằn trong các
khoảng thời gian phơi nhiễm khác nhau.
24 giờ 48 giờ 72 giờ 96 giờ
LC50
(mg/l)
- 935 800 700
EC50
(mg/l)
830 394 340 300
TI - 2,56 2,34 2,33
3.2. Ảnh hưởng của acetaminophen tới sự phát
triển hình thái của phôi cá ngựa vằn
Bên cạnh tác động tới khả năng sống sót
của phôi, acetminophen còn ảnh hưởng tới sự
phát triển hình thái của ấu thể. Chúng tôi quan
sát được nhiều dị dạng hình thái trong quá trình
phát triển của phôi ở các thời gian phơi nhiễm
khác nhau. Kết quả được thể hiện ở hình 2.
Phân tích các dị dạng hình thái phôi, chúng
tôi quan sát thấy một số dị dạng xuất hiện trong
suốt quá trình phát triển và hoàn thiện của cơ
quan như: phù màng noãn hoàn, phù màng bao
tim, mất sắc tố. Trong khi đó, một số dị dạng lại
xuất hiện sau khi các cơ quan đã hoàn thiện
như: phù não, phù mắt, hoại tử mắt.
t
Hình 2: Các dị dạng khi phơi nhiễm acetaminophen.
A: Đối chứng; B: Phù màng noãn hoàng (24 giờ); C: Hoại tử (48 giờ); D: Phù màng bao tim (72 giờ); E: Phù não
(96 giờ); F: Phù mắt (96 giờ); G: Mất sắc tố (96 giờ); H: Dị dạng hình thái đuôi (96 giờ); I: Hoại tử não (96 giờ).
Mũi tên: Điểm bất thường.
D.T. Linh và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 32, Số 1 (2016) 60-66
64
4. Thảo luận
Tác động của acetaminophen phụ thuộc vào
liều và thời gian phơi nhiễm thể hiện ở tỉ lệ
phôi chết cũng như mức độ nghiêm trọng và
phức tạp của những bất thường hình thái.
Chúng tôi cũng quan sát được mức độ nghiêm
trọng của dị dạng cũng gia tăng như phù nề lớn
hơn, tăng dị dạng hình thái đuôi và hoại tửTừ
bảng 1 cho thấy, chỉ số TI >1 tại tất cả các giai
đoạn đánh giá và kết quả này cũng tương đồng
với kết quả của Ingrid và cs [11]. Từ đó chúng
tôi đưa ra kết luận acetaminophen là chất có
ảnh hưởng đến quá trình phát triển hình thái
phôi cá ngựa vằn. Chỉ số TI tại thời điểm 48 giờ
(TI = 2,56) có giá trị lớn nhất trong các thời
điểm đánh giá. Kết hợp với sự giảm mạnh của
giá trị EC50 trong giai đoạn phơi nhiễm 24 - 48
giờ, ta nhận thấy acetaminophen tác động lớn
nhất vào hình thái ở giai đoạn hình thành và
phát triển cơ quan mà không phải ở giai đoạn
sau hoàn thiện. Bên cạnh đó, một số công bố
kết quả nghiên cứu cũng chứng minh tính độc
của acetaminophen lên sự phát triển cơ quan
như thận, khuyết tật ống tiền thận và gây độc
gan [3, 10].
Dựa trên kết quả phơi nhiễm với
acetaminophen, chúng tôi đã xác định rằng việc
tiếp xúc với acetaminophen trong 24 giờ đầu
tiên của phôi, đủ để gây ảnh hưởng lên sự phát
triển hình thái thể hiện ở phù màng noãn hoàng
(hình 2B). Trong các dị dạng thu được dị dạng
phù màng bao tim là dị dạng phổ biến nhất,
xuất hiện ở nhiều nồng độ cũng như trong suốt
thời gian phơi nhiễm. Ngoài ra, chúng tôi ghi
nhận những ảnh hưởng của acetaminophen lên hệ
tim mạch và hệ thần kinh như phù màng bao tim,
tụ máu, phù não, hoại tử não (Hình 2D, 2E, 2I).
Một số nghiên cứu đã công bố tác động của
acetaminophen lên sự phát triển của phôi cá
ngựa vằn thông qua chỉ số đánh giá TI, nhưng
chưa có những đánh giá về dị dạng hình thái
trong quá trình phát triển của phôi [11]. Tuy
nhiên nghiên cứu của chúng tôi đã đưa ra các
chỉ tiêu dị dạng chi tiết như: phù màng bao tim,
tụ máu, mất sắc tố Như vậy, trong nghiên
cứu này, chúng tôi đã xác định được chính xác
các dị dạng cũng như mức độ ảnh hưởng của
acetaminophen lên giai đoạn phát triển sớm của
phôi cá ngựa vằn.
Những kết quả thí nghiệm này cho thấy,
nếu bị phơi nhiễm ở nồng độ cao hoặc kéo dài
trong quá trình phát triển thì phôi cá ngựa vằn
sẽ có những dị dạng ở nhiều bộ phận và ở các
mức độ khác nhau. Mặc dù nồng độ
acetaminophen thí nghiệm cũng như thời gian
phơi nhiễm có thể cao hơn nhiều so với thực tế
sử dụng thuốc ở trên người, và đối tượng
nghiên cứu thuộc nhóm động vật bậc thấp hơn
so với con người, nhưng kết quả này cũng phần
nào chỉ ra được những bất thường có thể xuất
hiện trong giai đoạn phôi của các động vật khác
vì các động vật bậc cao hơn cá cũng có những
giai đoạn phát triển sớm tương đồng với phôi
cá, như quá trình phát triên phôi người cũng trải
qua giai đoạn có khe mang, hình thành đuôi, có
túi noãn hoàng... Những tác động mạnh lên cấu
trúc thần kinh như não hoặc các tế bào có
nguồn gốc thần kinh như tế bào sắc tố cho thấy
đây là những cơ quan, tế bào có tính nhạy cảm
cao với acetaminophen. Có thể các thử nghiệm
đánh giá chức năng sẽ giúp xác định được mức
độ tác động lên chức năng của cơ quan, đặc biệt
là cơ quan thần kinh.
5. Kết luận
Trong nghiên cứu này, chúng tôi tiến hành
các thí nghiệm nghiên cứu nhằm xác định mối
liên hệ đáp ứng liều giữa tỉ lệ sống chết và tỉ lệ
dị dạng cũng như xác định chỉ số TI. Từ kết quả
thu được, chúng tôi bước đầu kết luận
acetaminophen có ảnh hưởng tới quá trình phát
triển phôi cá ngựa vằn đặc biệt là khả năng gây
dị dạng.
D.T. Linh và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 32, Số 1 (2016) 60-66 65
Lời cảm ơn
Kinh phí thực hiện nghiên cứu này được tài
trợ bởi đề tài TN.15.13.
Tài liệu tham khảo
[1] Brandlistuen R.E., Ystrom E., Nulman I.,
Koren G., and Nordeng H., “Prenatal
paracetamol exposure and child
neurodevelopment: a sibling-controlled cohort
study”, International Journal of Epidemiology,
(2013) 1.
[2] David A., Pancharatna K., “Effects of
acetaminophen (paracetamol) in the embryonic
development of zebrafish, Danio rerio”, Journal
Apply Toxicology, 29 (2009) 597.
[3] Driessen M., Kienhuis A.S., Pennings J.L.,
Pronk T.E., van de Brandhof E.J.,
Roodbergen M., Spaink H.B., van de Water
B., van de Ven LT., "Exploring the zebrafish
embryo as an alternative model for the
evaluation of liver toxicity by histopathology
and expression profiling”, Archives of
toxicology, 87 (2013) 807.
[4] Howe K., Clark M.D., Toroja C.F., Torrance
J., Berthelot C., Muffato M., Collins J.E.,
Humphray S., McLaren K., Matthews, L.,
McLaren S., Sealy I., Caccamo M., Churcher
C., Scott C., Barett J.C., Koch R., Rauch G.J.,
White S., Chow W., Kilian B., Quintais L.T.,
Guerra-Assuncão J.A., Zhou Y., Gu Y., Yen
J., Vogel J.H., Eyre T., Redmond S., Banerjee
R., Chi J., Fu B., Langley E., Maguire S.F.,
Laird G.K., Lloyd D., Kenyon E., Donaldson
S., Sehra H., Almeida-King J., Loveland J.,
Trevanion S., Jones M., Quail M., Willey D.,
Hunt A., Burton J., Sims S., McLay K., Plumb
B., Davis J., Clee C., Oliver K., Clark R.,
Riddle C., Elliott D., Theadgold G., Harden
G., Ware D., Begum S., Mortimore B., Kerry
G., Heath P., Phillimore B., Tracey A., Corby
N., Dunn M., Johnson C., Wood J., Clark S.,
Pelan S., Griffiths S., Smith M., Glithero R.,
Howden P., Barker N., Lloyd C., Stevens C.,
Harley J., Holt K., Panagiotidis G., Lovell J.,
Beasley H., Henderson C., Gordon D., Auger
K., Wright D., Collins J., Raisen C., Dyer L.,
Leung K., Roberson L., Ambridge K.,
Leongamornlert D., McGuire S., Gilderthorp
R., Griffiths C., Manthravadi D., Nichol S.,
Barker G., Whitehead S., Kay M., Brown J.,
Murnane C., Gray E., Humphries M.,
Sycamore N., Barker D., Saunders D., Wallis
J., Babbage A., Hammond S., Mashreghi-
Mohammadi M., Barr L., Martin S., Wray P.,
Ellington A., Matthews N., Ellwood M.,
Woodmansey R., Clark G., Cooper J.D.,
Tromans A., Grafham D., Skuce C., Pandian
R., Andrew R., Harrison E., Kimberley A.,
Garnett J., Fosker N., Hall R., Garner P.,
Kelly D., Bird C., Palmer S., Gehring I.,
Berger A., Dooley C.M., Eran-Urun Z., Eser
C., Geiger H., Geisler M., Karotki L., Kirn A.,
Konantz J., Konantz M., Oberlander M.,
Rudolph-Geiger S., Teucke M., Lanz C.,
Raddatz G., Osoegawa K., Zhu B., Rapp A.,
Widaa S., Langford C., Yang F., Schuster
S.C., Carter N.P., Harrow J., Ning Z., Herroro
J., Searle S.M.J., Enright A., Geisler R.,
Plasterk R.H.A., Lee C., Westerfield M., Jong
P.J., Zon L.I., Postlethwait J.H., Nusslein-
Volhard C., Hubbard T.J.P., Crollius H.R.,
Rogers J. and Stemple D.L., "The zebrafish
reference genome sequence and its
relationship to the human genome”, Nature,
496 (2013) 498.
[5]
rmationbydrugclass/Ucm165107.
[6] Blaser, J.A. and Allan G.M.,
"Acetaminophen in pregnancy and future risk
of ADHD in offspring", Le Médecin de
famille canadien, 60 (2014) 642.
[7] Kimmel, C.B., Ballard W.W., Kimmel S.R.,
Ullmann B., and Schilling T.F., “Stages of
embryonic development of the zebrafish”,
Developmental dynamics, 203 (1995) 253.
[8] OECD (2013) Test No. 236: Fish Embryo
Acute Toxicity (FET) Test, OECD
Guidelines for the Testing of Chemicals,
Section 2, OECD Publishing
[9] Parng, C., Seng W.L., Semino C., and
Mcgrath P. (2002), “Zebrafish: a preclinical
model for drug screening”, Assay and drug
development technologies, 1 (2002) 41.
[10] Peng, H.-C., Wang Y.-H., Wen C.-C., Wang
W.-H., Cheng C.-C., and Chen Y.-H.,
D.T. Linh và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 32, Số 1 (2016) 60-66
66
“Nephrotoxicity assessments of
acetaminophen during zebrafish
embryogenesis”, Comparative Biochemistry
and Physiology Part C: Toxicology &
Pharmacology, 151 (2010) 480.
[11] Selderslaghs, I.W., Blust R., and Witters
H.E., “Feasibility study of the zebrafish
assay as an alternative method to screen for
developmental toxicity and embryotoxicity
using a training set of 27 compounds”,
Reproductive Toxicology, 33 (2012) 142.
[12] Selderslaghs I.W., VanRompaya A., Coenb W.D.,
and Wittersa H.E., “Development of a screening
assay to identify teratogenic and embryo toxic
chemicals using the zebrafish embryo”,
Reproductive Toxicology, 28 (2009) 308.
Effects of Acetaminophen on Embryonic Development in
a Model of Zebrafish (Danio Rerio)
Duong Thuy Linh, Hoang Thi My Hanh, Nguyen Lai Thanh
Biology Faculty, VNU University of Science, Vietnam National University,
334 Nguyen Trai, Thanh Xuan, Hanoi, Vietnam
Abstract: For many decades, acetaminophen has been widely used as an anti-pyretic, analgesic
for almost all groups of patients, including infants and pregnant women. However, there has been
hardly any in-depth study assessing the effects of acetaminophen on embryonic development. In this
study, we employed a model of Zebrafish at early and laval stages to study the effects of acetminophen
on the embryo development. The zebrafish embryos were exposed to acetaminophen 2 hours after
fertilization until 96 hours of larval stage. The TI (index of malformation) of acetaminophen was drastically
higher than the control in all treatments. Moreover, various kinds of malformation, including yolk sac
edema, heart edema, head edema, curved tail, necrosis as well as hypopigmentation, were observed. Based
on these evidences, we concluded that acetaminophen might induce drastical impact on the development of
zebrafish embryos, probably the major cause for malformation.
Keywords: Acetaminophen, toxicity, zebrafish, Danio rerio, malformation.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1303_1_2544_1_10_20160711_6707.pdf