Chỉ số LVI ở vùng phía nam TP Hồ Chí Minh cho thấy
khả năng tổn thương giảm dần theo các yếu tố chính lần lượt
là tự nhiên (0,470), con người (0,388), vật chất (0,359), xã hội
(0,308) và tài chính (0,247).
Giá trị tổn thương sinh kế của vùng phía nam TP là 0,354 và
giá trị này cho thấy mức độ tổn thương không quá cao nhưng
cũng phải chú ý trong thời gian tới.
Hạn chế của phương pháp đánh giá mức độ tổn thương sinh
kế dựa vào chỉ số LVI là việc lựa chọn các yếu tố phụ và mối
liên quan giữa yếu tố phụ và các yếu tố chính là chưa được chi
tiết và thống nhất. Ngoài ra, việc khảo sát trên diện rộng với
khoảng 10 phiếu/phường, xã cũng gặp một số hạn chế và chưa
có đánh giá trọng số cho các chỉ số tính toán cho tổn thương
sinh kế.
Nhằm đánh giá toàn diện và chi tiết, chính xác về tổn
thương sinh kế do tác động của BĐKH cần thống nhất và chi
tiết hóa các yếu tố cho tính toán chỉ số tổn thương sinh kế. Để
tăng khả năng ứng phó với BĐKH, cần tăng nguồn vốn xã hội
và nguồn vốn vật chất nhằm góp phần giảm chỉ số tổn thương
sinh kế. Nâng cao khả năng thích ứng với BĐKH của người
dân nhằm giảm các tác động của thảm họa thiên nhiên, giảm
sự phơi nhiễm của các yếu tố BĐKH.
Trong các địa phương vùng phía nam của TP Hồ Chí Minh
chịu tác động của BĐKH thì Nhà Bè là địa phương có chỉ số
tổn thương sinh kế cao nhất với LVI = 0,452 (cao hơn mức
trung bình), mà nguyên nhiên chính là do đặc điểm địa hình
thấp, do đó cần đầu tư các công trình chống ngập, thoát nước
4 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 734 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá tác động của BĐKH đến tổn thương sinh kế người dân TP Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1960(4) 4.2018
Khoa học Xã hội và Nhân văn
Mở đầu
Phía nam TP Hồ Chí Minh được xét trong nghiên cứu (gồm
các quận 7, quận 8, Bình Tân và các huyện Bình Chánh, Nhà
Bè. Do đặc điểm địa lý, huyện Cần Giờ có một vị trí biệt lập
và có mật độ dân số rất thấp - 106 người/km2 nên không được
xét trong nghiên cứu này) là vùng đang phát triển mạnh mẽ,
với tốc độ gia tăng dân số gấp 2 lần so với mức chung của TP.
Ở vùng này, mặc dù diện tích đất tự nhiên lớn (969,86 km2,
chiếm đến 46,3% diện tích tự nhiên của TP), nhưng dân số chỉ
chiếm khoảng 26,0% (2.098.484 người), nên khả năng phát
triển về dân số là rất lớn [1]. Kết quả thống kê cho thấy, mức
tăng dân số giai đoạn 2004-2014 [2] dao động trong khoảng
2,77-11,63%, trung bình 5,17%/năm. Đây là vùng đất mới phát
triển mạnh về kinh tế - xã hội, nhất là sự phát triển về dân số
và các khu dân cư. Sự gia tăng dân số cao này có nguyên nhân
chính là do sự gia tăng dân số cơ học với tốc độ tăng cao gấp
2 lần so với tốc độ gia tăng dân số trung bình toàn vùng trong
5 năm (2006-2011).
Vùng phía nam TP Hồ Chí Minh là một vùng nhạy cảm với
BĐKH, kể cả về tự nhiên và xã hội khi so với các tiêu chí về
tác động tiềm tàng của BĐKH đối với phát triển hạ tầng ở châu
Âu [3]. Theo phân bố địa hình khu vực TP Hồ Chí Minh, vùng
phía nam (Nhà Bè, quận 7, nam Bình Chánh) là vùng đất trũng,
có cao trình thay đổi trong khoảng 0,8-1,5 m và vùng nam Nhà
Bè có cao trình khoảng 0,3-2,0 m [4]. Đây là vùng đồng bằng
ngập triều hoặc ngập lũ do ảnh hưởng thủy triều (trừ các dải
đất có dân cư với cao độ địa hình đến +3,0 m) và như vậy có
đến gần 100% diện tích vùng Nhà Bè - nam Bình Chánh thuộc
vùng đất trũng có độ cao < 2,0 m. Những khu dân cư thuộc khu
vực này được xem là khu dân cư nhạy cảm với BĐKH, gồm
các nhóm dân cư chiếm tỷ trọng lớn như trẻ em (18,9-23,0%),
người già (0,91-1,0%), người nghèo (8,0-30,0%), người kém
về thể chất (chiếm 26,0% dân số), người nhập cư (15,0%)
Do đó việc đánh giá tác động của BĐKH đến tổn thương sinh
kế là cần thiết.
Để có thể nhận dạng được mức độ tác động của BĐKH đến
sinh kế người dân ở vùng phía nam TP, nghiên cứu đã sử dụng
chỉ số tổn thương sinh kế dựa vào các nguồn vốn cơ bản theo
DFID [5] và dựa vào các chỉ báo được đề xuất bởi Ngân hàng
Thế giới (WB) [6] và Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) [7].
Bài viết dựa trên kết quả của đề tài “Nghiên cứu đánh giá
ảnh hưởng của BĐKH đến các khu dân cư vùng phía nam
TP Hồ Chí Minh” được thực hiện từ tháng 7/2015 đến tháng
7/2017.
Nội dung và phương pháp
Thu thập thông tin về tác động của BĐKH đến khu dân
cư vùng phía nam
Sử dụng phương pháp khảo sát thực địa để thu thập thông
tin về tác động do BĐKH đến các khu dân cư và cư dân. Cụ
thể, sử dụng phiếu khảo sát với 41 câu hỏi để thu thập thông tin
về tác động do BĐKH đến các khu dân cư và dân cư. Các mẫu
phiếu được lập theo mục đích thu thập thông tin với các chỉ thị
tương ứng với yêu cầu đánh giá tổn thương do BĐKH. Sau khi
khảo sát, đánh giá sơ bộ, kết quả được nhập dữ liệu và xử lý
thống kê bằng phần mềm SPSS và excel.
Lựa chọn thông số cho xây dựng chỉ số tổn thương sinh
kế
Nghiên cứu này đã sử dụng Khung sinh kế bền vững gồm
5 nguồn vốn sinh kế được đề xuất bởi DFID [5] và tham khảo
Đánh giá tác động của BĐKH
đến tổn thương sinh kế người dân TP Hồ Chí Minh
Nguyễn Thị Minh Hòa1*, Nguyễn Phú Bảo2
1Trường Đại học Lao động - Xã hội
2Viện Nhiệt đới môi trường
Ngày nhận bài 11/1/2018; ngày chuyển phản biện 22/1/2018; ngày nhận phản biện 15/3/2018; ngày chấp nhận đăng 20/3/2018
Tóm tắt:
Vùng phía nam TP Hồ Chí Minh do đặc điểm tự nhiên là vùng đất thấp (trên 80% diện tích đất có độ cao dưới 2,0 m so
với mực nước biển) nên chịu tác động mạnh của biến đổi khí hậu (BĐKH), nhất là nước biển dâng đã ảnh hưởng lớn đến
sinh kế của người dân. Với mục tiêu đánh giá mức độ tổn thương sinh kế do BĐKH, nghiên cứu đã sử dụng phương pháp
tính chỉ số tổn thương sinh kế (livelihood vulnerability index - LVI) được đề xuất bởi Hahn và cộng sự dựa trên các tiêu
chí của Bộ Phát triển quốc tế Anh (DFID) để đánh giá. Kết quả tính toán cho thấy, chỉ số tổn thương sinh kế cho cả vùng
là thấp (LVI = 0,354) nhưng huyện Nhà Bè có LVI ở mức trung bình (LVI = 0,452). Các quận/huyện khác có chỉ số tổn
thương sinh kế thấp (LVI từ 0,314 đến 0,360). Điều này cho thấy, tác động của BĐKH đến sinh kế người dân vùng nội
thành là chưa nhiều, nhưng đáng kể ở vùng ngoại thành (huyện Nhà Bè).
Từ khóa: Biến đổi khí hậu, nguồn vốn, tổn thương sinh kế.
Chỉ số phân loai: 5.4
*Tác giả liên hệ: Email: nguyenthiminhhoa1212@yahoo.com
2060(4) 4.2018
Khoa học Xã hội và Nhân văn
WB, ADB [6, 7], gồm: i) Vốn tự nhiên: Dựa vào các yếu tố
thảm họa thiên nhiên và sự phơi nhiễm của BĐKH theo kịch
bản BĐKH cho TP Hồ Chí Minh [8] và các tài liệu liên quan
về diễn biến khí hậu của TP [7, 9]; ii) Vốn con người: Dựa vào
yếu tố đặc điểm dân số và sức khỏe [6, 7]; iii) Vốn vật chất:
Dựa vào các yếu tố tác động của cơ sở hạ tầng đến khả năng
ứng phó với BĐKH (thoát nước, ngập úng, giao thông) và hiện
trạng sở hữu đất đai [6, 7]; iv) Vốn xã hội: Dựa vào các yếu tố
góp phần cho sự ảnh hưởng đến khả năng ứng phó với BĐKH
thông qua các chi phí xã hội trực tiếp như tiêu tốn năng lượng,
cấp nước và các quan hệ xã hội [7]; v) Vốn tài chính: Dựa vào
yếu tố thu nhập của từng hộ [10].
Xây dựng chỉ số tổn thương sinh kế (LVI) do tác động của
BĐKH đến khu dân cư vùng phía nam
Hiện nay, để nghiên cứu ảnh hưởng của những yếu tố khác
nhau đến sinh kế của con người, có hai cách tiếp cận đối với
chỉ số tổn thương sinh kế (LVI): (1) Cách thứ nhất thể hiện
LVI như là một chỉ số hỗn hợp bao gồm 7 yếu tố chính: Đặc
điểm hộ, chiến lược sinh kế, mạng lưới xã hội, sức khỏe, lương
thực, nguồn nước, thảm họa thiên nhiên và thay đổi khí hậu.
Mỗi yếu tố chính bao gồm một vài chỉ báo hoặc yếu tố phụ;
(2) Cách thứ hai tập hợp 7 yếu tố chính này vào trong 3 tác
nhân “đóng góp” theo định nghĩa khả năng bị tổn thương của
Ủy ban Liên chính phủ về BĐKH (IPCC) đối với khả năng tổn
thương là sự “hứng chịu”, sự nhạy cảm/tính dễ bị tổn thương
và khả năng thích ứng, gọi là LVI-IPCC. Do vậy, để “hoàn
chỉnh” nghiên cứu, thông thường các tác giả đều tính LVI và
LVI-IPCC. Trong khuôn khổ bài báo này, đối tượng được đánh
giá tác động của BĐKH là khu dân cư và cư dân, tập trung vào
sự tổn thương sinh kế nên phương pháp đánh giá bằng chỉ số
LVI được lựa chọn.
Phương pháp xây dựng chỉ số LVI (Livelihood
Vulnerability Index): Được tính toán theo phương pháp mô
phỏng của Hahn và cộng sự [11] đã được công nhận bởi IPCC
với các thông số về BĐKH liên quan đại diện [9].
index
sp
= (Sp - Smin)/(Smax - Smin) (1)
Trong đó: Sp là chỉ số gốc đại diện cho từng quận/huyện;
Smin và Smax lần lượt là những giá trị nhỏ nhất và lớn nhất đối
với mỗi tiêu chí.
Sau khi được chuẩn hóa, mỗi tiểu hợp phần sẽ được tính
trung bình để tính toán giá trị của mỗi hợp phần chính:
Mp = Σ
i=1
index
spi
/n (2)
Trong đó: Mp là 1 trong 10 tiêu chí chính được đánh giá;
index
spi
thể hiện cho yếu tố phụ, chỉ số yếu tố phụ theo yếu tố
chính i; n là tổng số yếu tố phụ trong một tiêu chí chính.
Chỉ số LVI cho cấp độ quận/huyện:
LVIp = (Σ
i=1
WMiMpi / Σi=1 WMi ) (3)
LVIp là chỉ số tổn thương sinh kế của quận/huyện tương
ứng; WMi được xác định bởi số yếu tố phụ của một tiêu chí
chính (chỉ số LVI nằm trong khoảng 0,0 đến 1,0, từ ít đến tổn
thương nhiều nhất). Các yếu tố được xác định theo tiêu chí của
WB [6] và ADB [7] về các đối tượng chịu tác động của BĐKH.
Kết quả và thảo luận
Các tác động của BĐKH đến khu dân cư vùng phía nam
TP Hồ Chí Minh
Để đánh giá đúng về hiện trạng tác động của BĐKH đến
các khu dân cư, phương pháp khảo sát được sử dụng là phương
pháp ngẫu nhiên đơn giản. 1.100 hộ dân được khảo sát bởi sự
giới thiệu và cùng tham gia của đại diện địa phương. Số hộ
được phỏng vấn ở quận 7 là 160, Nhà Bè là 120, quận 8 là 300,
Bình Tân là 200 và Bình Chánh là 320, trong đó 900 hộ được
khảo sát bằng phiếu và 200 hộ được phỏng vấn sâu.
Đối tượng tham gia tham vấn đa phần có độ tuổi khá trẻ
(tuổi trung bình khoảng 40 tuổi, lớn tuổi nhất là 71, trẻ nhất là
19 tuổi) và có học thức (trình độ văn hóa trung bình là 11,56/12,
cao nhất là trên đại học). Những người được phỏng vấn đều đã
The impact of climate change
to the vulnerability of people’s livelihood
in Ho Chi Minh City
Thi Minh Hoa Nguyen1*, Phu Bao Nguyen2
1Univertity of Labour and Social Affairs (ULSA)
2Tropical Environmental Institute
Received 11 January 2018; accepted 20 March 2018
Asbtract:
The southern area of Ho Chi Minh City consists of District
7, District 8, Binh Tan, Binh Chanh and Nha Be districts.
Since it is naturally characterized as a low land area (more
than 80% of the area has an altitude of 2.0 m below sea
level), it is strongly influenced by climate change, especially
sea level rise, which has a lot of effects on the people’s
livelihood. With the goal of assessing the level of livelihood
vulnerability due to climate change, the research has
applied the method of calculating livelihood vulnerability
index recommended by Hahn and his coworkers based on
the criteria of DFID for the assessment. The calculation
shows that the livelihood vulnerability index for the whole
area is low (LVI = 0.354), but medium for Nha Be district
(LVI = 0.452). The other districts have low livelihood
vulnerability index (LVI is from 0.314 to 0.360). This shows
that the impacts of climate change on the livelihood of
people living inner Ho Chi Minh City are not many, but
that of people the suburbs (Nha Be district) is significant.
Keywords: Capital, climate change, livelihood vulnerability.
Classificaiton number: 5.4
2160(4) 4.2018
Khoa học Xã hội và Nhân văn
được qua đào tạo (từ sơ cấp trở lên chiếm 79%), chứng tỏ sự
hiểu biết nhất định về vấn đề BĐKH ở TP Hồ Chí Minh.
Kết quả khảo sát đã cho thấy tác động của BĐKH đến các
khu dân cư vùng phía nam TP về mặt thu nhập - việc làm, lao
động - thất nghiệp, sức khỏe - giáo dục, giới - đói nghèo Ở
các huyện ngoại thành có độ cao địa hình thấp (Bình Chánh,
Nhà Bè), có khoảng 28,7% số hộ thường xuyên bị ảnh hưởng
do ngập úng, trong khi đó ở các quận nội thành mới (quận 7
và Bình Tân) có đến 57,8% số hộ thường xuyên bị ảnh hưởng
do ngập úng, mực nước dâng thấp nhất là 3 cm và cao nhất
là 135 cm so với nền nhà và quận nội thành cũ (quận 8) có
khoảng 37% số hộ thường xuyên bị ảnh hưởng do ngập úng,
mực nước dâng thấp nhất là 1 cm và cao nhất là 115 cm so
với nền nhà. Điều này cho thấy, địa hình và tốc độ đô thị hóa
đã có ảnh hưởng đến việc thoát nước, chống ngập úng ở vùng
phía nam, làm trầm trọng thêm các tác động của BĐKH. Kết
quả khảo sát cũng cho thấy, ảnh hưởng do ngập úng đến dịch
bệnh, vệ sinh môi trường cũng khá cao, như phát triển các loại
dịch bệnh ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân, đặc biệt là
người già (29,4%) và trẻ em (40,7%) (quận 8), 32,7 và 34,5%
(quận 7, Bình Tân) và đều hơn 50% ở cả người già và trẻ em tại
2 huyện Bình Chánh, Nhà Bè. Các kết quả này cho thấy mức
độ tác động do ngập úng là gia tăng so với nghiên cứu về ảnh
hưởng của ngập úng đến TP được nghiên cứu năm 2011 [12].
Tổn thương sinh kế
Các thay đổi về các nguồn vốn xã hội, tự nhiên đã dẫn đến
sự thay đồi về nguồn vốn sinh kế. Một số thay đổi về nguồn
vốn sinh kế cơ bản của người dân ở vùng phía nam TP Hồ Chí
Minh được thể hiện ở bảng 1, trong đó dữ liệu được thu thập
trong giai đoạn 2006-2015 (nguồn vốn tự nhiên) và khảo sát,
điều tra trực tiếp trong giai đoạn 2015-2016 (các nguồn vốn
về xã hội).
Bảng 1. Giá trị các yếu tố chính của chỉ số LVI.
Nguồn vốn Yếu tố phụ Quận 7 Quận 8
Bình
Tân
Bình
Chánh
Nhà Bè
1. Vốn tự nhiên 0,521 0,409 0,442 0,321 0,656
Độ lệch chuẩn của nhiệt độ trung
bình tháng (WB, 2010)
0,492 0,000 0,060 0,522 1,000
Độ lệch chuẩn của tổng lượng mưa
tháng (WB, 2010)
0,513 0,135 0,000 0,032 1,000
Chênh lệch giữa nhiệt độ cao nhất
và thấp nhất tháng
0,500 0,000 0,069 0,535 1,000
Tần suất xuất hiện ngày có nhiệt
độ > 35o
0,000 0,989 1,000 0,981 0,000
Ngày có lượng mưa > 50 mm 1,000 0,000 0,000 0,000 1,000
Nhiệt độ trung bình năm (0C) 0,325 0,650 1,000 0,500 0,000
Lượng mưa trung bình năm (mm) 0,904 0,808 0,404 0,000 1,000
Số điểm bị ngập trong năm (số
đường) (thống kê 9 trận ngập với
lượng mưa > 80 mm)
0,438 0,688 1,000 0,000 0,250
2. Vốn con người 0,387 0,391 0,368 0,364 0,428
Đặc điểm hộ (dân số) 0,406 0,384 0,370 0,377 0,439
Số người trong hộ 0,278 0,291 0,1861 0,248 0,282
Trình độ > 12 0,625 0,558 0,5811 0,458 0,554
Trình độ < tiểu học 0,213 0,310 0,1927 0,187 0,287
Trẻ em < 16 tuổi 0,108 0,194 0,1028 0,186 0,184
Người già > 65 tuổi 0,119 0,123 0,1393 0,161 0,139
Thường trú 0,825 0,935 0,7653 0,777 0,967
Nghề ổn định 0,675 0,278 0,6235 0,626 0,657
Đặc điểm sức khỏe 0,368 0,397 0,367 0,350 0,418
Gia đình có người bị bệnh mạn tính 0,088 0,140 0,073 0,112 0,050
Bệnh ngoài da 0,563 0,568 0,554 0,428 0,730
Sốt xuất huyết 0,500 0,547 0,432 0,551 0,469
Người già > 75 tuổi 0,500 0,469 0,567 0,472 0,628
Trẻ em < 5 tuổi 0,513 0,674 0,482 0,524 0,763
Phụ nữ có thai 0,125 0,147 0,134 0,132 0,050
Người bệnh mạn tính 0,288 0,233 0,324 0,227 0,235
3. Vốn vật chất 0,324 0,296 0,294 0,407 0,473
Đặc điểm ngập úng 0,265 0,256 0,239 0,401 0,324
Thường bị ngập 0,338 0,348 0,153 0,377 0,422
Mức độ ngập (đường) 0,123 0,192 0,156 0,473 0,183
Mức độ ngập (nhà) 0,039 0,049 0,127 0,387 0,065
Rút nhanh (< 1 h) 0,288 0,397 0,220 0,321 0,563
Rút chậm (> 1 h) 0,538 0,293 0,540 0,446 0,387
Đặc điểm thoát nước 0,300 0,161 0,217 0,337 0,321
Làm cống thoát nước 0,725 0,372 0,567 0,652 0,850
Khắc phục hậu quả 0,325 0,177 0,231 0,445 0,487
Quy định cốt nền 0,225 0,209 0,131 0,321 0,167
Di dời nơi ở 0,163 0,015 0,123 0,102 0,069
Chuyển toàn bộ đồ 0,063 0,031 0,034 0,165 0,033
Đặc điểm giao thông 0,400 0,295 0,386 0,373 0,521
Tắc đường 0,625 0,427 0,700 0,558 0,700
Sụp ổ gà 0,363 0,204 0,421 0,378 0,611
Đường trơn 0,300 0,264 0,285 0,321 0,531
Đi lại rất khó khăn 0,238 0,185 0,198 0,270 0,235
Đi lại khó khăn 0,475 0,396 0,324 0,338 0,530
Sở hữu đất đai 0,330 0,471 0,333 0,518 0,724
Nhà thường bị ngập 0,685 0,724 0,000 0,830 1,000
Nhà xuống cấp do bị ngập 0,212 0,258 1,000 0,000 0,171
Hạ tầng ảnh hưởng đến nhà 0,094 0,430 0,000 0,725 1,000
4. Vốn xã hội (Social Capital) 0,333 0,274 0,315 0,284 0,333
Tiêu tốn năng lượng 0,377 0,319 0,429 0,340 0,323
Sử dụng quạt 0,800 0,700 0,921 0,875 0,831
Sử dụng máy lạnh 0,413 0,463 0,334 0,211 0,237
Hao > 500.000 đ/tháng 0,513 0,332 0,622 0,343 0,326
Hao 3-500.000 đ/tháng 0,250 0,249 0,278 0,235 0,254
Hao < 300.000 đ/tháng 0,138 0,171 0,153 0,268 0,220
Mua thêm điện ngoài 0,150 0,000 0,267 0,111 0,067
Ảnh hưởng cấp nước 0,185 0,165 0,238 0,206 0,230
Gia đình phải mua nước 0,175 0,090 0,374 0,271 0,187
Mua nước giá cao 0,138 0,024 0,232 0,235 0,135
Không có tiền mua nước 0,425 0,450 0,335 0,229 0,456
Nhà xuống cấp nên không sửa hệ
thống cấp nước
0,088 0,092 0,169 0,066 0,083
Hạ tầng xuống cấp 0,100 0,170 0,081 0,232 0,289
Các quan hệ xã hội 0,436 0,339 0,279 0,304 0,447
Hộ gia đình thuộc diện tạm trú 0,002 0,000 1,000 0,306 0,009
Hộ gia đình thuộc diện hộ nghèo 0,014 0,000 0,027 0,401 1,000
Thời gian sống của hộ gia đình ở
khu vực
0,164 1,000 0,162 0,264 0,000
Tình trạng sở hữu nhà hợp lệ 1,000 0,694 0,000 0,002 0,995
Diện tích nhà đang ở 1,000 0,000 0,204 0,549 0,232
5. Vốn tài chính 0,234 0,201 0,228 0,202 0,370
Tổng thu nhập/tháng 0,232 0,065 0,192 0,121 0,156
> 5 triệu đồng/tháng 0,400 0,279 0,358 0,347 0,493
3-5 triệu đồng/tháng 0,413 0,459 0,453 0,427 1,000
< 3 triệu đồng/tháng 0,125 0,155 0,134 0,115 0,169
Hộ nghèo 0,000 0,046 0,001 0,001 0,030
Chỉ số tổn thương sinh kế 0,360 0,314 0,329 0,316 0,452
2260(4) 4.2018
Khoa học Xã hội và Nhân văn
Kết quả phân tích chỉ số LVI ở bảng 1 cho thấy, mức độ
tổn thương sinh kế ở các quận/huyện là có sự chênh lệch đáng
kể, khoảng 30% (LVI = 0,314-0,452) và mức độ tổn thương ở
quận nội thành cũ (quận 8) là thấp nhất (LVI = 0,314). Mức
độ tổn thương sinh kế là khá đều nhau ở các quận nội thành
mới (LVI = 0,329-0,360) và ngoại thành (LVI = 0,316-0,452).
Kết quả tính toán chỉ số tổn thương cho thấy, sự ổn định dân
cư, mức độ gia tăng dân số thấp đóng vai trò quan trọng trong
việc thích ứng với BĐKH như ở quận 8, mức tăng dân số trung
bình 10 năm (2004-2014) là 1,84%/năm thì chỉ số tổn thương
sinh kế là thấp nhất (LVI = 0,314). Mức độ tổn thương sinh kế
do BĐKH đối với vùng phía nam là thấp với tổng chỉ số tổn
thương sinh kế (LVI = 0,354) nhỏ hơn mức trung bình (LVI =
0,40-0,60) [13, 14]. Ở huyện Nhà Bè và quận 7 (được tách ra
từ huyện Nhà Bè cũ) do là vùng đất thấp và các nguồn vốn xã
hội thấp (ngoại trừ khu Phú Mỹ Hưng) do đó chỉ số tổn thương
sinh kế cao là phù hợp.
Sự ảnh hưởng của nguồn vốn tự nhiên đến chỉ số tổn thương
sinh kế là đáng kể. Ở vùng phía nam TP, tác động do BĐKH là
khá lớn, sự phơi nhiễm về BĐKH là được ghi nhận nên chỉ số
vốn tự nhiên là khá cao (trung bình là 0,470).
Hai yếu tố vốn vật chất (0,359) và vốn con người (0,388)
cũng chiếm tỷ trọng cao trong chỉ số tổn thương sinh kế.
Nguyên nhân là do ở vùng phía nam, điều kiện cơ sở hạ tầng
cho ứng phó với BĐKH thấp, vì vậy nhạy cảm với BĐKH,
chiến lược sinh kế thấp Có thể nhận thấy rõ Nhà Bè là huyện
có 2 yếu tố này chiếm tỷ trọng cao trong các nguồn vốn. Đây là
huyện tiếp giáp sông lớn và cửa biển của TP, có địa hình thấp,
bị ảnh hưởng nhiều bởi triều cường nhưng điều kiện hạ tầng
ứng phó với BĐKH là chưa đầy đủ cùng với các nguồn vốn xã
hội thấp, vì vậy là địa phương phía nam có LVI cao nhất (LVI
= 0,452).
Bên cạnh các yếu tố chính đã được phân tích ở trên, kết quả
phân tích cho thấy nguồn vốn xã hội (0,308) và nguồn vốn tài
chính (0,247) có giá trị thấp nhất trong chỉ số tổn thương sinh
kế, cũng đồng nghĩa với mức độ tổn thương nhỏ do đây là vùng
đất cũ, cư dân có quan hệ mật thiết. Đây là những yếu tố góp
phần kéo chỉ số LVI chung giảm xuống (hình 1).
Hình 1. So sánh chỉ số các nguồn vốn và LVI ở các quận/huyện
vùng phía nam TP Hồ Chí Minh.
Kết luận
Chỉ số LVI ở vùng phía nam TP Hồ Chí Minh cho thấy
khả năng tổn thương giảm dần theo các yếu tố chính lần lượt
là tự nhiên (0,470), con người (0,388), vật chất (0,359), xã hội
(0,308) và tài chính (0,247).
Giá trị tổn thương sinh kế của vùng phía nam TP là 0,354 và
giá trị này cho thấy mức độ tổn thương không quá cao nhưng
cũng phải chú ý trong thời gian tới.
Hạn chế của phương pháp đánh giá mức độ tổn thương sinh
kế dựa vào chỉ số LVI là việc lựa chọn các yếu tố phụ và mối
liên quan giữa yếu tố phụ và các yếu tố chính là chưa được chi
tiết và thống nhất. Ngoài ra, việc khảo sát trên diện rộng với
khoảng 10 phiếu/phường, xã cũng gặp một số hạn chế và chưa
có đánh giá trọng số cho các chỉ số tính toán cho tổn thương
sinh kế.
Nhằm đánh giá toàn diện và chi tiết, chính xác về tổn
thương sinh kế do tác động của BĐKH cần thống nhất và chi
tiết hóa các yếu tố cho tính toán chỉ số tổn thương sinh kế. Để
tăng khả năng ứng phó với BĐKH, cần tăng nguồn vốn xã hội
và nguồn vốn vật chất nhằm góp phần giảm chỉ số tổn thương
sinh kế. Nâng cao khả năng thích ứng với BĐKH của người
dân nhằm giảm các tác động của thảm họa thiên nhiên, giảm
sự phơi nhiễm của các yếu tố BĐKH.
Trong các địa phương vùng phía nam của TP Hồ Chí Minh
chịu tác động của BĐKH thì Nhà Bè là địa phương có chỉ số
tổn thương sinh kế cao nhất với LVI = 0,452 (cao hơn mức
trung bình), mà nguyên nhiên chính là do đặc điểm địa hình
thấp, do đó cần đầu tư các công trình chống ngập, thoát nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Cục Thống kê TP Hồ Chí Minh (2015), Niên giám thống kê TP Hồ Chí
Minh năm 2014.
[2] Cục Thống kê TP Hồ Chí Minh (2005-2014), Niên giám thống kê TP
Hồ Chí Minh năm 2004-2013.
[3] Tobias Lung, Carlo Lavalle, Roland Hiederer, Laurens M. Bouwer
(2011), Report on potential impacts of climatic change on regional development
and infrastructure, European Commission.
[4] Viện Khoa học thủy lợi miền Nam (2008), Báo cáo Dự án quy hoạch
thủy lợi chống ngập úng khu vực TP Hồ Chí Minh.
[5] Department for International Development - DFID (1999), Sustainable
livelihoods guidance sheets.
[6] S. Dasgupta, et al. (2007), The Impact of Sea Level Rise on Developing
Countries: A Comparative Analysis., World Bank.
[7] Asia Development Bank (2009), Ho Chi Minh city Adaptation to
Climate Change, International Centre for Environmental Management.
[8] Nguyễn Kỳ Phùng (2016), Xây dựng kịch bản BĐKH, nước biển dâng
cho TP Hồ Chí Minh 2016.
[9] Đài Khí tượng thủy văn khu vực Nam Bộ (2016), Số liệu thống kê về
nhiệt độ, mưa tại các trạm Tân Sơn Hòa, Nhà Bè, Bình Chánh 2015.
[10] Viện Nhiệt đới môi trường (2015), Kết quả thu thập số liệu về kinh
tế - xã hội vùng phía nam TP Hồ Chí Minh.
[11] M.B. Hahn, M.R. Anne, O.F. Stanley (2009), The livelihood
Vulnerabitily Index: A pragmatic approach to assessing risks from climate
vulnerability and change - A case study in Mozambique, Global Environ.
Change.
[12] Phạm Hồng Nhật (2012), “Nghiên cứu ảnh hưởng do hệ thống chống
ngập úng đến môi trường khu vực TP Hồ Chí Minh và đề xuất biện pháp phát
huy và giảm thiểu”, Báo báo đề tài cấp TP Hồ Chí Minh.
[13] German Federal Ministry for Economic Cooperation and
Development (2014), The Vulnerability Sourcebook: Concept and guidelines
for standardized vulnerability assessments, GIZ.
[14] Rwanda Environment Management (2015), Baseline climate change
vulnerability index for Rwanda, Kigali.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36113_116632_1_pb_1879_2098490.pdf