Thời gian giảm đau sau mổ
Thời gian trung bình nhóm nghiên cứu của
chúng tôi là 177,8 35,2 phút, thấp nhất là 126
phút và cao nhất là 250 phút. (Bảng 6).
Hannu Kokki và cộng sự nghiên cứu
trên 195 trẻ tuổi từ 6 tháng tới 10 tuổi mổ
thoát vị bẹn ngoại trú. Tác giả thống kê thấy
trong bệnh viện sau mổ không có bệnh nhân
nào đau dữ dội, đau khi nghỉ cũng như khi
vận động, 28% dùng giảm đau khi nằm ở
hồi tỉnh. Thời gian bệnh nhân ra viện kể từ
sau khi GTTS trung bình 230 (164 - 300)
phút, vào lúc xuất viện không có bệnh nhân
nào đau khi nghỉ, khi vận động không đau
hoặc có đau nhẹ. Ngày đầu sau mổ 65%
không đau, 16% đau nhẹ, 17% đau vừa phải
và 2% đau dữ dội.
Mặc dù có khác nhau giữa các tác giả về
kết quả nghiên cứu do đối tượng nghiên cứu
khác nhau, phẫu thuật khác nhau, cách thu
thập kết quả và đánh giá khác nhau nhưng
các tác giả cho thấy bupivacain dùng cho
GTTS đơn thuần ở trẻ em thì sau mổ trẻ nằm
yên tĩnh, bình thản, điều này cho thấy trẻ được
giảm đau tốt sau mổ, giảm được những chấn
thương do gây mê và phẫu thuật, và cũng là yếu
tố quan trọng cho bệnh nhân được về nhà với
những trường hợp mổ ngoại trú.
Đánh giá tác dụng phụ (Bảng 7)
Có 1 bệnh nhân chiếm 2,5% nôn và buồn
nôn, xảy ra 2 giờ đầu sau mổ, nôn 1lần và còn
cảm giác buồn nôn nhưng không nôn và không có
trường hợp nào bị đau đầu. (27 bệnh nhân từ 4 - 6
tuổi được xác định bằng cách hỏi). Như vậy, nôn -
buồn nôn khi GTTS bằng bupivacain ít gặp trong
nghiên cứu của chúng tôi.
Theo nghiên cứu của Puncuh với (n = 1132)
không có trẻ nào nôn và có 5 bệnh nhân đau
đầu, cũng tương tự Imbelloni(4) trên 307 trẻ
cũng không gặp trường hợp nào bị nôn, và có
3/307 bệnh nhân bị đau đầu nhẹ và ngắn.
Với Kokki có 5% bệnh nhân nôn và buồn
nôn trên 475 trường hợp(5), và có 5% bệnh nhân
đau đầu sau mổ, theo tác giả tỷ lệ nôn và buồn
nôn rất thấp ở trẻ nhỏ nhưng rất thường xuyên ở
trẻ đựơc gây mê toàn thân nên GTTS thích hợp
cho những trẻ em dễ bị nôn sau mổ. Trong một
nghiên cứu 3 ngày đầu sau mổ của tác giả Wee
LH, Lam F và cộng sự(8) trên 105 trẻ chọc tuỷ
sống vùng thắt lưng, kết quả chỉ rõ rằng không
có trẻ nào dưới 10 tuổi có biểu hiện đau đầu,
nhóm trẻ 10 - 12 tuổi có 11,8% biểu hiện đau đầu,
trong nhóm trẻ 13 - 18 tuổi có 50% biểu hiện đau
đầu.
Theo Puncul tỷ lệ đau đầu sau GTTS thường
xẩy ra và tỷ lệ rất thay đổi giữa các tác giả từ 0,4 -
5% nhưng thường nhẹ và nhanh khỏi
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 27/01/2022 | Lượt xem: 260 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá tác dụng vô cảm gây tê tuỷ sống bằng thuốc Bupivacain trong phẫu thuật vùng vùng dưới rốn trẻ em, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 11 * Phụ bản Số 4 * 2007
Chuyên đề Nhi Khoa 100
ĐÁNH GIÁ TÁC DỤNG VÔ CẢM GÂY TÊ TUỶ SỐNG
BẰNG THUỐC BUPIVACAIN TRONG PHẪU THUẬT
VÙNG VÙNG DƢỚI RỐN TRẺ EM
Dương Quang Tuấn*, Bùi Ích Kim**
TÓM TẮT
Nghiên cứu thực hiện trên 40 bệnh nhân tuổi từ 1- 6 tuổi, có tình trạng sức khoẻ ASAI,II được chỉ
định phẫu thuật ở bụng dưới và chi dưới tại phòng mổ nhi, khoa Gây mê hồi sức, khoa Phẫu thuật nhi bệnh
viện Việt Đức từ tháng 2 - 2006 đến tháng 8 – 2006.
Mục tiêu: (1)Đámh giá tác dụng vô cảm của phương pháp GTTS trẻ em bằng thuốc bupivacain 0,5%
cho các phẫu thuật bụng dưới và chi dưới. (2)Đánh giá tác dụng không mong muốn trong và sau mổ.
Phương pháp: Sau khi giải thích được bố mẹ bệnh nhân chấp nhận, chúng tôi tiến hành GTTS với
bupivacain 0,5% liều 0,3mg/ kg. Chúng tôi theo dõi và đánh giá tác dụng ức chế cảm giác đau, ức chế vận
động và ảnh hưởng lên hô hấp, tuần hoàn sau khi gây tê và các tác dụng phụ như nôn, buồn nôn, đau đầu.
Kết quả: Thời gian khởi tê ở mức T10 là < 1 phút, thời gian vô cảm mức T10 là 89,7 ± 21,9 phút, mức
cao ức chế cảm giác là T6. Thời gian ức chế vận động <2 phút, thời gian phục hồi vận động 55,3 ± 24,4
phút. Mức độ vô cảm trong mổ được đánh giá dựa theo bảng điểm Gunter cho chất lượng tê tốt chiếm
97,5%. Không có trường hợp nào giảm độ bão hoà oxy, ghi nhận trong quá trình phẫu thuật luôn duy trì
huyết động ổn định. Không thất bại trường hợp nào khi chọc kim GTTS. Nôn và buồn nôn có một bệnh
nhân và không có trường hợp nào đau đầu sau mổ.
Kết luận: (1)Gây tê tuỷ sống ở trẻ em với bupivacain 0,5% liều 0,3mg/ kg đảm bảo vô cảm tốt cho
phẫu thuật bụng dưới và chi dưới. (2)Gây tê tuỷ sống ở trẻ em với bupivacain 0,5% liều 0,3mg/ kg duy trì
được huyết động, hô hấp ổn định. (3)Thời gian ức chế vận động ngắn tạo điều kiện phục hồi vận động sớm
sau mổ.
ABSTRACT
TO EVALUATE THE EFFECT OF SPINAL ANESTHESIA IN CHILDREN WITH BUPIVACAIN 0.5%
FOR THE SURGERY ON THE LOWER ABDOMEN AND LIMBS
Duong Quang Tuan, Bui Ich Kim
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 11 – Supplement of No 4 - 2007: 100 – 109
Objectives: Spinal anesthesia in expert hands is an excellent method for children for appropriate
surgery. The aim of this study was to evaluate the sensory effects of spinal anesthesia in children with
hyperbaric 0.5% bupivacain for the sergery on the lower abdomen and limbs, And to determine the
complications.
Methods: In this clinical prospective study has been done on 40 patients from 01 to 16 years of age
whom were scheduled for spinal anesthesia with hyperbaric 0.5% bupivacain for surgery on the lower
abdomen and limbs. We evaluated the following: motor block, latency of analgesia, the onset and maximum
length and duration of sensory block, cardiovascular and respiratory changes, incidence of headache, nausea
or vomiting.
* Bệnh viện Nhi TW
** Bệnh viện Việt Đức
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 11 * Phụ bản Số 4 * 2007 Nghiên cứu Y học
Chuyên đề Nhi Khoa 101
Results:. The onset of sensory block at T10 was <1 min in all children. Duration of sensory block was
89.7± 21.9 min, the highest level of analgesia is at T6. The onset of motor block was < 2min in all cases,
Recovery time of motor block was 55.3 ± 24.4 min. There was no case of oxygen desaturation. Hypotension
and bradycardia was no occurred, we observed a hemodynamic stablity during the operation. Spinal
anesthesia was not failed in all cases. There was no case to occurr the postdural puncture headache. Nausea
and vomiting observed in one patient.
Conlusion: Spinal anesthesia in children is a special method suitable for use only by anesthesiologist. Spinal
anesthesia in children with hyperbaric 0.5% bupivacain provide reliable anesthesia for the surgery on the lower
abdomen and limbs, and continues to gain acceptance as alternative to general anesthesia in children.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong lịch sử người ta đã nghiên cứu và áp
dụng nhiều phương pháp vô cảm nhằm mục
đích an toàn, thuận lợi cho phẫu thuật, hạn
chế tối đa tác dụng không mong muốn và thực
hiện được trên nhiều lứa tuổi.
Ngay từ đầu thế kỷ 20, Lord H.Tyrrell
Gray biện hộ cho GTTS ở trẻ em rằng
“Phương pháp GTTS sẽ trở thành một vị trí
quan trọng ở ngoại khoa trẻ em trong tương
lai”. Nhưng giữa thế kỷ trước GTTS ở trẻ em
bị bỏ quên bất chấp những báo cáo rải rác nó
vẫn hầu như không được dùng cho mãi tới
1984 GTTS được nghiên cứu và báo cáo bởi
Abjian và cộng sự, từ đó GTTS lại được đưa
vào và thành công tới kỷ nguyên hiện đại.
Cùng với sự hiểu biết cặn kẽ về sinh lý GTTS,
GTTS phối hợp với gây mê toàn thể mà phổ biến
là gây mê hít đã đem lại chất lượng tê cao hơn, an
toàn hơn và giảm đáng kể các biến chứng của kỹ
thuật GTTS, đồng thời giúp cho trẻ được yên tĩnh
tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiến hành GTTS và
ngược lại hạn chế tác dụng không mong muốn do
GM thể hít gây ra.
Ở Việt Nam, đã có nhiều báo cáo kết quả
GTTS bằng bupivacain ở người lớn cho thấy
tác dụng vô cảm kéo dài, mất vận động chi
dưới, và GTNMC và GTKC bằng Bupivacain
đã được nghiên cứu và áp dụng nhiều cho các
phẫu thuật bụng dưới và hai chi dưới ở trẻ em
nhưng GTTS còn chưa có những báo cáo chính
thức về vấn đề này.
Những lý do trên đã hướng cho chúng tôi
tiến hành nghiên cứu: "Đánh giá tác dụng GTTS
trẻ em bằng bupivacaine 0,5% cho các phẫu thuật
vùng bụng dưới và chi dưới". Với mục tiêu:
1. Đánh giá tác dụng vô cảm của phương
pháp GTTS trẻ em bằng thuốc bupivacaine
0,5% cho các phẫu thuật vùng bụng dưới và
chi dưới.
2. Đánh giá tác dụng không mong muốn
trong và sau mổ.
ĐỐI TƢỢNG - PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Địa điểm và thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện tại phòng mổ nhi
khoa gây mê hồi sức, khoa phẫu thuật nhi bệnh
viện Việt Đức từ tháng 2- 2006 đến tháng 8-2006.
Đối tƣợng
Bệnh nhi ở độ tuổi từ 6 tháng đến 6 tuổi, có
tình trạng sức khoẻ ASAI, ASA II theo phân độ
của hội các nhà gây mê thế giới, có chỉ định phẫu
thuật theo kế hoạch vùng dưới rốn và chi dưới,
có thể vô cảm bằng GTTS, được gia đình đồng ý
phương pháp vô cảm này
Phƣơng pháp nghiên cứu
- Theo phương pháp thử nghiệm lâm sàng,
tiến cứu.
- Cỡ mẫu: 40 BN được vô cảm bằng gây mê
thể hít và GTTS bằng bupivacain 0,5% liều 0,3
mg/kg cân nặng.
Chuẩn bị phương tiện gây mê và gây tê
- Hệ thống máy mê vòng kín Datex
Ohmeda Aestiva/5 và thuốc mê bốc hơi Sevo.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 11 * Phụ bản Số 4 * 2007
Chuyên đề Nhi Khoa 102
- Hộp dụng cụ gây tê, săng lỗ, các dụng cụ
sát khuẩn, bơm tiêm 1-5ml để tiêm thuốc tê,
Kim chọc GTTS số G25 hoặc G27 của hãng
B.Braun, hoặc kim tiêm thường G25, G26 dài
2,4 cm hoặc 1,2 cm. Thuốc tê bupivacain
hydrochloride 0,5% (Marcain Heavy của hãng
AtraZeneca AB, Thụy Điển)
- Phương tiện theo dõi huyết động: Theo
dõi mạch, huyết áp, Sp02, nhịp thở, ECG bằng
máy monitoring Kontron, tự động liên tục 5
phút/ lần.
Kỹ thuật tiến hành
Gây mê hít: tất cả BN đều được gây mê thể
hít bằng hệ thống máy mê kín Datex Ohmeda
Aestiva/5, úp mask mặt với hỗn hợp thuốc mê
sevo/Fi02: 50- 60%, lưu lượng 1,5 lít- 02
lít/phút, duy trì cho đến hết cuộc mổ. Làm
đường truyền tĩnh mạch kim luồn G24 hoặc
G22 với trẻ lớn và truyền dịch tinh thể: Nước
muối sinh lý 0,9% hoạc Ringer lactate.
Đặt BN nghiêng sang trái, sát trùng da và
chọc tuỷ sống ở khoang gian đốt sống thắt lưng
L3-L4 đường giữa cột sống, chiều vát của kim
song song với cột sống, khi có nước não tuỷ chảy
ra thì xoay chiều vát của kim 90 độ lên phía đầu.
Tốc độ bơm thuốc trong 10 giây, không pha
thuốc với dịch não tuỷ trước khi tiêm. Liều
lượng thuốc tê bupivacaine 0,3mg/ kg, ngay sau
khi tiêm thuốc tê vào khoang dưới nhện, đặt BN
theo tư thế phẫu thuật.
Các chỉ số theo dõi
Đánh giá thời gian khởi tê
Thời gian khởi tê là thời gian tính từ khi
bơm thuốc tê vào khoang dưới màng nhện
đến khi BN mất cảm giác đau.
Đánh giá vùng chi phối mất cảm giác theo
sơ đồ phân bố cảm giác của Scott. D.B
T6 mất cảm giác đau từ mũi ức trở xuống.
T10 mất cảm giác đau từ rốn trở xuống.
Bắt đầu đánh giá thời gian khởi tê ngay
sau khi tiêm thuốc bằng cách kẹp da vùng mũi
ức xuống và theo dõi sự thay đổi M, HA, thở,
dấu hiệu cựa của BN sau đó cứ 1 phút một lần
để xác định thời gian khởi tê.
Tương tự như vậy có thể đánh giá giới hạn
trên của vùng giảm đau bằng phương pháp
kẹp da vùng trên rốn, dưới rốn và vùng mũi
ức để tìm ranh giới và dấu hiệu của đau và
không đau.
Đánh giá sự thay đổi
Mạch, huyết áp, nhịp thở, dấu hiệu cựa,
Sp02 của BN trước trong và sau mổ.
Đánh giá chất lượng giảm đau của GTTS kết
hợp gây mê
Chúng tôi dựa vào bảng điểm Gunter làm
tiêu chuẩn đánh giá tác dụng giảm đau.
0 - 1 điểm: Chất lượng tê kém: Không thể
giảm nồng độ thuốc mê bốc hơi ở bất kỳ thời
điểm nào trong phẫu thuật, hoặc tăng lại nồng độ
thuốc mê bốc hơi sau khi đã hạ lúc đầu.
2 điểm: Chất lượng trung bình: Nồng độ
thuốc mê bốc hơi giảm, nhưng mạch và huyết áp
20% so với mạch và huyết áp trước rạch da.
3 điểm: Chất lượng tốt: Nồng độ thuốc mê
bốc hơi giảm nhưng mạch và HA 20% so với
mạch và huyết áp trước rạch da.
Đánh giá tác dụng giảm đau sau mổ
Dựa vào bảng điểm đánh giá đau của
Broadmand căn cứ chủ yếu vào 5 dấu hiệu:
huyết áp, khóc, cử động, kích động và tư thế
bệnh nhân.
0 điểm: trẻ không đau, 1 điểm: đau nhẹ, 2
điểm: đau vừa, 3 điểm: rất đau
Theo dõi sau mổ 30 phút/1lần mỗi lần quan
sát 5 phút, 2 lần liên tiếp có điểm số đau đều 3
hoặc khi phải dùng liều thuốc giảm đau đầu tiên
được tính là hết tác dụng giảm đau.
Đánh giá thời gian phong bế vận động
Được tính từ khi tiêm thuốc tê cho đến khi trẻ
tự đứng dậy được hoặc đạp mạnh chân, hoặc co
duỗi chân theo lệnh hoặc khi có kích thích.
Đánh giá tác dụng phụ sau mổ
- Đánh giá tỷ lệ nôn trong và sau mổ
- Tỷ lệ đau đầu
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 11 * Phụ bản Số 4 * 2007 Nghiên cứu Y học
Chuyên đề Nhi Khoa 103
Xử lý kết quả nghiên cứu
Số liệu được xử lý theo phương pháp
thống kê y học trên phần mềm SPSS 13.0: Số
trung bình ( X ), độ lệch chuẩn, So sánh nhiều
trung bình với test Anova, so sánh tỷ lệ %
bằng test 2. Với giá trị p < 0,05 sự khác nhau
có ý nghĩa thống kê.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Đặc điểm của mẫu nghiên cứu
Bảng 1. Giá trị trung bình của tuổi, giới tính và
cân nặng
Tham số Trung bình n
Giới tính
Nam Nữ
40
38 2
Tuổi (năm) 4,5 1,8
Cân nặng 17,3 4,7
Đặc điểm loại phẫu thuật
Bảng 2. Phân loại phẫu thuật
Loại phẫu thuật Cách thức phẫu thuật
Số bệnh
nhân
Lỗ đái thấp Tạo hình niệu đạo 9
Ân tinh hoàn Hạ tinh hoàn 11
Thoát vị bẹn Cắt và khâu cổ bao thoát vị 12
Nang thừng tinh
Bóc nang và khâu cổ bao
thoát vị
3
Rò niệu đạo Cắt đường rò 3
Nang rốn Cắt nang 1
U xơ thần kinh mu
chân
Cắt u 1
Nhận xét: Số BN có hai loại phẫu thuật với
hai đương mổ khác nhau: 3/ 40, số BN mổ lại
lần hai, ba: 7/ 40, các phẫu thuật chủ yếu vùng
sinh dục hậu môn.
Đánh giá thời gian khởi tê và mức trên
của vùng vô cảm
Bảng 3. Đánh giá thời gian khởi tê và mức trên
của vùng vô cảm
Thời gian T10 T8 T6
1 40 9 31
2 40 6 34
3 40 2 38
4 40 2 38
Nhận xét: Thời gian khởi tê ở T10 là vùng
đủ để rạch da BN không đau trong các phẫu
thuật bụng dưới và chi dưới là ngay phút đầu
tiên (100 %). Vùng vô cảm ở mức ngang và
dưới T8 là 100%. Vùng vô cảm ngang và dưới
T6 chiếm 95%.
Các phẫu thuật ẩn tinh hoàn, nang thừng
tinh, thoát vị bẹn đòi hỏi mức vô cảm tới T12. Vì
vậy không có thất bại trong phương pháp này.
Đánh giá tác dụng vô cảm sau GTTS
Thời gian vô cảm ở T10
Bảng 4.. Thời gian vô cảm ở T10
Giá trị
Thời gian X SD
Giá trị
nhỏ nhất
Giá trị
lớn nhất
Thời gian vô cảm
T10 (phút)
89,7 21,9 54 176
Thời gian phẫu
thuật
34,6 27,3 10 152
Nhận xét: Thời gian vô cảm T10 là thời gian
từ khi khởi tê ở mức T10 đến khi xuất hiện
đau trở lại ở T10 khi có kích thích. Nhóm
nghiên cứu thời gian vô cảm trung bình là 98,7
21,9 phút. Thời gian trung bình tác dụng vô
cảm lâu hơn thời gian phẫu thuật.
Đánh giá chất lượng vô cảm
9 7,5
2 ,5 0 0
0
20
40
60
80
100
120
I II III IV
Gunt er
Tû lÖ %
Biểu đồ.1. Đánh giá chất lượng gây tê theo Gunter
Nhận xét: Kết quả ở bảng 3.8. cho thấy ở
nhóm nghiên cứu, tỷ lệ bệnh nhi có chất lượng
tê tốt chiếm 97,5%, trung bình 2,5%.
Thời gian ức chế và phục hồi vận động
chân
Bảng 5. Thời gian ức chế vận động
Thời gian ức chế vận
động chân (phút)
n %
1 34 85
2 6 15
3 0 0
Nhận xét: Thời gian ức chế vận động trong
NC rất nhanh với 100% < 2 phút.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 11 * Phụ bản Số 4 * 2007
Chuyên đề Nhi Khoa 104
40
45
10
2,5 2,5
0
10
20
30
40
50
60
15- 45 46- 75 76- 105 106- 135 136- 165
Thêi gian
(phót)
Tû lÖ %
Biểu đồ 2. Thời gian phục hồi vận động chân sau mổ
Nhận xét: Kết quả nghiên cứu cho thấy thời
gian phục hồi vận động trung bình là 55,3 24,4
phút, số bệnh nhân hồi phục vận động chân ở
khoảng thời gian 46 phút-75 phút có tỷ lệ lớn hơn
các khoảng thời gian khác với p < 0,05.
Thay đổi tuần hoàn
0
20
40
60
80
100
120
140
160
Tr- í c
GM
Tr- í c
TTS
5' 15' 25' 40' 60' 80' 100' HT
5'
20' Thêi
®iÓm
NhÞp nhÞp (lÇn/phót)
Biểu đồ 3. Thay đổi nhịp tim qua các thời điểm
theo dõi
0
20
40
60
80
100
120
140
Tr- í c
GM
Tr- í c
TTS
5' 15' 25' 40' 60' 80' 100' HT
5'
20'
HATT
HATB
HATTr
mmHg
Thêi
®iÓm
Biểu đồ 4. HATT-HATB-HATTr qua các thời
điểm theo dõi
Nhận xét: (Biểu đồ 3 và biểu đồ 4)
- Nhịp tim trung bình của các bệnh nhân ở
nhóm nghiên cứu đều giảm so với ban đầu là
thời điểm trước gây mê luôn nằm trong giới
hạn sinh lý và tương đối ổn định trong suốt
quá trình mổ (p > 0,05), không có trường hợp
nào giảm phải can thiệp điều trị.
- HATT ổn định và có xu hướng giảm nhẹ về
cuối cuộc phẫu thuật.
Nhóm nghiên cứu chỉ số HATB ổn định
trong quá trình phẫu thuật.
Theo dõi HATTr trong suốt quá trình vô
cảm đến khi BN tỉnh hoàn toàn ổn định.
Thay đổi về hô hấp
95
96
97
98
99
100
101
Tr- í c
GM
Sau
TTS
15' 30' 60' 90' HT 5' 30'
Thêi
®iÓm
(%)
Biểu đồ 5. Sự thay đổi SpO2 qua các thời điểm
theo dõi
0
5
10
15
20
25
30
35
40
Tr- í c
GM
Tr- í c
TTS
5' 15' 25' 40' 60' 80' 100' HT
5'
20'
Thêi
®iÓm
NhÞp thë (lÇn/phót)
Biểu đồ 6. Tần số thở qua các thời điểm theo dõi
(lần/phút).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 11 * Phụ bản Số 4 * 2007 Nghiên cứu Y học
Chuyên đề Nhi Khoa 105
Nhận xét: (Biểu đồ 3.5 và biểu đồ 3.6)
- Chỉ số bão hoà ô xy của nhóm nghiên cứu
có giá trị trung bình từ 97,9-100%.
- Trong quá trình diễn ra cuộc mổ nhịp thở
trung bình của các bệnh nhi có sự thay đổi
không đáng kể chỉ từ 1-5% so với ban đầu. Tần
số thở có su hướng giảm và ổn định về cuối
cuộc mổ và hoàn toàn nằm trong giới hạn bình
thường, không có trường hợp nào giảm đến
mức phải can thiệp.
Thời gian giảm đau sau mổ
Bảng 6. Thời gian giảm đau sau mổ
Thời gian (phút) n = 40
X SD 177,8 35,2
Giá trị nhỏ nhất 126
Giá trị lớn nhất 250
Nhận xét: Khám lại sau 20 giờ có 18 bệnh
nhân (45%) được hỏi hoàn toàn không đau từ
khi kết thúc phẫu thuật hoặc không biết mình
mới trải qua cuộc phẫu thuật. 11 bệnh nhân
(27,5%) ngay sau thoát mê có quấy khóc cho
tới vật vã nhưng khi có mẹ thì tất cả sau đó
đều nằm yên tĩnh. Những bệnh nhân có đau
sau mổ đều ở mức độ đau nhẹ và vừa không
có bệnh nhân nào đau dữ dội. Nhóm nghiên
cứu thời gian giảm đau sau mổ tối thiểu là 126
phút, tối đa là 250 phút, trung bình là 177,8
35,2 (n = 22).
Các tác dụng phụ sau mổ
Bảng 7. Tác dụng phụ sau mổ
Tác dụng phụ n %
Nôn - buồn nôn 1/40 2,5
Đau đầu (trẻ từ 4 tuổi trở
lên)
0/27 0,0
Nhận xét: Theo dõi từ khi bệnh nhân tỉnh
đến 24 giờ sau phẫu thuật, tác dụng phụ nôn,
buồn nôn có 1 bệnh nhân chiếm 2,5% và
không có bệnh nhân nào đau đầu sau mổ.
BÀN LUẬN
Bàn luận về thay đổi hô hấp, tuần hoàn
Không có sự thay đổi nào đáng kể về hô hấp
(nhịp thở, độ bão hoà oxy trong máu tĩnh mạch)
trước trong và sau mổ. Không gặp trường hợp
nào thở chậm hay ngừng thở phải bóp bóng hỗ
trợ, và cũng không có trường hợp nào độ bão
hoà oxy trong máu tĩnh mach < 95%. Nhịp thở có
su hướng giảm ở vào cuối cuộc mổ và giai đoạn
hồi tỉnh nhưng vẫn trong giới hạn sinh lý bình
thường. (Biểu đồ 5, 6, 3, 4).
Theo dõi tần số tim liên tục, nhịp tim luôn
ổn định, không có bệnh nhân nào bị chậm
nhịp tim và phải dùng atropin. HATT, HATB,
HATTr trước gây tê, trong suốt quá trình vô
cảm và phẫu thuật, ổn định thay đổi không
đáng kể trong và sau mổ. Không có trường
hợp nào hạ HA mà phải điều chỉnh dịch hoặc
dùng thuốc tăng HA và cũng không có bệnh
nhân nào tăng HA, mạch nhanh là một trong
những dấu hiệu của đau mà phải tăng trở lại
thuốc mê bốc hơi. Qua đó có thể thấy phương
pháp gây tê tuỷ sống bằng bupivacain không
gặp ảnh hưởng tới nhịp tim và huyết áp ở trẻ
em < 6 tuổi trong nghiên cứu của chúng tôi.
Tác giả Hannu Kokki(5) GTTS cho 475 trẻ từ
0 - 17 tuổi bằng bupivacain 0,5%, liều 0,3mg/
kg và gây tê ở vị trí L3- 4 thấy có SpO2 < 90% là
25 bệnh nhân chiếm 5%, 3% chậm nhịp tim,
2% hạ HA chủ yếu ở trẻ trên 10 tuổi và nó
thường giảm từ 5 - 10 phút sau khởi tê, sự thay
đổi này mặc dù có ý nghĩa thống kê và đa số
tự về bình thường. Trong một nghiên cứu
khác cùng Hendolin GTTS bằng bupivacain
cho 120 trẻ thì có 2% hạ HA điều trị bằng
truyền dịch, chậm nhịp tim có 4% điều trị
bằng atropin.
Tổng kết 1554 trẻ được GTTS chỉ có có 10
bệnh nhân có SpO2 < 90% chiếm tỷ lệ 0,6% và
1,6% giảm nhịp tim <100l/ phút trong báo cáo
của Williams và cộng sự(9). Tương tự 0,3% hạ
HA và 0,6% chậm nhịp tim (n = 307) trong
nghiên cứu của tác giả Imbelloni(4) và không có
bệnh nhân nào hạ SpO2 xuống dưới 95%.
30 trẻ từ 7 tháng - 13 tuổi mổ tim đã dược
Finkel JC và cộng sự(2) GTTS ở vị trí L3-4 bằng
tetracain + morphin, sau tiêm thuốc bệnh nhân
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 11 * Phụ bản Số 4 * 2007
Chuyên đề Nhi Khoa 106
được đặt tư thế Trendelenburg dốc 300/10 phút,
mạch chậm < 100 L/phút thấy xuất hiện ở nhóm
trẻ >1 tuổi ở phút 25 mặc dù trên lâm sàng sự
giảm này không bao giờ phải điều trị, HA giảm
cũng xuất hiện ngắn và nhẹ và không phải điều
trị. Atropin, bù dịch và thuốc co mạch không
bệnh nhân nào phải dùng.
Trong 10 năm GTTS cho bệnh nhân mổ tim,
Bang-Vojdanovski B(2) đã nhân xét: Huyết động
luôn ổn định trong suốt quá trình vô cảm ở nhóm
trẻ
6 tuổi. Nhận xét này cũng giống Wu CL và
Fleisher LA (2002)(10), Dohi và cộng sự(1), chẹn giao
cảm thường xẩy ra ở người lớn lại rất hiếm xảy ra
ở trẻ em <5 tuổi.
Anh hưởng của GTTS lên hô hấp ở trẻ em có
tỷ lệ an toàn cao, giảm bão hoà oxy máu và ngưng
thở là rất hiếm gặp. Chứng tỏ GTTS với mức chọc
L3-4 ở trẻ em < 6 tuổi không ảnh hưởng tới hô hấp
và rất ít ảnh hưởng tới huyết động.
Tác dụng giảm đau của bupivacain 0,5%
liều 0,3mg/ kg trong GTTS để phẫu thuật
vùng dƣới rốn (Bảng 3.)
Tác giả Kokki và cộng sự(5) nghiên cứu trên
trẻ 2- 115 tháng tuổi với liều 0,4mg/ kg
bupivacain 0,5%, chọc kim ở vị trí L3- 4 thấy
mức vô cảm trung bình là T4, thời gian khởi tê
< 3 phút trong 96% các trường hợp, theo tác
giả thời gian khởi tê khoảng 1- 5 phút ở trẻ <
6 tuổi và tối đa ở lứa tuổi này là 10 phút.
Theo tác giả liều cũng ảnh hưởng tới thời
gian khởi tê, liều nhỏ thời gian này chậm
hơn nhưng tác dụng như nhau.
Nghiên cứu khác của Kokki và cộng sự(5)
thời gian vô cảm trong mổ tới T10 là 103 phút
và tác giả nhận thấy thời gian đó ở T10 của trẻ
lớn kéo dài hơn đáng kể là 152 phút. Và cũng
trong nghiên cứu so sánh bupivacain 0,9% và
bupivacain glucose 8% của Kokki(5) thấy thời
gian chẹn cảm giác trong phẫu thuật ở T10 từ
91- 104 phút.
Imbelloni(4) GTTS trẻ em thấy chẹn cảm giác từ
T9 - T4 (trung bình T6) khi dùng bupivacain 0,5%
liều 0,3mg/ kg và cũng chọc kim tại vị trí L3- 4 cho
307 trẻ tuổi từ 0 tới 12 tuổi, thấp hơn của Kokki 2
đoạn, thời gian khởi tê là 2,36 0,95 phút (n = 307)
và thời gian giảm đau phẫu thuật trung bình ở
T6 là 76,8 6,6 phút.
Finke và cộng sự(2) dùng tetracain với
những liều khác nhau từ 0,5 - 2mg/kg kết hợp
với morphin và để tư thế đầu dốc 30 độ/ 10phút
ở những trẻ từ 7 tháng đến 13 tuổi thì thấy mức
chẹn cảm giác lên tới C4 - C5
Tác giả Alain Rochette cùng cộng sự(7) GTTS
bằng bupivacain phối hợp clonidin cho 124 trẻ sơ
sinh thấy mức chẹn cảm giác ở T3 là 103 (85- 120)
phút.
Fosel và cộng sự(3) có kết quả thời gian trung
bình trong nghiên cứu là 95 (60- 120) phút khi tác
giả kết hợp bupivacain với adrenalin.
Tác giả Puncuh(6) đã nhận xét: Thời gian
bắt đầu tê của GTTS ngắn hơn bất kỳ loại tê
tương ứng hay ngoại biên nào và ngắn hơn
ở người lớn.
Williams và Robert(9) nghiên cứu trên 1554
BN thấy tê hoàn toàn là 95,4%.
Nghiên cứu của Kokki(5) trên 475 bệnh
nhân thấy: Tê hoàn toàn 92%, phải kết hợp với
gây mê toàn thân 1%, dùng fetanyl phối hợp
4%, an thần 2%.
Mức chẹn cảm giác trong nghiên cứu của
chúng tôi chủ yếu đạt mức trung bình T6 chiếm
đa số bệnh nhân, đạt mức T8 có 2 bệnh nhân
chiếm 5%. Không có bệnh nhân nào mức vô
cảm chỉ đạt T10 trở xuống. Thời gian khởi tê
trung bình là 01 phút ở ngang mức T10, sau 3
phút có 95% tê mức T6 và chỉ có 2/40 BN (5%) tê
ở mức T8 sau thời gian đó (bảng 3.3.) và kết
quả (bảng 3.4.) cho thấy thời gian giảm đau ở
T10 trung bình là 89,7 21,9 phút, thấp nhất là
54 phút, cao nhất là 176 phút. Kết quả đánh
giá mức độ giảm đau Gunter ghi nhận: có 39
bệnh nhân đạt chất lượng tê tốt (97,5%), trung
bình (2,5%) và không có bệnh nhân nào phải
chuyển phương pháp vô cảm khác hoặc cho
thuốc giảm đau (Biểu đồ 1)
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 11 * Phụ bản Số 4 * 2007 Nghiên cứu Y học
Chuyên đề Nhi Khoa 107
Kết quả của chúng tôi phù hợp với nghiên
cứu về mức vô cảm trong nghiên cứu của
Kokki, Imbelloni liên quan đến liều lượng,
nồng độ thuốc tê, với cân nặng bệnh nhân. Với
bupivacain nồng độ 0,5% liều 0,3 mg/kg GTTS
gây ức chế cảm giác đau tốt cho phẫu thuật
vùng dưới rốn từ T10 mà không cần phải dùng
thêm bất cứ một thứ thuốc giảm đau nào khác
với thời gian trung bình 80- 90 phút và thời
gian đó sẽ tăng lên khi bupivacain kết hợp với
clonidin nhưng không tác dụng kéo dài khi
kết hợp với adrenalin. Thời gian bắt đầu rạch
da có thể từ rất sớm ngay sau khi tiêm tiêm
xong thuốc tê vào khoang dưới nhện. Qua
đó nhận thấy chất lượng tê tốt hơn hẳn so với
GTKC bằng bupivacain đơn thuần.
Thời gian phong bế và phục hồi vận động
chân (bảng 5.) (biểu đồ 2)
Kết quả nghiên cứu cho thấy thời gian
phong bế vận động tại vị trí T10- T6 ở trẻ < 6
tuổi được GTTS mất rất nhanh và 100% thời
gian đó < 2 phút. Thời gian phục hồi vận
động nhỏ nhất 29 phút và lớn nhất 163 phút,
trung bình 55,3 24,4 phút.
Nghiên cứu trên 307 trẻ từ 0- 12 tuổi tác giả
Imbelloni và cộng sự(4), dùng bupivacain 0,5%
với liều 0,5 mg/kg chọc kim ở vị trí L3-4 thấy
thời gian phong bế vận động < 2 phút trong
tất cả các trường hợp, 75% bệnh nhân phục
hồi vận động ở mức độ 1 và 0 vào lúc cuối của
phẫu thuật, còn lại mức độ 2 là 16% và mức độ 3
là 9% (chia theo thang điểm Bromage cải tiến.
Trẻ lớn hơn 1 tuổi có khả năng tự đi bộ trong
khoảng 3,79 0,73 giờ.
1132 bệnh nhân tuổi từ 6 tháng tới 14 tuổi
được GTTS bằng bupivacain 0,5% liều 0,2mg/
kg, tác giả Puncuh nhận thấy: Khoảng thời
gian ức chế vận động ngắn, vào cuối cuộc mổ
sự vận động trở lại yếu hoặc chưa có thì
thường quan sát thấy chỉ sau 20 phút từ khi có
ức chế vận động. Kokk, Puncuh(6) cũng nhận
xét: Ức chế vận động ngắn và chức năng cơ trở
lại trước sự trở lại của cảm giác.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp
với các nhận xét của những tác giả trên, Thời
gian phong bế vận động ngắn cùng với thời
gian phong bế cảm giác nhanh cho phép phẫu
thuật tiến hành ngay mà vẫn có thuận lợi
trong phẫu thuật, cho phép thay đổi nhanh các
ca phẫu thuật tiết kiệm thời gian cho bệnh
nhân. Thời gian ức chế vận động rất ngắn và
ngắn hơn các loại vô cảm khác ở trẻ em cũng
như trên người lớn nên có thể cho bệnh nhân
đi lại sớm, ra viện sớm hoặc dùng rất tốt cho
bệnh nhân điều trị ngoại trú, bệnh nhân có
nguy cơ suy hô hấp sau mổ.
Thời gian giảm đau sau mổ
Thời gian trung bình nhóm nghiên cứu của
chúng tôi là 177,8 35,2 phút, thấp nhất là 126
phút và cao nhất là 250 phút. (Bảng 6).
Hannu Kokki và cộng sự nghiên cứu
trên 195 trẻ tuổi từ 6 tháng tới 10 tuổi mổ
thoát vị bẹn ngoại trú. Tác giả thống kê thấy
trong bệnh viện sau mổ không có bệnh nhân
nào đau dữ dội, đau khi nghỉ cũng như khi
vận động, 28% dùng giảm đau khi nằm ở
hồi tỉnh. Thời gian bệnh nhân ra viện kể từ
sau khi GTTS trung bình 230 (164 - 300)
phút, vào lúc xuất viện không có bệnh nhân
nào đau khi nghỉ, khi vận động không đau
hoặc có đau nhẹ. Ngày đầu sau mổ 65%
không đau, 16% đau nhẹ, 17% đau vừa phải
và 2% đau dữ dội.
Mặc dù có khác nhau giữa các tác giả về
kết quả nghiên cứu do đối tượng nghiên cứu
khác nhau, phẫu thuật khác nhau, cách thu
thập kết quả và đánh giá khác nhau nhưng
các tác giả cho thấy bupivacain dùng cho
GTTS đơn thuần ở trẻ em thì sau mổ trẻ nằm
yên tĩnh, bình thản, điều này cho thấy trẻ được
giảm đau tốt sau mổ, giảm được những chấn
thương do gây mê và phẫu thuật, và cũng là yếu
tố quan trọng cho bệnh nhân được về nhà với
những trường hợp mổ ngoại trú.
Đánh giá tác dụng phụ (Bảng 7)
Có 1 bệnh nhân chiếm 2,5% nôn và buồn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 11 * Phụ bản Số 4 * 2007
Chuyên đề Nhi Khoa 108
nôn, xảy ra 2 giờ đầu sau mổ, nôn 1lần và còn
cảm giác buồn nôn nhưng không nôn và không có
trường hợp nào bị đau đầu. (27 bệnh nhân từ 4 - 6
tuổi được xác định bằng cách hỏi). Như vậy, nôn -
buồn nôn khi GTTS bằng bupivacain ít gặp trong
nghiên cứu của chúng tôi.
Theo nghiên cứu của Puncuh với (n = 1132)
không có trẻ nào nôn và có 5 bệnh nhân đau
đầu, cũng tương tự Imbelloni(4) trên 307 trẻ
cũng không gặp trường hợp nào bị nôn, và có
3/307 bệnh nhân bị đau đầu nhẹ và ngắn.
Với Kokki có 5% bệnh nhân nôn và buồn
nôn trên 475 trường hợp(5), và có 5% bệnh nhân
đau đầu sau mổ, theo tác giả tỷ lệ nôn và buồn
nôn rất thấp ở trẻ nhỏ nhưng rất thường xuyên ở
trẻ đựơc gây mê toàn thân nên GTTS thích hợp
cho những trẻ em dễ bị nôn sau mổ. Trong một
nghiên cứu 3 ngày đầu sau mổ của tác giả Wee
LH, Lam F và cộng sự(8) trên 105 trẻ chọc tuỷ
sống vùng thắt lưng, kết quả chỉ rõ rằng không
có trẻ nào dưới 10 tuổi có biểu hiện đau đầu,
nhóm trẻ 10 - 12 tuổi có 11,8% biểu hiện đau đầu,
trong nhóm trẻ 13 - 18 tuổi có 50% biểu hiện đau
đầu.
Theo Puncul tỷ lệ đau đầu sau GTTS thường
xẩy ra và tỷ lệ rất thay đổi giữa các tác giả từ 0,4 -
5% nhưng thường nhẹ và nhanh khỏi
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu GTTS bằng bupivacain 0, 5%
liều 0,3mg/kg trên 40 bệnh nhi từ 1 đến 6 tuổi có
chỉ định phẫu thuật theo kế hoạch vùng dưới rốn
chúng tôi rút ra một số kết luận sau:
Về tác dụng vô cảm của phƣơng pháp
này.
Thời gian khởi tê GTTS trẻ em ngắn 01
phút ở T10 và < 3 phút ở T6
Thời gian vô cảm trong GTTS ở T10 trẻ em
là 89,7 ± 21,9 phút.
Thời gian phong bế vận động nhanh < 2 phút
Thời gian phục hồi vận động 55,3 ± 24,4 phút.
Thời gian giảm đau sau mổ trong GTTS trẻ
em là 177,8 35,2 phút.
Tính ổn định cao cho hô hấp, tuần hoàn.
Về tác dụng không mong muốn xảy ra
trong và sau mổ.
Trong nghiên cứu này chúng tôi còn gặp
một số tác dụng không mong muốn như:
Nôn và buồn nôn: với tỷ lệ 2,5% nhưng ở
mức độ nhẹ không cần điều trị gì.
Không có bệnh nhân nào chậm nhịp tim,
hạ SpO2, đau đầu, rét run.
Không có thất bại do kỹ thuật
GTTS trẻ em là một kỹ thuật đặc thù đã trở
nên phổ biến ở một số nước trên thế giới. Nếu
được huấn luyện tốt các nhà gây mê người lớn có
thể thực hiện GTTS trẻ em dễ dàng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 Dohi S, Nalto H, Takahashi T (1979), “Age- related
changes in plood pressure and duration of motor block in
spinal anaesthesia” Anesthesiology (50): 319- 323
2 Finkel JC, Bolz MG, Conran AM (2003), Haemodynamic
changes during high spinal anaesthesia in children having open
heart surgery Anaesth: 13: 48 -52.
3 Fosel T, Wilhelm W, Gruness V et al (1994), “Spinal
anesthesia in infancy using 0,5% bupivacaine: the effect of
an adrenaline addition on duration and hemodynamics”,
Anesthetist (43): 26-29
4 Imbelloni LE et al (2006), “Spinal anesthesia in children
with isobaric local anesthetic: Report on 307 patients
under13 years of age”, Pediatric Anesthesia (16): 43- 48
5 Kokki H (2000), “Spinal anaesthesia in children-
evaluation of puncture characteristics of Various needles
and block efficacy of vareous local anesthetic solution”,
Kuopio: Kopio University Printing Office.
6 Puncuh, Franco, Lampugnani (2005), "Spinal anaesthesia
in paediatric patients", Current Opnion, Volum 18 (3), June
2005, p 299 - 305.
7 Rochette A, Troncin R et al (2005), “ Clonidine added to
bupivacaine in neonatal spinal anesthsia: a prospective
comparison in 124 preterm and term infants”, Pediatric
Anesthesia (15): 1072- 1077
8 Wee LH, Lam F, Cranston AJ (1996), “The incidence of
postdural puncture headache in children”, Anesthesia 51
(12): 1164- 6
9 Williams, Robert K et al (2006), “The safety and spinal
anaesthesia for surgery in infants: the Vermont infant
spinal registry”, International anesthesa research society.
Volume 102(1), january 2006, pp 67- 71
10 Wu CL, Fleisher LA (2000), “Outcomes research in
regional anesthesia and analgesia”, Int Anesth Res (91):
1232- 1242
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 11 * Phụ bản Số 4 * 2007 Nghiên cứu Y học
Chuyên đề Nhi Khoa 109
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_gia_tac_dung_vo_cam_gay_te_tuy_song_bang_thuoc_bupivaca.pdf