Hàm lượng một số acid amin thiết
yếu tính theo vật chất khô như lysine (0,52-
0,64%) và methionine (0,13-0,20%) trong
lá của cây lá gai xanh cao hơn bột lá sắn
(tương ứng 0,2% và 0,06%), tương đương
với cám gạo về hàm lượng lysine (0,52-
0,62%) nhưng methionine thấp hơn (0,26-
0,3%) (Lã Văn Kính và cs., 2019).
Tuy nhiên, so sánh thành phần các
acid amin thiết yếu của lá cây lá gai với
protein lý tưởng cho gà thịt và lợn thịt
(Bảng 4) thấy tỷ lệ giữa các acid amin thiết
yếu có trong lá đều khác biệt với tỷ lệ đó
trong protein lý tưởng cho gà thịt và lợn
sinh trưởng. Như vậy, xét về giá trị protein,
lá cây lá gai xanh không phù hợp làm thức
ăn cho các đối tượng này. Do đó, lá cây lá
gai và có thể cả thân và rễ phù hợp hơn với
gia súc nhai lại.
KẾT LUẬN
Các bộ phận khác nhau của cây lá gai
xanh có thành phần dinh dưỡng khác nhau,
trong đó, lá của cây lá gai xanh có hàm
lượng protein thô và khoáng tổng số cao
hơn thân và rễ, ngược lại, hàm lượng xơ thô
cao ở thân hơn ở lá và rễ.
Tỷ lệ acid amin thiết yếu so với tổng
số acid amin trong lá cây lá gai xanh dao
động 44,85-47,85%, trong các loại acid
amin thiết yếu thì methionine có hàm lượng
thấp nhất. Hơn nữa, tỷ lệ từng loại acid amin
thiết yếu so với lysine có trong lá cây lá gai
không phù hợp với nhu cầu protein lý tưởng
cho gà thịt và lợn sinh trưởng.
Thành phần hoá học của các bộ phận
cây lá gai xanh và thành phần acid amin có
trong lá cho thấy tiềm năng sử dụng làm
thức ăn cho gia súc nhai lại hơn gia súc dạ
dày đơn.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 2 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá thành phần dinh dưỡng các bộ phận của cây lá gai xanh (boehmeria nivea L) trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi làm thức ăn cho vật nuôi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 4(1)-2020:1799-1805
1799
ĐÁNH GIÁ THÀNH PHẦN DINH DƯỠNG CÁC BỘ PHẬN CỦA CÂY LÁ
GAI XANH (Boehmeria nivea L.) TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NGÃI LÀM
THỨC ĂN CHO VẬT NUÔI
Nguyễn Thị Tường Vy1, Lê Hoàng Duy1, Nguyễn Minh Cần1, Trương Thị Bích Hồng1
Trương Thị Thảo1, Lê Thị Như Quỳnh1, Võ Thị Việt Dung1, Đinh Văn Dũng2*
1Trường Đại học Phạm Văn Đồng, Quảng Ngãi
2Trường Đại học Nông Lâm, Đại học Huế
*Tác giả liên hệ: dinhvandung@huaf.edu.vn
Nhận bài:16/01/2020 Hoàn thành phản biện: 17/03/2020 Chấp nhận bài: 25/03/2020
TÓM TẮT
Nghiên cứu nhằm xác định giá trị dinh dưỡng của các bộ phận (lá, thân và rễ) của cây lá gai xanh
được trồng tại tỉnh Quảng Ngãi. Hai giống cây lá gai xanh gồm giống gai xanh truyền thống và giống
mới AP1 được thu hoạch lúc 50-54 ngày tái sinh sau lứa cắt thứ nhất. Cây sau khi thu hoạch được chia
thành các bộ phận gồm lá, thân, rễ, và được sấy khô ở nhiệt độ 60oC, sau đó nghiền bột để tiến hành
phân tích thành phần dinh dưỡng. Kết quả cho thấy, hàm lượng protein thô trong lá (21,8-22,9%) cao
hơn trong thân (8,20-11,3%) và rễ (5,84-9,01); Trong khi, hàm lượng xơ thô trong thân (32,1-43,2%)
cao hơn trong lá (14,4-16,3%) và rễ (12,6-23,7%). Tỷ lệ acid amin thiết yếu so tổng acid amin trong lá
gai xanh dao động 44,85-47,85% và tỷ lệ từng acid amin so với lysine của lá đều không phù hợp với
nhu cầu protein lý tưởng cho gà thịt và lợn sinh trưởng. Với kết quả này, có thể kết luận rằng các bộ
phận của cây lá gai xanh có thể làm thức ăn cho gia súc nhai lại hơn gia súc dạ dày đơn.
Từ khoá: Acid amin, Cây lá gai xanh, Protein lý tưởng, Thành phần hoá học
EVALUATION OF NUTRITIONAL COMPOSITION OF RAMIE FOLIAGE
(Boehmeria nivea L) AS A FEED FOR ANIMAL IN
QUANG NGAI PROVINCE
Nguyen Thi Tuong Vy1, Le Hoang Duy1, Nguyen Minh Can1, Truong Thi Bich Hong1
Truong Thi Thao1, Le Thi Nhu Quynh1, Vo Thi Viet Dung1, Dinh Van Dung2
1Pham Van Dong University, Quang Ngai province
2Hue University of Agriculture and Forestry, Hue University
ABSTRACT
The objective of this study is to evaluate the nutritional value of the parts (leaves, stems and
roots) of ramie foliage (Boehmeria nivea L.) as a feed for animals in Quang Ngai province. Two
varieties of ramie included traditional ramie and AP1 ramie were harvested at 50-54 days after the first
cutting. The harvested ramie were divided into parts including leaves, stems and root, and these parts
were dried at 60oC then to conduct nutritional analysis. Results showed that the dry matter, organic
matter, crude protein, crude fat and crude fibre were 21.2-26.3, 78.8-82.4, 21.8-22.9, 4.4-6.05 and 14.4-
16.3%, respectively. Similarly, these nutritional values in stems were 18.4-37.8, 90.3-95.8, 8.20-11.3,
5.20-8.90 and 32.1-43.2%, respectively. Whereas, the roots of ramie have dry matter, organic matter,
crude protein, crude fat and crude fibre were 15.6-38.2, 88.0-97.1, 5.84-9.01, 3.60-4.00 and 12.6-23.7%,
respectively. The percentage of essential amino acids in the leaves of ramie was 38.12-41.5%. In total
essential amino acid, methionine content is the lowest, the ratio of lysine reaches 2.37-2.94 of total
crude protein. Estimating the ideal protein of ramie reaches 340-420 g/kg protein. With these results, it
could be concluded that the parts of ramie (Boehmeria nivea L.) can be fed for animals, especially the
leaves. The leaves of ramie are the rich protein source that has much potential as a feed for animals.
Keywords: Ramie, Boehmeria nivea, Chemical composition, Amino acid
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 4(1)-2020:1799-1805
1800 Nguyễn Thị Tường Vy và cs.
1. MỞ ĐẦU
Cây lá gai xanh (Boehmeria nivea L.)
là một loài thực vật đã được sử dụng rộng
rãi như một phương thuốc dân gian, vỏ thân
cây được sử dụng để làm quần áo truyền
thống. Lá cây lá gai xanh là một nguồn giàu
chất xơ, acid amin, canxi, kali và magiê
(Yoon và cs., 2006; Lee và cs., 2014). Theo
nghiên cứu của Đinh Văn Tuyền (2009) ở
Việt Nam, cây lá gai xanh thường chỉ được
trồng với qui mô nhỏ trong vườn hoặc bờ
rào của các hộ gia đình với mục đích chính
là lấy lá làm bánh vào các dịp lễ tết. Theo
Wood (1999), cây lá gai xanh có năng suất
cao và giàu protein nên thân cây lá gai xanh
có thể là một nguồn protein có giá trị cho
vật nuôi. Broom (2016) cho biết lá của cây
lá gai xanh là thức ăn của các loài cừu, dê
và trâu bò ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt
đới. Cây lá gai xanh có sinh khối lớn là một
nguồn dinh dưỡng phù hợp cho các loài gia
súc kể cả lợn và gia cầm (Despal và cs.,
2017). Các tác giả cho biết lá gai xanh giàu
protein, khoáng chất, lysine và carotene
nhưng ít chất xơ; Sinh khối đạt được khoảng
300 tấn tươi (khoảng 42 tấn vật chất khô)
trên mỗi hecta trong 1 năm.
Hiện nay, nhiều địa phương trong cả
nước như Thanh Hoá, Sơn La, Quảng Ngãi
đã trồng giống cây lá gai xanh với diện tích
hàng trăm ha với mục đích lấy sợi. Theo đó,
một lượng lớn phụ phẩm (thân, lá, rễ) đang
bị bỏ phí. Ước tính, sau khi lấy sợi lượng
vật chất khô còn lại khoảng 24 tấn/ha/năm,
hàm lượng protein thô 17% (Kipriotis và
cs., 2015). Với nhiều đặc điểm như trên,
phụ phẩm cây lá gai xanh được đánh giá có
nhiều tiềm năng trong việc sử dụng làm
thức ăn cho trâu bò, lợn và gia cầm.
Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có
nghiên cứu nào đánh giá đầy đủ thành phần
dinh dưỡng của các bộ phận cây lá gai xanh.
Mục tiêu của nghiên cứu này là xác định
thành phần dinh dưỡng các bộ phận của cây
lá gai xanh (Boehmeria nivea L.) địa
phương (cây trồng truyền thống nhiều năm
nay) và cây lá gai xanh giống mới AP1
(Boehmeria nivea L.) được trồng tại tỉnh
Quảng Ngãi, nhằm tạo cơ sở cho việc chế
biến sử dụng phụ phẩm cây lá gai xanh làm
thức ăn cho vật nuôi.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Thu mẫu cây lá gai xanh
Các mẫu cây lá gai xanh giống địa
phương thu hái tại 3 huyện (Sơn Tịnh, Đức
Phổ và Ba Tơ) và giống AP1 ở Đức Phổ,
đây là những huyện có diện tích trồng lớn,
phổ biến và đại diện cho đặc thù vùng được
lựa chọn để phân tích thành phần dinh
dưỡng. Cây lá gai xanh được thu hoạch lúc
50-54 ngày tái sinh sau lứa cắt thứ nhất (lứa
cắt thứ nhất được cắt lúc 105 ngày sau khi
trồng). Cây lá gai xanh được tách thành các
bộ phận gồm lá, thân sau khi bóc vỏ và rễ.
Từng bộ phận của cây được trộn đều và lấy
mẫu chuyển đến phòng thí nghiệm, cắt ngắn
1-2 cm, tiến hành sấy ở nhiệt độ 60oC, sau
đó nghiền bột và tiến hành phân tích thành
phần dinh dưỡng.
2.2. Phân tích thành phần dinh dưỡng
Mẫu các bộ phận cây lá gai xanh
được phân tích vật chất khô, khoáng tổng
số, Nitơ tổng số (N), Béo thô (EE) và xơ thô
bằng phương pháp của AOAC (1990).
Protein thô được tính toán bằng N x 6,25.
Acid amin trong lá gai xanh được phân tích
theo tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN
8764:2012; ISO 13903:2005) bằng máy
HPLC.
2.3. Xử lý số liệu
Số liệu thu thập được quản lý bằng
phần mềm EXCEL (2010) và được xử lý
bằng phần mềm Minitab 16.2.0 (2010). Kết
quả được trình bày với các giá trị thống kê
gồm giá trị trung bình và độ lệch chuẩn.
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 4(1)-2020:1799-1805
1801
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Vật chất khô và chất hữu cơ của các
bộ phận cây lá gai xanh
Kết quả phân tích vật chất khô và
chất hữu cơ của các bộ phân cây lá gai xanh
truyền thống và giống AP1 trồng ở Quảng
Ngãi được thể hiện ở Bảng 1.
Bảng 1. Vật chất khô (DM) và chất hữu cơ của các bộ phân cây lá gai xanh
Chỉ tiêu Bộ phận
Giống truyền thống Giống AP1
Ba Tơ Sơn Tịnh Đức Phổ Đức Phổ
Vật chất khô (%)
Lá 25,0±3,571 26,3±4,25 21,2±2,54 23,5±4,89
Thân 34,1±2,60 24,3±0,48 18,4±6,21 37,8±4,86
Rễ 25,4±1,39 19,9±2,24 15,6±1,47 38,2±2,19
Chất hữu cơ (%DM)
Lá 81,0±0,99 82,4±1,69 78,8±0,38 80,5±0,95
Thân 93,0±0,60 90,3±0,55 91,1±0,15 95,8±0,44
Rễ 91,7±0,65 88,0±0,22 92,3±0,04 97,1±0,15
1độ lệch chuẩn
Kết quả ở Bảng 1 cho thấy, hàm
lượng vật chất khô của lá cây lá gai xanh
trồng tại Quảng Ngãi dao động từ 21,2 đến
26,3%. Lượng vật chất khô của các bộ phận
thân và rễ dao động lần lượt là 18,4-34,1%
và 15,6 đến 38,2%. Sự biến động về vật chất
khô trong rễ và thân là khá lớn giữa giống
cây lá gai xanh truyền thống và giống mới
AP1. Kết quả về vật chất khô của lá cây lá
gai xanh trong nghiên cứu này là cao hơn so
với kết quả nghiên cứu của Đinh Văn Tuyền
và cs. (2012). Các tác giả cho biết rằng hàm
lượng vật chất khô trong lá gai xanh khoảng
16%. Đồng thời, kết quả của nghiên cứu này
cũng cao hơn so với lượng vật chất khô của
lá cây lá gai xanh trồng ở Indonesia với 13%
(Despal và cs., 2017). So với một số loại
thức ăn không truyền thống khác cho gia
súc nhai lại, vật chất khô của lá cây lá gai
xanh thấp hơn vật chất khô của lá mít
(32,5%), tương đương với vật chất khô của
lá duối (22-25%) (Bùi Văn Lợi và cs.,
2012).
Hàm lượng chất hữu cơ trong lá cây
lá gai xanh dao động từ 78,8 đến 82,4% theo
vật chất khô, trong khi đó lượng chất hữu cơ
trong thân cũng như trong rễ cây lá gai xanh
cao hơn so với ở lá. Hàm lượng chất hữu cơ
trong lá cây lá gai xanh trong nghiên cứu
này là tương đương với kết của nghiên cứu
của Đinh Văn Tuyền và cs. (2012). Theo
Đinh Văn Tuyền và cs. (2012), hàm lượng
chất hữu cơ của lá gai xanh tươi và khô lần
lượt lá 80 và 77%. Đồng thời kết quả nghiên
cứu này cũng tương đương với kết quả của
Park và cs. (2010), Spoladore và cs. (1984),
và Lee và cs. (2009). So với cỏ voi, cỏ tự
nhiên hoặc lá mít, là duối thì hàm lượng chất
hữu cơ của lá gai là thấp hơn (Bùi Văn Lợi
và cs., 2012). Hàm lượng chất hữu cơ trong
lá gai thấp có nghĩa là hàm lượng khoáng
tổng số cao, điều này là phù hợp với khuyến
cáo của Machin (1977) khi cho rằng, cây lá
gai có khả năng hấp thu khoáng cao.
3.2. Protein, béo và xơ thô của các bộ
phân cây lá gai xanh
Kết quả đánh giá hàm lượng protein
thô, béo thô và xơ thô của các bộ phận cây
lá gai xanh được thể hiện ở Bảng 2. Kết quả
ở Bảng 2 cho thấy, hàm lượng protein của
lá cây lá gai xanh dao động từ 21,85 đến
22,91%, trong khi đó, protein thô trong thân
và rễ lần lượt là 8,20-11,26% và 5,84-
9,01%. Như vậy, có thể thấy, hàm lượng
protein thô trong lá cây lá gai xanh là rất
cao, điều này cho thấy lá cây lá gai xanh có
thể sử dụng làm nguồn thức ăn giàu protein
cho vật nuôi rất tốt. Hàm lượng protein
trong lá cây lá gai xanh ở nghiên cứu này là
tương đương với kết quả nghiên cứu của
Đinh Văn Tuyền và cs. (2012), Kipriotis và
cs. (2015) và Miranda và cs (2012), tuy
nhiên cao hơn so với nghiên cứu của Conto
và cs. (2011) và Spoladore và cs. (1984). So
với hàm lượng protein thô trong cỏ voi, cỏ
tự nhiên, lá mít hay lá duối trong nghiên cứu
của Bùi Văn Lợi và cs. (2012) thì hàm
lượng protein thô trong lá cây lá gai cao hơn
rất nhiều.
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 4(1)-2020:1799-1805
1802 Nguyễn Thị Tường Vy và cs.
Bảng 2. Hàm lượng protein, Béo và xơ thô của các bộ phận cây lá gai xanh
Chỉ tiêu Bộ phận
Giống truyền thống Giống AP1
Ba Tơ Sơn Tịnh Đức Phổ Đức Phổ
Protein thô (%DM)
Lá 21,9±0,951 22,7±0,88 21,8±1,03 22,9±0,90
Thân 8,37±0,24 8,60±0,0,40 8,20±0,0,22 11,3±0,57
Rễ 6,00±0,32 6,42±0,27 5,84±0,65 9,01±1,18
Béo thô (%DM)
Lá 4,40±0,22 4,51±0,30 4,48±0,42 6,05±0,14
Thân 8,00±0,10 8,90±0,12 7,50±0,11 5,20±0,04
Rễ 3,60±0,05 3,60±0,02 3,90±0,04 4,00±0,04
Xơ thô (%DM)
Lá 16,3±0,29 15,4±0,46 15,4±0,44 14,4±0,44
Thân 33,5±0,82 32,1±1,24 32,3±0,78 43,2±0,70
Rễ 23,7±0,37 23,5±0,69 22,0±1,32 12,6±0,54
1độ lệch chuẩn
Hàm lượng béo thô trong lá cây lá gai
xanh ở nghiên cứu hiện tại dao động trong
khoảng 4,40-6,05%. Theo Park và cs.
(2010), hàm lượng béo thô trong lá cây lá
gai xanh ở Hàn Quốc là 6,95%, cao hơn so
với kết qủa nghiên cứu này. Theo Lee và cs.
(2009), hàm lượng béo thô lá cây lá gai xanh
trong ở Trung Quốc 4,89%, cao hơn hàm
lượng béo thô trong lá cây lá gai xanh
truyền thống nhưng thấp hơn hàm lượng
béo thô trong lá cây lá gai xanh AP1. Như
vậy, hàm lượng béo thô trong lá cây lá gai
xanh ở nghiên cứu này phù hợp với các
công bố trong các nghiên cứu trước. Trong
các bộ phận của cây lá gai xanh, thân cây có
hàm lượng béo thô cao nhất.
Trong khi, hàm lượng xơ thô ở thân
cao hơn lá cây lá gai xanh trong nghiên cứu
của chúng tôi. Ở thân, hàm lượng xơ thô dao
động 32,1 – 43,2% và ở lá, hàm lượng xơ
dao động trong khoảng 14,4%-16,3%. Kết
quả nghiên cứu này là tương đương với kết
quả nghiên cứu của Đinh Văn Tuyền và cs.
(2012). Các tác giả thông báo rằng hàm
lượng xơ thô trong lá cây lá gai xanh dao
động từ 13-24,6%. Theo nghiên cứu của
Spoladore và cs. (1984), cây lá gai xanh
trồng tại Bồ Đào Nha có hàm lượng xơ thô
chiếm 12,98%. Hàm lượng xơ thô thay đổi
theo ngày tuổi của cây lá gai xanh, lá càng
già hàm lượng xơ thô càng tăng cụ thể ở giai
đoạn 15 ngày tuổi hàm lượng xơ thô là
23,68%, ở giai đoạn 30 ngày tuổi là 29,44%;
giai đoạn 45 ngày tuổi là 39,57% giai đoạn
60 ngày tuổi là 44,83% (Suryanah và cs.,
2017).
3.3. Thành phần acid amin trong lá cây
lá gai xanh trồng tại Quảng Ngãi
Kết quả phân tích thành phần acid
amin trong lá cây lá gai xanh được thể hiện
ở Bảng 3. Qua Bảng 3 cho thấy, tổng lượng
16 acid amin của lá cây lá gai xanh trồng tại
Quảng Ngãi đạt 12,04-14,92 g/100 g vật
chất khô. Lá của giống AP1 có tổng lượng
acid amin cao hơn so với lượng acid amin
trong lá của giống cây truyền thống.
Tỷ lệ acid amin thiết yếu so với tổng
giá trị các acid amin được phân tích dao
động từ 44,85 đến 47,85%. Theo Park và cs.
(2010), tỷ lệ acid amin thiết yếu trong lá
của cây lá gai xanh trồng ở Hàn Quốc là
44,65%. Kết quả nghiên cứu hiện tại cũng
phù hợp với công bố này.
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 4(1)-2020:1799-1805
1803
Bảng 3. Thành phần acid amin trong lá cây lá gai xanh (g/100 g vật chất khô mẫu)
Loại acid amin
Giống truyền thống Giống AP1
Sơn Tịnh Đức Phổ Ba Tơ Đức phổ
Acid amin thiết yếu 5,40 5,80 5,89 6,73
Arginine 0,810,161 0,790,20 0,780,17 0,940,15
Valine 0,900,06 0,800,04 0,850,12 1,040,21
Leucine 0,940,15 1,040,07 1,150,21 1,190,23
Methionine 0,150,08 0,200,04 0,130,02 0,200,05
Threonine 0,480,04 0,520,11 0,560,12 0,670,20
Lysine 0,520,08 0,590,08 0,640,23 0,600,13
Phenylalanine 0,750,04 0,850,06 0,730,05 0,900,02
Histidine 0,220,07 0,280,05 0,400,04 0,430,06
Isoleucine 0,630,14 0,730,08 0,650,05 0,740,07
Acid amin không thiết yếu 6,64 6,50 6,42 8,11
Alanine 0,930,21 0,920,13 0,910,14 0,980,03
Aspartic acid 1,650,13 1,600,24 1,670,21 2,590,32
Glutamic acid 1,450,12 1,420,17 1,390,22 1,780,23
Glycine 0,730,15 0,690,12 0,700,20 0,880,21
Proline 0,560,07 0,600,12 0,500,21 0,720,04
Serine 0,720,05 0,670,02 0,700,03 0,780,06
Tyrosine 0,600,04 0,600,21 0,550,10 0,480,05
Tổng 16 acid amin 12,04 12,30 12,31 14,92
Tỷ lệ acid amin thiết yếu (%) 44,85 47,15 47,85 45,11
1độ lệch chuẩn
Hàm lượng một số acid amin thiết
yếu tính theo vật chất khô như lysine (0,52-
0,64%) và methionine (0,13-0,20%) trong
lá của cây lá gai xanh cao hơn bột lá sắn
(tương ứng 0,2% và 0,06%), tương đương
với cám gạo về hàm lượng lysine (0,52-
0,62%) nhưng methionine thấp hơn (0,26-
0,3%) (Lã Văn Kính và cs., 2019).
Tuy nhiên, so sánh thành phần các
acid amin thiết yếu của lá cây lá gai với
protein lý tưởng cho gà thịt và lợn thịt
(Bảng 4) thấy tỷ lệ giữa các acid amin thiết
yếu có trong lá đều khác biệt với tỷ lệ đó
trong protein lý tưởng cho gà thịt và lợn
sinh trưởng. Như vậy, xét về giá trị protein,
lá cây lá gai xanh không phù hợp làm thức
ăn cho các đối tượng này. Do đó, lá cây lá
gai và có thể cả thân và rễ phù hợp hơn với
gia súc nhai lại.
Bảng 4. Thành phần acid amin trong lá của cây lá gai xanh (g/100 g protein thô) so với protein lý
tưởng
Lá cây lá gai1 IP2 IP3
% (DM) g/160 g N % so Lysine % so Lysine % so Lysine
CP (%) 22,33 - -
Lysine 0,59 26,4 100 100 100
Arginine 0,83 37,1 140,5 110 -
Isoleucine 0,69 30,9 117,0 73 50
Leucine 1,08 48,4 183,3 109 100
Methionine 0,17 7,6 28,8 38 -
Met. + Cysteine - - - 72 50
Threonine 0,56 25,1 95,1 74 66
Histidine 0,33 14,8 56,1 32 33
Phenylalanine 0,81 36,3 137,5 - 40
Phe + Tyrosine - 122 100
Valine 0,90 40,3 152,8 82 70
1 Giá trị trung bình của tất cả các mẫu; 2 Protein lý tưởng cho gà thịt (NRC, 1994); 3 Protein lý tưởng
cho lợn sinh trưởng (Cole và Van Lunen, 1994)
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 4(1)-2020:1799-1805
1804 Nguyễn Thị Tường Vy và cs.
4. KẾT LUẬN
Các bộ phận khác nhau của cây lá gai
xanh có thành phần dinh dưỡng khác nhau,
trong đó, lá của cây lá gai xanh có hàm
lượng protein thô và khoáng tổng số cao
hơn thân và rễ, ngược lại, hàm lượng xơ thô
cao ở thân hơn ở lá và rễ.
Tỷ lệ acid amin thiết yếu so với tổng
số acid amin trong lá cây lá gai xanh dao
động 44,85-47,85%, trong các loại acid
amin thiết yếu thì methionine có hàm lượng
thấp nhất. Hơn nữa, tỷ lệ từng loại acid amin
thiết yếu so với lysine có trong lá cây lá gai
không phù hợp với nhu cầu protein lý tưởng
cho gà thịt và lợn sinh trưởng.
Thành phần hoá học của các bộ phận
cây lá gai xanh và thành phần acid amin có
trong lá cho thấy tiềm năng sử dụng làm
thức ăn cho gia súc nhai lại hơn gia súc dạ
dày đơn.
LỜI CẢM ƠN
Nhóm tác giả bày tỏ lòng biết ơn đến
UBND tỉnh Quảng Ngãi, Sở KH&CN tỉnh
Quảng Ngãi đã tài trợ nghiên cứu này thông
qua đề tài nghiên cứu về cây lá gai xanh, mã
số 09/2018/HĐ-ĐTKHCN (2018-2020).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu tiếng Việt
Bùi Văn Lợi, Nguyễn Xuân Bả, Nguyễn Hữu
Văn, Đinh Văn Dũng và Lê Đức Ngoan.
(2012). Đánh giá giá trị dinh dưỡng của một
số loại thức ăn thô xanh cho cừu ở Thừa
Thiên Huế. Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Chăn
nuôi, 163(10), 63-68.
Đinh Văn Tuyền, Phạm Bảo Duy và Hoàng Văn
Huy (2009). Gía trị dinh dưỡng của cây lá
gai làm thức ăn cho gia sức nhai lại. Tạp chí
khoa học Công nghệ chăn nuôi, (19), 1-7.
Lã Văn Kính, Lê Đức Ngoan và Nguyễn Hải
Quân. (2019). Dinh dưỡng và thức ăn chăn
nuôi lợn. Hà Nội: Nhà xuất bản Nông
Nghiệp.
2. Tài liệu tiếng nước ngoài
AOAC. (1990). Official methods of analysis.
15th Edition. Association of Official
Analytical Chemists, Arlington, VA, USA.
Broom, D. M. (2016), Livestock sustainability
and animal welfare. Proceedings of the 1st
International Meeting of Advances in
Animal Science. Jaboticabal, Brazil, 1-15.
Cole, D. J. A., Van Lunen, T. A. (1994). Ideal
amino acid patterns. In: D’Mello, J. P. F.
(Ed.), Amino Acids in Farm Animal
Nutrition (pp. 99–112). Wallingford, Oxon,
UK: CAB International.
Conto G., Carfì, F., & Pace, V. (2011),
Chemical composition and nutritive value of
ramie plant (Boehmeria nivea (L.) Gaud)
and its by-products from the textile industry
as feed for ruminants. Journal of
Agricultural Science and Technology, 5(9),
641-646.
Despal, D. (2007), Suplementasi nutrien
defisien untuk meningkatkan penggunaan
daun rami (Boehmeria nivea, L. Gaud)
dalam ransum domba. Media
Peternakan, (30), 181-188.
Kipriotis, E., Heping, X., Vafeiadakis, T.,
Kiprioti, M., & Alexopoulou, E. (2015),
Ramie and kenaf as feed crops. Industrial
Crops and Products, (68), 126-130.
Lee, H. J., Kim, A, R. A, & Lee, J. J. (2014),
Effects of Ramie Leaf Extract on Blood
Glucose and Lipid Metabolism in db/db
Mice. Journal of the Korean Society for
Applied Biological Chemistry, 57(5),
639−645.
Lee, Y. R., Nho, J. W., Hwang, I. G., Kim, W.
J., Lee, Y. J., & Jeong, H. S. (2009),
Chemical composition and antioxidant
activity of ramie leaf (Boehmeria nivea L.).
Food Science and Biotechnology, 18(5),
1096-1099.
Machin, D. H. (1977). Ramie as an animal feed:
review. Tropical Science, (19), 187-195.
Miranda, L. F., Rodriguez, N. M., Pereira, E. S.,
de Queiroz, A. C., Sainz, R. D., Pimentel, P.
G., & Neto, M. M. G. (2012). Emical
composition and ruminal degradation
kinetics of crude protein and amino acids
and intestinal digestibility of amino acids
from tropical forages. Revista Brasileira de
Zootecnia, (41), 717-725.
NRC. (1994). Ninth Revised Edition.
Washington D.C: National Academy Press.
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 4(1)-2020:1799-1805
1805
Park M. R., Joon, L. J., Ra, K. A., Ok, J. H., &
Yul, L. M. (2010). Physicochemical
composition of ramie leaves (Boehmeria
nivea L.). Korean Journal of Food
Preservation, 17(6), 853-860.
Spoladore D. S., Junior, R. B., Feijao, J. P.,
Zullo, M. A. T., & Azzini, A. (1984),
Chemical composition of leaves and wood
fiber dimension in ramie stalk. Bragantia,
43(1), 229-236.
Suryanah S., Rochana, A., Susilawati, I., &
Indiriani, N. P. (2017). Ramie (boehmeria
nivea) plant nutrient quality as feed forage at
various cut ages. Animal production, 19(2),
111-118.
Wood, I. (1999). Ramie: the different bast fibre
crop. The Australian new crops newsletter.
Retrieved from
162.htm
Yoon, S. J., & Jang, M. S. (2006),
Characteristics of quality in Jeolpyun with
different amounts of ramie. Korean Journal
of Food and Cookery Science, (23), 636-641.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
danh_gia_thanh_phan_dinh_duong_cac_bo_phan_cua_cay_la_gai_xa.pdf