KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
4.1. Kết luận
Kết quả điều tra 494 hộ sản xuất CSR và CSV tại
tỉnh Vĩnh Long, ghi nhận: Về diện tích trồng CSR và
CSV chủ yếu từ 0,2 - 0,4 ha/hộ là chủ yếu, chiếm tỷ
lệ lần lượt 56,89% và 65,53%. Sử dụng gốc ghép cam
Mật chiếm tỷ lệ cao nhất 89,10% và 85,88% ở CSR
và CSV. Chiều rộng liếp trung bình 2,95 và 3,52 m,
chiều cao mô 0,4 và 0,44 m lần lượt ở CSR và CSV.
Trung bình tổng số cây/ha của CSR là 4.234,9
cây/ha và CSV là 1.864 cây/ha. Khoảng cách hàng
cách hàng từ 1-1,4 m chiếm tỷ lệ cao 78,24% đối với
khoảng cách CSV thì hàng cách hàng là 2,25 m và
cây cách cây là 1,92 m.
Cả hai hình thức canh tác CSR và CSV đều áp
dụng biện pháp xử lý ra hoa nghịch vụ chiếm tỷ lệ
rất cao 76,46% và 82,35%. Số lần sử dụng phân vô
cơ và hữu cơ ở kiểu canh tác CSR là 14,6 lần/năm và
1,5 lần/năm. Đối với CSV sử dụng phân vô cơ là
12,5 lần/năm và phân hữu cơ là 2,2 lần/năm. Liều
lượng phân NPK bón cho CSR là 5.818 kg/ha/năm
trong khi CSV bón 3.518 kg/ha/năm.
Đối với CSR nhóm đối tượng sâu hại phổ biến là
nhện đỏ (18,5%), đối với nhóm bệnh hại thì bệnh
VLGX là phổ biến nhất chiếm 43,4%. Đối với CSV
nhóm sâu hại phổ biến nhất là sâu vẽ bùa 18,3%,
bệnh hại phổ biến nhất vẫn là VLGX chiếm 41,9%.
Năng suất cao nhất là ở năm thứ ba trung bình
38 tấn/ha/năm ở vụ thuận và 75,08 tấn/ha/năm ở vụ
nghịch ở CSR. Đối với CSV, năng suất cao nhất là ở
năm thứ tư ở vụ thuận đạt 19,29 và năm thứ ba ở vụ
nghịch đạt 26,18 tấn/ha/năm.
4.2. Đề nghị
Từ những hạn chế được nêu ra trong báo cáo cần
có những giải pháp khắc phục để sản xuất cam Sành
tại tỉnh Vĩnh Long được an toàn và bền vững hơn.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 1 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá thực trạng canh tác cam sành tại tỉnh Vĩnh Long, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
71
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
4.2. Đề nghị
Hiệu quả phòng trừ bệnh thối cuống trái cam
sành bằng biện pháp phòng trừ sẽ được tiến hành
điều kiện ngoài đồng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Chung Thị Thanh Hồng, 2015. Phân tích hiệu quả mô
hình sản xuất cam sành tại huyện Tam Bình tỉnh
Vĩnh Long. Luận văn cao học ngành Hệ thống Nông
nghiệp. Viện Nghiên cứu Phát triển Đồng bằng sông
Cửu Long. Trường Đại học Cần Thơ.
Nguyễn Thị Hoàng Nữ, Mai Nguyễn Minh Trí, Đoàn
Thị Kiều Tiên, Văn Quốc Giang, Nguyễn Thị Thu
Nga, 2018. Xác định tác nhân gây thối cuống trái cam
soàn (Citrus sinensis L.) tại Đồng Tháp. Tạp chí Khoa
học - Trường Đại học Cần Thơ, 54 (4B): 100-107.
Bùi Triệu Thương, Trần Bá Linh, Nguyễn Minh
Phượng, Tất Anh Thư, Nguyễn Ngọc Thanh, 2018.
Đánh giá sự bạc màu đất vườn trồng cam sành dựa
trên hình thái, đặc tính lý, hóa đất tại huyện Tam
Bình tỉnh Vĩnh Long. Tạp chí Khoa học Công nghệ
Nông nghiệp Việt Nam, 10 (95): 106-113.
Burgess L.W., Knight T.M., Tesoriero L. và Phan Thúy
Hiền, 2009. Cẩm nang chẩn đoán bệnh cây ở Việt
Nam. Nhà xuất bản Trung tâm Nghiên cứu Nông
nghiệp Quốc tế Australia. 210 trang.
Galsurker O., Diskin S., Maurer D., Feygenberg O. and
Alkan N., 2018. Fruit stem-end rot. Horticulturae,
4 (50): 1-16.
Identification and efficacy of pesticides on pathogen causing stem-end rot
of king madarin fruits
Le Thanh Toan, Tran Thanh Dat
Abstract
In recent years, stem-end rot of citrus fruits in general, of king madarin fruits in particualar has occurred and
caused severe damage to farmers. The research results showed that among 10 fungal specimens isolated and purified
from stem-end rot lesions of king madarin fruits in two districts Tam Binh and Tra On, Vinh Long province, the
isolate of TB2 had the highest toxicity and was identified as Colletotrichum gloeosporioides, with coincidence index
of 100% based on NCBI. The in vitro efficacy of some pesticides to C. gloeosporioides indicated that the treatment of
Azoxystrobin + Fosetyl Aluminium + Dimethomorph had high inhibition rate, compared to the control one. The
in vivo efficacy of Azoxystrobin + Fosetyl Aluminium + Dimethomorph to stem-end rot lesions showed that use of
the pesticide at 1 and 5 days before pathogen inoculation limitted the lesion development.
Keywords: Anthracnose, madarin, pesticide
Ngày nhận bài: 06/5/2020
Ngày phản biện: 12/5/2020
Người phản biện: TS. Lê Quốc Điền
Ngày duyệt đăng: 20/5/2020
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CANH TÁC CAM SÀNH
TẠI TỈNH VĨNH LONG
Trần Thị Mỹ Hạnh1, Đặng Quốc Chương1,
Nguyễn Thị Cẩm Giang1, Lương Thị Duyên1
TÓM TẮT
Đánh giá thực trạng canh tác cam Sành tại tỉnh Vĩnh Long được thực hiện tại huyện Trà Ôn, Tam Bình, Vũng
Liêm và TP. Vĩnh Long thông qua điều tra 494 hộ trồng cam Sành từ tháng 7/2018 đến 6/2019. Kết quả cho thấy
nông dân sử dụng gốc ghép cam Mật để làm gốc ghép chiếm tỷ lệ cao nhất, 89,10% ở cam Sành ruộng (CSR) và
85,88% ở cam Sành vườn (CSV). Trung bình tổng số cây/ha của các ruộng trồng cam Sành là 4.234,9 cây/ha,
trong khi ở CSV được trồng với mật độ là 1.864 cây/ha. Khoảng cách hàng cách hàng từ 1 - 1,4 m chiếm tỉ lệ cao
78,24% ở CSR, đối với khoảng cách CSV thì hàng cách hàng là 2,25 m và cây cách cây là 1,92 m. Cả hai hình thức
canh tác CSR và CSV đều áp dụng biện pháp xử lý ra hoa nghịch vụ chiếm tỷ lệ rất cao 76,46% và 82,35%. Số lần sử
dụng phân vô cơ và hữu cơ ở kiểu canh tác CSR là 14,6 lần/năm và 1,5 lần/năm. Đối với CSV sử dụng phân vô cơ
là 12,5 lần/năm và phân hữu cơ là 2,2 lần/năm. Trung bình liều lượng phân NPK bón cho CSR là 5.818 kg/ha/năm
trong khi CSV bón 3.518 kg/ha/năm. Đối với CSR bệnh vàng là gân xanh (VLGX) và nhện đỏ là dịch hại phổ biến
nhất chiếm lần lượt 43,4% và 18,5%, trong khi CSV thì sâu vẽ bùa 18,3% và bệnh VLGX chiếm 41,9% là phổ biến
1 Viện Cây ăn quả miền Nam
72
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
nhất. Năng suất cam Sành đạt cao nhất là ở năm thứ ba trung bình 38 tấn/ha/năm ở vụ thuận và 75,08 tấn/ha/năm
ở vụ nghịch đối với CSR. Đối với CSV, năng suất cao nhất là ở năm thứ tư đạt 19,29 tấn/ha/năm (vụ thuận) và năm
thứ ba ở vụ nghịch 26,18 tấn/ha/năm.
Từ khóa: Cây cam Sành, cam Sành ruộng, cam Sành vườn, hiện trạng sản xuất
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cam Sành (Citrus nobilis Lour.) là một trong
nhiều loại cây ăn quả chủ lực của nước ta, có lịch
sử phát triển lâu đời và được trồng nhiều ở Đồng
bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), tập trung tại các
tỉnh Hậu Giang (11.698 ha), Vĩnh Long (9.804 ha)
và Sóc Trăng (3.873 ha). Năm 2018, diện tích Cam
đạt 44.000 ha, sản lượng trên 445.000 tấn (Bộ Nông
nghiệp và PTNT, 2019). Tại Vĩnh Long, việc trồng
cam Sành mang lại hiệu quả kinh tế cao, dễ tiêu thụ
nên nhiều nông dân đã chuyển đổi đất lúa sang trồng
cam Sành, hình thành những vùng trồng cam Sành
tập trung tại huyện Vũng Liêm, Tam Bình, Trà Ôn và
TP. Vĩnh Long. Hiện nay, nông dân đang trồng cam
Sành với mật độ dày và được gọi là mô hình “Cam
rau” hay “Cam ruộng” nhằm đạt được năng suất cao
và nhanh cho thu hoạch. Việc trồng cam Sành trên
đất lúa tại Vĩnh Long đang phát triển rất mạnh, chủ
yếu tự phát, trong khi nông dân chưa có nhiều kinh
nghiệm trong canh tác cam Sành, chưa quan tâm
đến nguồn gốc cây giống, trồng với mật độ dày, là
điều kiện cho dịch bệnh phát triển đồng thời còn là
nguy cơ ô nhiễm môi trường là nổi băn khoăn của
nhiều cơ quan ban ngành địa phương. Chính vì thế,
để hiểu rõ hiện trạng và hiệu quả của việc sản xuất
cây cam Sành trên đất ruộng tại Vĩnh Long nên việc
đánh giá thực trạng này được thực hiện nhằm biết
được những thuận lợi và bất lợi trong canh tác CSR,
từ đó đưa ra các giải pháp phù hợp để phát triển cây
cam Sành một cách hiệu quả và bền vững cho tỉnh
Vĩnh Long.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Các ruộng và vườn cam Sành trên địa bàn
4 huyện: Trà Ôn, Tam Bình, Vũng Liêm và TP. Vĩnh
Long. Phiếu điều tra thu thập thông tin về hiện trạng
canh tác cam Sành, bút, các vật liệu cần thiết khác.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Khảo sát đánh giá thực trạng canh tác Cam
Sành tại các nông hộ trồng CSR và CSV trên địa
bàn tỉnh Vĩnh Long
Số liệu sơ cấp: Số liệu sơ cấp được thu thập bằng
cách phỏng vấn trực tiếp 494 nông hộ trồng CSR
(409 phiếu) và CSV (85 phiếu) tại 4 địa bàn huyện
Trà Ôn, Tam Bình, Vũng Liêm và TP. Vĩnh Long.
Thực hiện phỏng vấn theo phiếu câu hỏi soạn sẳn
và chia thành các phần chính (1) Thông tin chung,
(2) Giống, (3) Kỹ thuật canh tác, (4) Bảo vệ thực vật,
(5) Thu hoạch. Đối tượng được chọn là người trực
tiếp tham gia vào hoạt động sản xuất hoặc người
trực tiếp đưa ra quyết định trong quá trình sản xuất
vì những người này có khả năng cung cấp thông tin
chính xác và cụ thể về hoạt động sản xuất của hộ.
Đối với phỏng vấn nông dân trồng CSR áp dụng
phương pháp lấy mẫu ngẫu nhiên phân tầng so sánh
giữa 2 nhóm CSR (mật độ trồng dày trên 2.000 cây/ha,
được trồng từ ruộng lúa hoặc cây ngắn ngày chuyển
đổi) và CSV (mật độ trồng thưa dưới 2.000 cây/ha,
cam Sành được trồng trên liếp cao và trồng cố định
lâu năm trước đây đã trồng cam Sành hoặc cây
ăn quả). Phân tầng theo độ tuổi vườn cây (3 tầng:
Nhóm những vườn có độ tuổi từ 1 - 2 tuổi, nhóm
những vườn 3 - 4 tuổi, nhóm những vườn từ 5 tuổi
trở lên). Đồng thời, đánh giá mức độ các hộ sản xuất
tiếp cận các chính sách, hỗ trợ của Nhà nước và địa
phương trong sản xuất CSR.
2.2.2. Phương pháp phân tích dữ liệu
Sử dụng phương pháp thống kê mô tả để nêu lên
thực trạng sản xuất của nông hộ.
Số liệu về các chỉ tiêu điều tra được xử lý bằng
chương trình Microsoft Office Excel.
2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
- Thời gian: Từ tháng 7/2018 đến tháng 6/2019.
- Địa điểm: Điều tra, thu thập thông tin chủ yếu
được thực hiện trên địa bàn xã Trà Côn, Hựu Thành,
Thới Hoà, Hoà Bình, Tân Mỹ thuộc huyện Trà Ôn;
xã Ngãi Tứ, Bình Ninh, Loan Mỹ, Mỹ Thạnh Trung
và Hoà Hiệp thuộc huyện Tam Bình; xã Hiếu Thành,
Hiếu Nghĩa và Trung Hiệp huyện Vũng Liêm; xã Tân
Ngãi thuộc huyện TP. Vĩnh Long.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Khảo sát đánh giá thực trạng canh tác cam
Sành tại tỉnh Vĩnh Long
3.1.1. Thông tin chung
Qua kết quả điều tra ghi nhận một số thông tin
chung về sản xuất như sau:
73
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
Qua kết quả ở Hình1 cho thấy đa số các hộ trồng
theo kiểu CSR đều trồng độc canh chiếm tỷ lệ cao
nhất 85,26%. Đối với CSV tỷ lệ trồng độc canh
chiếm tỷ lệ 70,59% và trồng xen canh chiếm tỷ lệ
29,41% số hộ điều tra.
Qua điều tra ở hình 2 cho thấy ở CSR diện tích
cam Sành 0,2 - 0,4 ha/hộ là cao nhất chiếm 56,89%,
kế đến diện tích 0,5 - 0,7 ha/hộ chiếm 27,79%, trong
đó với 87% diện tích đất trồng cam Sành thuộc sở
hữu của nông dân, còn lại 13% là đất nông dân thuê
để trồng cam Sành thường thuê với thời hạn 5 năm
là chiếm đa số. Đối với các hộ CSV thì diện tích
0,2 - 0,4 ha/hộ chiếm 63,53%; 28,24% số hộ có diện
tích từ 0,5 - 0,7 ha, chỉ có 8,23% số hộ có diện tích trên
0,8 ha/hộ và toàn bộ diện tích đất trồng cam Sành
thuộc quyền sở hữu của nông dân không thuê mướn.
Tại tỉnh Sóc Trăng, kết quả điều tra cho thấy diện tích
trồng cam Sành có diện tích trên 0,5 ha/hộ chiếm
69,6% số hộ điều tra) tuy nhiên vẫn còn phân tán
manh mún không tập trung (Đặng Lý Tưởng, 2014).
Qua điều tra ở hình 3 cho thấy ở CSR đa số các hộ
mua giống cam Sành trôi nổi không rõ nguồn gốc cụ
thể (chỉ biết là ở Bến Tre) chiếm 73,49% và 26,51%
mua cây giống tại các cơ sở bán cây giống có nguồn
gốc ở Vĩnh Long. Đối với các hộ CSV thì nông dân
cũng mua giống chủ yếu là giống trôi nổi từ Bến Tre
chở sang chiếm 64,71% và 35,29% số nông hộ còn lại
mua giống của địa phương tại Vĩnh Long.
Phương pháp nhân giống cây cam Sành chủ yếu
bằng gốc ghép cam Mật chiếm tỷ lệ cao nhất 89,10%,
các hộ nhân giống bằng gốc ghép chanh Volka chiếm
tỷ lệ thấp trung bình khoảng 10,9% ở CSR. Đối với
CSV thì cũng tương tự có đến 85,88% số hộ sử dụng
gốc cam Mật để ghép lên cây cam Sành và 14,12% là
sử dụng gốc ghép chanh Volka (Hình 4).
Hình 1. Hình thức trồng Cam Sành
Hình 3. Nguồn gốc mua giống ban đầu
Hình 2. Diện tích trồng Cam Sành
Hình 4. Gốc ghép cây giống Cam Sành
3.1.2. Kỹ thuật canh tác
a) Thiết kế vườn
Qua kết quả điều tra ở bảng 1 cho thấy ở CSR
chiều rộng liếp trung bình là 2,93 m, hầu hết bà
con trồng 2 hàng trên liếp,chiều cao mô trung bình
0,40 m, chiều cao mực thủy cấp vào mùa mưa và
mùa nắng trung bình là 0,43 m và 0,49 m. Điều này
cho thấy đa số ruộng cam Sành thường bị ngập nước
nên dễ bị bệnh vàng lá thối rễ (VLTR). Theo kết
quả thì mặt liếp trồng cam Sành tại Vĩnh Long là
2,72 - 3,51 m nhỏ hơn chiều rộng mặt liếp tại Hậu
Giang là 4 - 5 m, tại Sóc Trăng dưới 6 m (Võ Thị
Gương và ctv., 2009; Đặng Lý Tưởng, 2014).
74
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
Bảng 1. Thiết kế vườn/ruộng cam Sành
ở tỉnh Vĩnh Long
Chỉ tiêu
Cam
Sành
ruộng
Cam
Sành
vườn
Chiều rộng liếp (m) 2,93 3,52
Chiều cao mô (m) 0,40 0,44
Chiều dài liếp (m) 188,1 120,9
Chiều cao mực thủy cấp so với
mặt liếp vào mùa mưa (m) 0,43 0,55
Chiều cao mực thủy cấp so với
mặt liếp vào mùa nắng (m) 0,49 0,62
b) Mật độ trồng
Qua khảo sát ghi nhận trung bình tổng số
cây/ha được các nông hộ CSR tại Vĩnh Long là
4.234,9 cây/ha. Các hộ canh tác theo tập quán CSV
với số cây trung bình là 1.864 cây/ha (Hình 5). Kết
quả nghiên cứu của Cunniffe và cộng tác viên (2014)
ghi nhận mật số cây trồng ảnh hưởng đến sinh
trưởng, phát triển, năng suất và chất lượng quả cam
Sành, giảm mật độ của cây trồng dẫn đến giảm mật
số của bệnh hại. Theo Nguyễn Bảo Vệ và Lê Thanh
Phong (2011) mật số cây cam Sành được khuyến cáo
là 1.100 cây/ha.
Hình 5. Tổng số cây cam Sành (cây/ha) Hình 6. Khoảng cách trồng cam Sành
Kết quả điều tra Hình 6 cho thấy khoảng cách
trồng cam Sành theo kiểu CSR từ >1 - 1,5 m chiếm
tỷ lệ cao nhất 67,73%, kế đến là khoảng cách trồng
từ >1,5 - 2 m chiếm 23,72% số hộ điều tra. Đối với
các hộ trồng theo kiểu truyền thống CSV thì khoảng
cách trồng thưa hơn, trong đó khoảng cách trồng
chiếm tỷ lệ nhiều nhất là > 2,5 m chiếm 43,53%.
Bảng 2. Thời điểm xử lý ra hoa cam Sành đầu tiên
tại Vĩnh Long
Thời điểm sau khi trồng Cam Sành ruộng (%)
Cam Sành
vườn (%)
≤ 12 tháng sau khi trồng 60,88 0
> 12 - 18 tháng sau khi trồng 24,69 5,88
> 18 - 24 tháng sau khi trồng 14,47 41,18
> 24 - 30 tháng sau khi trồng 0 47,05
> 30 tháng sau khi trồng 0 5,88
Thời điểm xử lý ra hoa đầu tiên cho cây CSR tại
Vĩnh Long là tại thời điểm 12 tháng sau khi trồng
chiếm tỷ lệ cao nhất 60,88%, từ trên 12 - 18 tháng
chiếm 24,69%, từ trên 18 - 24 tháng chỉ chiếm
14,47%. Đối với CSV thời gian bắt đầu xử lý ra hoa
khi cây đủ độ tuổi từ 24 - 30 tháng chiếm tỷ lệ cao
nhất 47,05% (Bảng 2). Như vậy, thời điểm xử lý ra
hoa lần đầu trên các ruộng cam sành tại Vĩnh Long
là sớm hơn so với CSV và so với khuyến cáo.
c) Tình hình sử dụng hữu cơ
Nông dân trồng CSR tại tỉnh Vĩnh Long bón phân
hữu cơ từ 1 - 2 lần/năm, trung bình là 1,5 lần/năm
với liều lượng là 3,92 tấn/ha/năm thấp hơn so với
các hộ trồng CSV 2,2 lần/năm và liều lượng 5,50 tấn/
ha/năm (Bảng 3) và thấp hơn rất nhiều so với khuyến
cáo là 10 tấn/ha (Võ Thị Gương và ctv., 2016). Điều
này rất cần được lưu ý vì bón phân hữu cơ sẽ giúp
nâng cao hoạt động vi sinh vật đất (Võ Thị Gương
và ctv., 2010), ảnh hưởng có lợi đến tính chất vật lý
đất và hóa học đất (Guidi et al., 2013). Việc sử dụng
một lượng thấp phân hữu cơ, có thể ảnh hưởng bất
lợi đến sinh trưởng, phát triển của cây cam Sành.
Kết quả này có thể do nông dân chưa đánh giá đúng
tầm quan trọng và lợi ích của việc sử dụng phân
hữu cơ nên không chú trọng bón phân hữu cơ cho
ruộngcam Sành.
Bảng 3. Tình hình sử dụng phân hữu cơ
cho cam Sành ở tỉnh Vĩnh Long
Phân bón Cam Sành ruộng
Cam Sành
vườn
Số lần bón/năm 1,5 2,2
Liều lượng tấn/ha/năm 3,92 5,50
75
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
d) Tình hình sử dụng phân vô cơ
Kết quả điều tra ở bảng 4 cho thấy các hộ nông
dân trồng cam Sành ở tỉnh Vĩnh Long sử dụng phân
bón không cân đối giữa các hàm lượng đạm, lân và
kali. Số lần bón phân cho cây cam Sành trung bình
là 14,6 lần/năm ở CSR và 12,5 lần ở CSV. Trung bình
cây CSR và CSV điều tra ở độ tuổi 2 - 3 năm tuổi
trung bình với lượng phân bón sử dụng là N-P-K lần
lượt 5.818 kg và 3.518 kg, urê 964 kg và 615 kg, DAP
1.331 kg và 885 kg và kali là 522 kg và 321 kg/ha/
năm trong khi theo khuyến cáo cây cam Sành 2 - 3
năm tuổi chỉ bón trung bình 1.875 kg NPK/ha/năm.
Bảng 4. Tình hình sử dụng phân vô cơ
cho cam Sành ở tỉnh Vĩnh Long
Loại phân bón
Liều lượng (kg/ha/năm)
Cam Sành
ruộng
Cam Sành
vườn
Urê 964 615
DAP 1.331 885
Kali 522 321
NPK 5.818 3.518
Số lần bón/năm 14,6 12,5
3.1.3. Tình hình sâu bệnh hại và biện pháp quản lý
Kết quả điều tra ở bảng 5 ghi nhận trên tất cả các
vườn nông dân ghi nhận các đối tượng sâu bệnh hại
trong đó bệnh VLGX và nhện đỏ là phổ biến nhất
chiếm lần lượt 43,4%và 18,5% ở CSR, tuy nhiên ở
CSV ghi nhận bệnh VLGX và sâu vẽ bùa là phổ biến
nhất chiếm tỉ lệ 41,9% và 18,3%.
Bảng 5. Tình hình gây hại của các loài sâu,
bệnh hại phổ biến trên vườn cam Sành
Dịch hại
Tỷ lệ gây hại (%)
Cam Sành
ruộng
Cam Sành
vườn
Sâu hại
Nhện đỏ 18,5 16,5
Bọ trĩ 16,5 14,4
Rầy chổng cánh 15,7 13,9
Rầy mềm 17,7 18,0
Rệp sáp 16,6 14,4
Sâu đục quả 15,2 14,9
Ruồi đục quả 14,8 14,2
Sâu vẽ bùa 17,3 18,3
Bệnh hại
VLTR 38,4 35,7
VLGX 43,4 41,9
Xì mủ thân 24,7 21,4
Loét 18,3 16,8
Ghẻ nhám 19,0 13,2
3.1.4. Tình hình thu hoạch
Năng suất cam Sành: Kết quả điều tra Bảng 6
ghi nhận đối với CSR, năng suất đạt cao nhất là ở
năm thứ ba trung bình 38 tấn/ha/năm ở vụ thuận và
75,08 tấn/ha/năm ở vụ nghịch, kế đến là năm thứ tư
năng suất đạt trung bình 38 tấn/ha/năm ở vụ thuận,
61,47 tấn/ha/năm ở vụ nghịch. Đối với CSV, năng
suất cao nhất là ở năm thứ tư ở vụ thuận đạt 19,29 và
ở năm thứ ba ở vụ nghịch 26,18 tấn/ha/năm.
Bảng 6. Năng suất cam Sành của từng độ tuổi cây ở vụ thuận và vụ nghịch
Năm thu
hoạch
Năng suất cam Sành giai đoạn kinh doanh (tấn/ha)
Cam Sành ruộng Cam Sành vườn
Vụ thuận Số hộ Nhỏ nhất Lớn nhất Trung bình Số hộ Nhỏ nhất Lớn nhất Trung bình
Năm thứ 1 25 19 28 23,40 41 7 17 12,66
Năm thứ 2 92 10 100 33,21 29 4 18 13,09
Năm thứ 3 30 20 110 38,00 23 4 26 17,55
Năm thứ 4 15 20 80 38,00 7 15 23 19,29
Năm thứ 5 90 10 30 20,00 5 8 19 16,20
Năm thứ 6 3 14 16 15,33
Vụ nghịch
Năm thứ 1 24 20 29 23,00 45 8 23 15,51
Năm thứ 2 122 20 110 59,06 31 15 30 21,98
Năm thứ 3 63 30 120 75,08 22 19 40 26,18
Năm thứ 4 58 35 90 61,47 7 20 28 22,86
Năm thứ 5 27 20 55 37,78 4 16 22 19,00
Năm thứ 6 2 14 15 14,50
Ghi chú: Năm thứ 1 là năm bắt đầu cho thu hoạch quả.
76
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
4.1. Kết luận
Kết quả điều tra 494 hộ sản xuất CSR và CSV tại
tỉnh Vĩnh Long, ghi nhận: Về diện tích trồng CSR và
CSV chủ yếu từ 0,2 - 0,4 ha/hộ là chủ yếu, chiếm tỷ
lệ lần lượt 56,89% và 65,53%. Sử dụng gốc ghép cam
Mật chiếm tỷ lệ cao nhất 89,10% và 85,88% ở CSR
và CSV. Chiều rộng liếp trung bình 2,95 và 3,52 m,
chiều cao mô 0,4 và 0,44 m lần lượt ở CSR và CSV.
Trung bình tổng số cây/ha của CSR là 4.234,9
cây/ha và CSV là 1.864 cây/ha. Khoảng cách hàng
cách hàng từ 1-1,4 m chiếm tỷ lệ cao 78,24% đối với
khoảng cách CSV thì hàng cách hàng là 2,25 m và
cây cách cây là 1,92 m.
Cả hai hình thức canh tác CSR và CSV đều áp
dụng biện pháp xử lý ra hoa nghịch vụ chiếm tỷ lệ
rất cao 76,46% và 82,35%. Số lần sử dụng phân vô
cơ và hữu cơ ở kiểu canh tác CSR là 14,6 lần/năm và
1,5 lần/năm. Đối với CSV sử dụng phân vô cơ là
12,5 lần/năm và phân hữu cơ là 2,2 lần/năm. Liều
lượng phân NPK bón cho CSR là 5.818 kg/ha/năm
trong khi CSV bón 3.518 kg/ha/năm.
Đối với CSR nhóm đối tượng sâu hại phổ biến là
nhện đỏ (18,5%), đối với nhóm bệnh hại thì bệnh
VLGX là phổ biến nhất chiếm 43,4%. Đối với CSV
nhóm sâu hại phổ biến nhất là sâu vẽ bùa 18,3%,
bệnh hại phổ biến nhất vẫn là VLGX chiếm 41,9%.
Năng suất cao nhất là ở năm thứ ba trung bình
38 tấn/ha/năm ở vụ thuận và 75,08 tấn/ha/năm ở vụ
nghịch ở CSR. Đối với CSV, năng suất cao nhất là ở
năm thứ tư ở vụ thuận đạt 19,29 và năm thứ ba ở vụ
nghịch đạt 26,18 tấn/ha/năm.
4.2. Đề nghị
Từ những hạn chế được nêu ra trong báo cáo cần
có những giải pháp khắc phục để sản xuất cam Sành
tại tỉnh Vĩnh Long được an toàn và bền vững hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Cục Trồng trọt, 2019. Hiện trạng và định hướng phát
triển bền vững cây ăn quả các tỉnh phía Nam. Trong
Hội nghị Thúc đẩy phát triển bền vững cây ăn quả.
Long An 3/2019: 1-19.
Võ Thị Gương, Nguyễn Mỹ Hoa, Châu Minh Khôi,
Trần Văn Dũng và Dương Minh Viễn, 2016. Quản
lý độ phì nhiêu đất và hiệu quả sử dụng phân bón
ở Đồng bằng sông Cửu Long. Nhà xuất bản Đại học
Cần Thơ.
Võ Thị Gương, Ngô Xuân Hiển, Hồ Văn Thiệt và
Dương Minh, 2010. Cải thiện sự suy giảm độ phì
nhiêu hóa lý và sinh học đất vườn cây ăn trái ở Đồng
bằng sông Cửu Long. Nhà xuất bản Đại học Cần Thơ.
92 trang.
Đặng Lý Tưởng, 2014. Điều tra hiện trạng canh tác cam
Sành (Citrus nobilis var typical Hask) tại một số vùng
chuyên canh của tỉnh Sóc Trăng. Luận văn tốt nghiệp,
Đại học Cần Thơ.
Nguyễn Bảo Vệ và Lê Thanh Phong, 2011. Cây ăn trái.
Nhà xuất bản Đại học Cần Thơ. 205 trang.
Cunniffe, N.J., Laranjeira, F.F., Neri, F.M., DeSimone,
R.E. and Gilligan, C.A., 2014. Cost-Effective
Control of Plant Disease When Epidemiological
Knowledge Is Incomplete: Modelling Bahia Bark
Scaling of Citrus. PLOS Computational Biology,
10 (8): 1-14.
Production status of King mandarin in Vinh Long province
Tran Thi My Hanh, Nguyen Thi Cam Giang,
Dang Quoc Chuong, Lương Thị Duyen
Abstract
A survey on the status of King mandarin farming in Vinh Long province was conducted in Tra On, Tam Binh,
Vung Liem districts and Vinh Long city from July 2018 to June 2019. The survey was performed on 494 households
planting King mandarin. The results showed that farmers who used Mat orange variety as the rootstock was the
highest proportion of 89.10% in King mandarin planting in field condition (KMPFC) and 85.88% in King mandarin
planting in orchard condition (KMPOC. The average of total number of trees/ha of KMPFC was 4,234.9 trees/ha,
while KMPOC was planted with a density of 1,864 trees/ha. The distance between row and row was 1 - 1.4 m
accounting for high rate of 78.24% in KMPFC. Both KMPFC and KMPOC practices had floral induction with
high rates of 76.46% and 82.35%. The times using inorganic and organic fertilizers in KMPFC were 14.6 times/year
and 2.2 times/year. The application of inorganic fertilizers was 12.5 times/year and of organic fertilizers was
5.8 times/year in KMPOC. The average dose of N-P-K fertilizes in KMPFC was 5,818 kg/ha/year while N-P-K
fertilizes using in KMPOC was 3,518 kg/ha/year. For pests attacking King mandarin trees, the results showed that
greening disease and citrus red mite Panonychus citri occurred most commonly with 43.4% and 18.5%, respectively
in KMPFC, while KMPOC occurred of citrus leaf miner Phyllocnistis citrella of 18.3% and greening disease of
41.9% were most common. The highest yield of King mandarin was at the third year averaging 38 tons/ha/year in
77
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
main season and 75.08 tons/ha/year in off season in KMPFC while in KMPOC the highest productivity was at the
fourth year, reaching 19.29 tons/ha/year in main season and the productivity in off season was 26.18 tons/ha/year at
the third year.
Keywords: King mandarin tree, King mandarin planting in field, King mandarin planting in orchard, production
situation
Ngày nhận bài: 27/4/2020
Ngày phản biện: 12/5/2020
Người phản biện: TS. Võ Hữu Thoại
Ngày duyệt đăng: 20/5/2020
1 Khoa Nông nghiệp - Thủy sản, Trường Đại học Trà Vinh
HOẠT TÍNH KHÁNG KHUẨN CỦA CAO CHIẾT CHÙM NGÂY KHÁNG VI KHUẨN Vibrio spp.
GÂY BỆNH TRÊN TÔM THẺ CHÂN TRẮNG TRONG ĐIỀU KIỆN IN VITRO
Nguyễn Thị Hồng Nhi1
TÓM TẮT
Hoạt tính kháng khuẩn của cao chiết từ hạt, hoa và lá chùm ngây kháng vi khuẩn Vibrio spp. gây bệnh được thử
nghiệm trên tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei). Hoạt tính kháng khuẩn, nồng độ ức chế tối thiểu (MIC),
nồng độ diệt khuẩn tối thiểu (MBC) của cao chiết từ hạt, hoa và lá chùm ngây được thử nghiệm trên hai chủng vi
khuẩn gây bệnh cho tôm nuôi (Vibrio parahaemolyticus và Vibrio vulnificus). Kết quả cho thấy hoạt tính kháng
khuẩn Vibrio parahaemolyticus với đường kính vòng kháng khuẩn của cao chiết từ hạt chùm ngây 20,7 mm, cao
chiết từ hoa chùm ngây 17,3 mm và cao chiết từ lá chùm ngây lá 15,3 mm. Hoạt tính kháng vi khuẩn Vibrio vulnificus
của cao chiết từ hạt, hoa và lá chùm ngây lần lượt là 22,33 mm, 14,67 mm và 18,33 mm. Đối với vi khuẩn Vibrio
parahaemolyticus cao chiết từ hạt, hoa và lá chùm ngây có giá trị MIC là 5 mg/mL, 10 mg/mL, 20 mg/mL; MBC là
10 mg/mL, 20 mg/mL, 40 mg/mL. Kết quả cũng xác định hiệu quả đối với vi khuẩn Vibrio vulnificus giá trị MIC
của cao chiết từ hạt, hoa và lá chùm ngây là 2,5 mg/mL, 20 mg/mL, 10 mg/mL; giá trị MBC tương ứng là 5 mg/mL,
40 mg/mL, 20 mg/mL. Kết quả nghiên cứu khẳng định hoạt tính kháng khuẩn của cao chiết từ hạt chùm ngây trên
vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus và Vibrio vulnificus mạnh hơn so với cao chiết từ hoa và lá chùm ngây.
Từ khóa: Cao chiết chùm ngây, hoạt tính kháng khuẩn, Vibrio parahaemolyticus, Vibrio vulnificus
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong ngành nuôi tôm hiện nay, các bệnh truyền
nhiễm do các loài vi khuẩn Vibrio spp. gây ra thiệt
hại đáng kể về kinh tế và là những thách thức lớn
đối với nghề nuôi tôm của nước ta. Vi khuẩn Vibrio
parahaemolyticus, Vibrio vulnificus, Vibrio mimicus,
Vibrio cholerae là những loài vi khuẩn gây hại chính
cho tôm nuôi trong điều kiện môi trường nuôi thiếu
sự kiểm soát chặt chẽ (Brilhante et al., 2015). Hiện
nay, các biện pháp ngăn chặn sự phát triển của vi
khuẩn Vibrio spp. gây bệnh trên tôm thường là sử
dụng hóa chất, kháng sinh hay áp dụng các biện
pháp sinh học. Việc sử dụng thuốc kháng sinh trong
điều trị các bệnh truyền nhiễm do vi khuẩn gây ra
đã dẫn đến sự phát triển của nhiều chủng Vibrio spp.
kháng thuốc. Để hạn chế tình trạng kháng thuốc của
các chủng vi khuẩn, hiện nay có rất nhiều nghiên
cứu sử dụng thảo dược nhằm ức chế sự phát triển
của vi khuẩn, tăng cường miễn dịch giúp tôm cá
tăng trưởng tốt (Brilhante et al., 2015; Dotta et al.,
2014; Kaleoa et al., 2019).
Ở nhiều nước trên thế giới có nhiều công trình
nghiên cứu sử dụng chiết xuất từ các loại cây khác
nhau để điều trị vi khuẩn gây bệnh (Snoussi et al,
2016; Sayeed et al, 2012; Dotta et al., 2014). Các hoạt
chất có trong thực vật có khả năng kháng khuẩn và
chống oxy hóa. Hoạt động kháng khuẩn của một số
chất có trong thực vật cũng như xác định việc sử
dụng các chất chiết xuất thu được từ cây thuốc là
rất quan trọng (Nair and Chanda, 2006). Chùm ngây
được sử dụng rộng rãi để điều trị bệnh gây ra do vi
khuẩn, nấm, khả năng chống viêm, suy dinh dưỡng.
Tác giả Rahman và cộng tác viên (2009) đã phát hiện
trong chùm ngây có các chất chống oxy hoá tự nhiên
như ascorbic acid, flavonoid, phenol và carotenoid.
Thêm vào đó, tác giả Fahey (2005) cũng cho thấy
một số bộ phận lá, hoa, hạt của chùm ngây có nhiều
hoạt chất kháng khuẩn và nấm. Nếu sử dụng các bộ
phận của cây chùm ngây trong điều trị bệnh nhiễm
khuẩn sẽ có nhiều ưu điểm như rẻ tiền, hiệu quả
phòng bệnh cao, không ảnh hưởng đến đối tượng
nuôi và môi trường sinh thái tạo ra các sản phẩm đạt
Các file đính kèm theo tài liệu này:
danh_gia_thuc_trang_canh_tac_cam_sanh_tai_tinh_vinh_long.pdf