Đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp bảo vệ rừng ngập mặn dựa vào cộng đồng ở xã Đồng Rui huyện Tiên Yên tỉnh Quảng Ninh

MỞ ĐẦU Tài nguyên thiên nhiên (TNTN) luôn gắn với cuộc sống của loài người đã từ rất lâu. Mỗi loại tài nguyên đều có những giá trị kinh tế, xã hội hay giá trị môi trường nhất định. Rừng ngập mặn (RNM) là một hệ sinh thái (HST) đa dạng có nhiều tài nguyên quí giá và có vai trò quan trọng, đóng góp cho đời sống con người, đặc biệt là cư dân vùng cửa sông ven biển. RNM cung cấp gỗ củi, tanin, các loài cây làm thuốc. Các loài động vật trong RNM cho thịt và nhiều nguồn lợi thuỷ sản. RNM có vai trò vận chuyển chất hữu cơ đến chuỗi thức ăn ven biển, ổn định vật lý đối với bờ biển như chống xói mòn, sạt lở, bảo vệ cỏc vùng nội địa khỏi sự phá hoại của bão gió và sóng biển và cú tỏc dụng như những bồn chứa dĩnh dưỡng và cỏcbon. RNM cũng là tài nguyên du lịch sinh thái đầy tiềm năng. Tuy nhiên do phương thức quản lý và sử dụng chưa thật hiệu quả, RNM hiện nay đang chịu nhiều sức ép, đang bị suy giảm cả về số lượng và chất lượng. Thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đó cú những cố gắng đỏng khớch lệ trong công tác quản lý bảo vệ TNTN cũng như RNM. Mục tiêu cuối cùng của công tác này là bảo tồn và phát triển bền vững tài nguyên, đồng thời đáp ứng được nguyện vọng và nhu cầu của con người hướng tới phát triển bền vững. Bởi vậy, việc tham gia vào quá trình quy hoạch quản lý và khai thác sử dụng tài nguyên của các cộng đồng có liên quan là khâu then chốt. Đó cũng chính là phương thức quản lý TNTN dựa vào cộng đồng (Community based conservation management - CBCM). RNM ở xã Đồng Rui huyện Tiờn Yờn (cửa sông Ba Chẽ), tỉnh Quảng Ninh là một HST đặc thù, nhạy cảm, có tính đa dạng sinh học (ĐDSH) cao và đang chịu nhiều áp lực do đúi nghốo, do phát triển kinh tế - xã hội. Xã Đồng Rui bao gồm 4 thụn (thụn Trung, thôn Thượng, thôn Hạ và thôn Bốn) với tổng diện tích tự nhiên là 4.955,17 ha, trong đó có 1.456,9 ha RNM tự nhiên và 125 ha rừng trồng, thu nhập từ đánh bắt hải sản và nuôi trồng thuỷ sản (NTTS) chiếm trên 1/2 tổng thu nhập của xã. Tuy nhiên những năm gần đây, sản lượng đánh bắt cũng như nuôi trồng thuỷ hải sản đó cú những dấu hiệu suy giảm, chất lượng đầm nuôi và nguồn lợi hải sản từ RNM cũng đang bị suy kiệt. Nguyên nhân là do các hoạt động phát triển kinh tế-xó hội, đặc biệt là quá trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất, phương thức nuôi trồng đa phần là quảng canh cải tiến. Diện tích RNM ngày càng bị thu hẹp do mở rộng diện tích NTTS cũng như khai thác gỗ củi của con người. Nhiều biện pháp nhằm bảo vệ RNM đã được áp dụng xong do thiếu những cơ chế thích hợp nên hiệu quả chưa cao do chưa coi trọng đúng mức vai trò của người dân địa phương tham gia trong công tác bảo vệ rừng. Những kinh nghiệm thực tiễn trong công tác bảo vệ và phát triển nguồn TNTN nói chung và tài nguyên rừng nói riêng ở nước ta cho thấy, nếu biết tổ chức và phát huy tốt vao trò của cộng đồng trong công tác bảo vệ rừng sẽ có hiệu quả rất tốt. Đồng Rui là một xã mà cuộc sống của cộng đồng dân cư ở đây luôn gắn liền với các nguồn tài nguyên của RNM. Do vậy dựa vào cộng đồng sẽ là một hướng đi đúng góp phần bảo vệ và phát triển RNM địa phương Vì những lí do trên, chúng tôi đã lựa chọn thực hiện đề tài “Đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp bảo vệ rừng ngập mặn dựa vào cộng đồng ở xã Đồng Rui huyện Tiên Yên tỉnh Quảng Ninh”. Nghiên cứu được thực hiện nhằm hướng tới các mục tiêu sau: Hiện trạng phân bố, diện tích RNM ở Đồng Rui. Đánh giá vai trò và khả năng của cộng đồng trong công tác bảo vệ RNM ở Đồng Rui. Đánh giá vai trò của RNM trong đời sống kinh tế - xã hội cũng như trong bảo vệ môi trường sinh thái của xã. Đề xuất các giải pháp bảo vệ RNM dựa vào cộng đồng. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG I. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2 1.1 Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Ninh 2 1.1.1 Điều kiện tự nhiên 2 1.1.2 Đặc điểm xã hội 7 1.2 Tổng quan về RNM 10 1.2.1 Vai trò của RNM 10 1.2.2 Rừng ngập mặn Việt Nam và tỉnh Quảng Ninh 12 1.3 Các giải pháp bảo vệ rừng ngập mặn 17 1.3.1 Các giải pháp chung 17 1.3.2 Giải pháp bảo vệ rừng ngập mặn dựa vào cộng đồng 20 CHƯƠNG II. PHẠM VI, ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 29 2.1 Phạm vi và đối tượng nghiên cứu 29 2.2 Phương pháp nghiên cứu 29 CHƯƠNG III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 31 3.1 Đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội khu vực nghiên cứu 31 3.1.1 Đặc điểm tự nhiên 31 3.1.2 Điều kiện kinh tế - xã hội 35 3.1.3 Những thuận lợi, khó khăn trong phát triển kinh tế - xã hội ở Đồng Rui 45 3.2 Tình hình sử dụng đất ở Đồng Rui 46 3.2.1 Hiện trạng sử dụng đất và RNM 46 3.2 Quản lý bảo vệ và những nguyên nhân làm suy giảm RNM ở Đồng Rui 6 3.2.1 Hiện trạng RNM ở Đồng Rui 6 3.2.2 Công tác quản lý, bảo vệ RNM 7 3.2.3 Những nguyên nhân chính làm suy giảm RNM ở Đồng Rui 17 3.3 Vai trò của RNM đối với đời sống cộng đồng khu vực Đồng Rui 18 3.3.1 Cung cấp gỗ, củi 18 3.3.2 Giảm tác động của thiên tai 18 3.3.3 Cung cấp hải sản 18 3.3.4 Môi trường thuận lợi cho NTTS 19 3.3.5 Tiềm năng du lịch 20 3.4 Những giải pháp nhằm tăng cường công tác bảo vệ RNM dựa vào cộng đồng ở xã Đồng Rui 20 3.4.1 Những khó khăn và thuận lợi trong quản lý tài nguyên RNM dựa vào cộng đồng tại Đồng Rui, Tiên Yên 21 3.4.2 Những giải pháp nhằm tăng cường công tác bảo vệ RNM dựa vào cộng đồng ở xã Đồng Rui 21 KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 23 1. Kết luận 23 2. Khuyến nghị 24 TÀI LIỆU THAM KHẢO 25 PHỤ LỤC 26 Phụ lục 1: 26 Phiếu câu hỏi thu thập thông tin từ các hộ dân tại xã Đồng Rui, huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh 26 Phụ lục 2: Kinh nghiệm về quản lý tài nguyên dựa vào cộng đồng ở một số nước trên thế giới và Việt Nam 30 Phụ lục 3: 41 Quyết định số 368/QĐ-UB ngày 10 tháng 5 năm 2006 của UBND xã Đồng Rui, huyện Tiên Yên tỉnh Quảng Ninh 41 Phụ lục 4. Quy chế hoạt động của ban quản lý rừng cộng đồng của thôn Bốn 42 Phụ lục 5: 48

doc105 trang | Chia sẻ: banmai | Lượt xem: 2728 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp bảo vệ rừng ngập mặn dựa vào cộng đồng ở xã Đồng Rui huyện Tiên Yên tỉnh Quảng Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU Tài nguyên thiên nhiên (TNTN) luôn gắn với cuộc sống của loài người đã từ rất lâu. Mỗi loại tài nguyên đều có những giá trị kinh tế, xã hội hay giá trị môi trường nhất định. Rừng ngập mặn (RNM) là một hệ sinh thái (HST) đa dạng có nhiều tài nguyên quí giá và có vai trò quan trọng, đóng góp cho đời sống con người, đặc biệt là cư dân vùng cửa sông ven biển. RNM cung cấp gỗ củi, tanin, các loài cây làm thuốc. Các loài động vật trong RNM cho thịt và nhiều nguồn lợi thuỷ sản. RNM có vai trò vận chuyển chất hữu cơ đến chuỗi thức ăn ven biển, ổn định vật lý đối với bờ biển như chống xói mòn, sạt lở, bảo vệ cỏc vùng nội địa khỏi sự phá hoại của bão gió và sóng biển và cú tỏc dụng như những bồn chứa dĩnh dưỡng và cỏcbon. RNM cũng là tài nguyên du lịch sinh thái đầy tiềm năng. Tuy nhiên do phương thức quản lý và sử dụng chưa thật hiệu quả, RNM hiện nay đang chịu nhiều sức ép, đang bị suy giảm cả về số lượng và chất lượng. Thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đó cú những cố gắng đỏng khớch lệ trong công tác quản lý bảo vệ TNTN cũng như RNM. Mục tiêu cuối cùng của công tác này là bảo tồn và phát triển bền vững tài nguyên, đồng thời đáp ứng được nguyện vọng và nhu cầu của con người hướng tới phát triển bền vững. Bởi vậy, việc tham gia vào quá trình quy hoạch quản lý và khai thác sử dụng tài nguyên của các cộng đồng có liên quan là khâu then chốt. Đó cũng chính là phương thức quản lý TNTN dựa vào cộng đồng (Community based conservation management - CBCM). RNM ở xã Đồng Rui huyện Tiờn Yờn (cửa sông Ba Chẽ), tỉnh Quảng Ninh là một HST đặc thù, nhạy cảm, có tính đa dạng sinh học (ĐDSH) cao và đang chịu nhiều áp lực do đúi nghốo, do phát triển kinh tế - xã hội. Xã Đồng Rui bao gồm 4 thụn (thụn Trung, thôn Thượng, thôn Hạ và thôn Bốn) với tổng diện tích tự nhiên là 4.955,17 ha, trong đó có 1.456,9 ha RNM tự nhiên và 125 ha rừng trồng, thu nhập từ đánh bắt hải sản và nuôi trồng thuỷ sản (NTTS) chiếm trên 1/2 tổng thu nhập của xã. Tuy nhiên những năm gần đây, sản lượng đánh bắt cũng như nuôi trồng thuỷ hải sản đó cú những dấu hiệu suy giảm, chất lượng đầm nuôi và nguồn lợi hải sản từ RNM cũng đang bị suy kiệt. Nguyên nhân là do các hoạt động phát triển kinh tế-xó hội, đặc biệt là quá trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất, phương thức nuôi trồng đa phần là quảng canh cải tiến. Diện tích RNM ngày càng bị thu hẹp do mở rộng diện tích NTTS cũng như khai thác gỗ củi của con người. Nhiều biện pháp nhằm bảo vệ RNM đã được áp dụng xong do thiếu những cơ chế thích hợp nên hiệu quả chưa cao do chưa coi trọng đúng mức vai trò của người dân địa phương tham gia trong công tác bảo vệ rừng. Những kinh nghiệm thực tiễn trong công tác bảo vệ và phát triển nguồn TNTN nói chung và tài nguyên rừng nói riêng ở nước ta cho thấy, nếu biết tổ chức và phát huy tốt vao trò của cộng đồng trong công tác bảo vệ rừng sẽ có hiệu quả rất tốt. Đồng Rui là một xã mà cuộc sống của cộng đồng dân cư ở đây luôn gắn liền với các nguồn tài nguyên của RNM. Do vậy dựa vào cộng đồng sẽ là một hướng đi đúng góp phần bảo vệ và phát triển RNM địa phương Vì những lí do trên, chúng tôi đã lựa chọn thực hiện đề tài “Đỏnh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp bảo vệ rừng ngập mặn dựa vào cộng đồng ở xã Đồng Rui huyện Tiờn Yờn tỉnh Quảng Ninh”. Nghiên cứu được thực hiện nhằm hướng tới các mục tiêu sau: Hiện trạng phân bố, diện tích RNM ở Đồng Rui. Đánh giá vai trò và khả năng của cộng đồng trong công tác bảo vệ RNM ở Đồng Rui. Đánh giá vai trò của RNM trong đời sống kinh tế - xã hội cũng như trong bảo vệ môi trường sinh thái của xã. Đề xuất các giải pháp bảo vệ RNM dựa vào cộng đồng. CHƯƠNG I. TỔNG QUAN TÀI LIỆU Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Ninh Điều kiện tự nhiên Vị trí địa lý Quảng Ninh là một tỉnh ở địa đầu phớa éụng Bắc Việt Nam, trải từ từ 20o đến 21o44 vĩ độ Bắc và từ 106o sang 108o kinh độ Đông. Chiều ngang từ đông sang tây khoảng dài nhất là 195 km; chiều dọc từ Bắc xuống Nam khoảng dài nhất là 102 km. Về địa giới, Bắc giáp Lạng Sơn (dài 58 km), giáp Quảng Tây, Trung Quốc (dài 132 km), Tõy giáp Bắc Giang, Bắc Ninh (dài 71 km), Hải Phòng (78 km), Hải Dương (21 km); phía Nam và Đông là biển éụng với bờ biển dài 250 km (Hình 1).  Hình 1: Địa phận hành chính Tỉnh Quảng Ninh Địa hình Quảng Ninh là tỉnh miền nỳi - duyờn hải với hơn hai nghỡn hũn đảo nổi trên mặt biển. Diện tích đất Quảng Ninh có trên 80% đất đồi núi được chia thành các kiểu địa hình sau đây: Vùng núi chia làm hai miền: Vùng núi miền Đông từ Tiờn Yờn qua Bỡnh Liờu, Hải Hà, Đầm Hà đến Múng Cỏi. Đây là vùng nối tiếp của vùng núi Thập Vạn Đại Sơn từ Trung Quốc, hướng chủ đạo là Đông Bắc - Tõy Nam.. Vùng trung du và đồng bằng ven biển gồm những dải đồi thấp bị phong hoá và xâm thực tạo nên những cánh đồng từ cỏc chõn núi thấp dần xuống các triền sông và bờ biển (vựng Đụng Triều, Uụng Bớ, bắc Yên Hưng, nam Tiờn Yờn, Đầm Hà, Hải Hà và một phần Múng Cỏi). Ở các cửa sông, cỏc vựng bồi lắng phù sa tạo nên những cánh đồng và bãi triều thấp (vùng nam Uụng Bớ, nam Yên Hưng (đảo Hà Nam), đụng Yờn Hưng, Đồng Rui (Tiờn Yờn), nam Đầm Hà, đông nam Hải Hà, nam Múng Cỏi). Vùng biển và hải đảo của Quảng Ninh là một vùng địa hình độc đáo. Hơn hai nghỡn hũn đảo chiếm hơn 2/3 số đảo cả nước (2078/ 2779), đảo trải dài theo đường ven biển hơn 250 km chia thành nhiều lớp. Vùng ven biển và hải đảo còn bao gồm những bãi cát trắng. Có nơi thành các mỏ cát trắng làm nguyên liệu cho công nghệ thuỷ tinh (Vân Hải). Vùng ven biển Quảng Ninh có nhiều danh lam thắng cảnh với nhiều bói tắm đẹp như Trà Cổ, Quan Lạn, Minh Châu, Ngọc Vừng... Địa hỡnh đỏy biển Quảng Ninh, không bằng phẳng, độ sâu trung bình là 20 m. Có những lạch sâu là di tích cỏc dũng chảy cổ và có những dải đá ngầm làm nơi sinh trưởng các rạn san hô rất đa dạng. Cỏc dũng chảy hiện nay nối với các lạch sõu đỏy biển còn tạo nên nhiều luồng lạch và hải cảng trên dải bờ biển khúc khuỷu kín gió nhờ những hành lang đảo che chắn, tạo nên một tiềm năng cảng biển và giao thông đường thuỷ rất lớn. Khí hậu Quảng Ninh có đặc điểm khí hậu nhiệt đới – gió mùa. Mùa hè nóng, ẩm, mưa nhiều, gió thịnh hành là gió đông nam. Mùa đông lạnh, khô hanh, ít mưa, có gió Đông Bắc. Nằm trong vùng nhiệt đới, Quảng Ninh có lượng bức xạ trung bình hàng năm 115,4 Kcal/cm2. Nhiệt độ không khí trung bình năm trên 22,9o C. Độ ẩm không khí trung bình hàng năm 82%. Lượng mưa hàng năm vào khoảng 1.700-2.400 mm, số ngày mưa hàng năm từ 90-170 ngày. Mưa tập trung nhiều vào mùa hạ (hơn 85%) nhất là cỏc thỏng 7 và 8. Mùa đông chỉ có lượng mưa khoảng 150 đến 400 mm. So với các tỉnh ở miền Bắc Bộ, Quảng Ninh chịu ảnh hưởng gió mùa đông bắc mạnh hơn. Gió thổi mạnh và so với các nơi cùng vĩ độ thường lạnh hơn từ 1oC- 3oC. Trong những ngày gió mùa đông bắc, ở vùng núi cao Bỡnh Liờu, Hải Hà, nhiệt độ có khi xuống dưới 0oC. Quảng Ninh cũng chịu ảnh hưởng lớn của bão tố. Bão thường đến sớm vào cỏc thỏng 6, 7 và 8. Tuy nhiên địa hình kéo dài lại bị chia cắt mạnh nên ở Móng Cái thường có nhiệt độ thấp hơn nhưng lượng mưa lại cao hơn so với các vùng khác trong tỉnh (nhiệt độ trung bình hàng năm là 22oC, lượng mưa trung bình năm tới 2.751 mm). Trong khi ở huyện Yên Hưng, nhiệt độ trung bình năm là 24oC, lượng mưa trung bình năm là 1.700 mm. Vùng núi cao của Hoành Bồ, Ba Chẽ, khí hậu khắc nghiệt, mỗi năm thường có 20 ngày sương muối và lượng mưa hàng năm thấp. Miền vùng nỳi Bỡnh Liờu có mưa lớn (2.400 mm) và mùa đông kéo dài tới 6 thỏng. Vựng hải đảo có lượng mưa thấp, chỉ từ 1.700 đến 1.800 mm/năm, và nhiều sương mù về mùa đông. Thuỷ văn Quảng Ninh có nhiều sông suối nhưng cỏc sụng đều ngắn, nhỏ, độ dốc lớn. Lưu lượng và lưu tốc rất khác biệt giữa cỏc mựa. Mùa đông, cỏc sụng cạn nước, có chỗ trơ ghềnh đá nhưng mùa hè lại ào ào thác lũ, nước dâng cao rất nhanh. Lưu lượng mùa khô 1,45 m3/s, mùa mưa lên tới 1500 m3/s, chênh nhau 1.000 lần. Hải văn Về phía biển Quảng Ninh giáp vịnh Bắc Bộ, một vịnh lớn nhưng kín lại có nhiều lớp đảo che chắn nên sóng gió không lớn như vùng biển Trung Bộ. Thuỷ triều ở đõy có chế độ nhật triều điển hỡnh, biờn độ tới 3-4 m. Nột riờng biệt ở đây là hiện tượng sinh "con nước" và thuỷ triều lên cao nhất vào các buổi chiều cỏc thỏng mựa hạ, buổi sỏng cỏc thỏng mùa đông những ngày có con nước cường. Trong vịnh Bắc Bộ cú dòng hải lưu chảy theo phương bắc nam kéo theo nước lạnh lại có gió mùa đông bắc nên đây là vùng biển lạnh nhất nước ta. Nhiệt độ có khi xuống tới 130C. Tài nguyên thiên nhiên Tài nguyên đất Tổng diện tích tự nhiên: 589.967 ha, hiện trạng sử dụng đất như sau: Đất nông nghiệp: 59.295 ha (chiếm 10,05 % diện tích tự nhiên); Đất lâm nghiệp có rừng 241.702 ha (chiếm 40,97 % diện tích tự nhiên); Đất chuyên dùng: 25.289 ha (chiếm 4,29% diện tích tự nhiên); Đất ở nông thôn và đô thị: 6.634 ha (chiếm 473,57% diện tích tự nhiên). Quỹ đất chưa sử dụng còn nhiều, trong đó tiềm năng sử dụng vào mục đớch nụng, lõm, ngư nghiệp còn rất lớn có thể khai thác 173,087 ha đất chưa sử dụng vào mục đích sản xuất (UBND tỉnh Quảng Ninh, 2004): Sản xuất nông nghiệp: 20.672 ha (chiếm 11,94% diện tích tự nhiên); NTTS: 23.369 ha (chiếm 13,50% diện tích tự nhiên); NTTS kết hợp với trồng trọt: 247 ha (chiếm 0,14% diện tích tự nhiên); Sản xuất lâm nghiệp: 128.779 ha (chiếm 74,40% diện tích tự nhiên). Diện tích RNM trước năm 1970 là 39.777 ha, đến năm 2006 chỉ còn 17.682,55 ha. Nguyên nhân suy giảm là do phá RNM để làm đầm nuôi tôm; khoanh vùng lấn chiếm biển để sản xuất nông nghiệp, ngư nghiệp; phá RNM để làm đồng muối; đô thị hoá. Tài nguyên nước Quảng Ninh có địa hình phức tạp, đồng bằng nhỏ hẹp, sông suối có độ dốc lớn, ngắn, đổ trực tiếp ra biển. Toàn tỉnh chia làm 4 lưu vực sông: Lưu vực sông Man, sông Trới, sông Diễn Vọng: gồm Hoành Bồ, thành phố Hạ Long, thị xã Cẩm Phả. Lưu vực sụng Đỏ Bạch: gồm các huyện Đông Triều, Uụng Bớ, Yờn Hưng.. Lưu vực sông Ba Chẽ, sụng Tiờn Yờn: gồm Ba Chẽ, Đầm Hà, Hải Hà. Nguồn nước mặt: Mạng lưới sông ngòi gồm 30 sông lớn có chiều dài > 10 km (Kalong, Tiờn Yờn, Đỏ Bạch). Tiềm năng nước mạch phong phỳ cú thể đáp ứng được nền kinh tế trong tương lai. Nguồn nước ngầm: Trữ lượng nước dưới đất 562 triệu m3, trong đó trữ lượng khai thác tiềm năng là 245.000 m3/ngày đêm, trữ lượng khai thác cấp A là 26.656 m3/ngày đêm. Lượng nước ngầm phân bố không đều, chất lượng kộm, khụng đủ cấp cho sinh hoạt. Ngoài ra cũn cú 2 túi nước núng cú trữ lượng khai thác ổn định, hàm lượng khoáng trong nước cao, phục vụ cho chữa bệnh. Khoỏng sản Quảng Ninh khá giàu về khoáng sản, nổi bật là than đá với trữ lượng 3,5 tỷ tấn, cho phép khai thác từ 30-40 triệu tấn/năm. Về lâu dài than vẫn là nguồn tài nguyên tạo ra ngành công nghiệp chủ đạo tác động đến phát triển kinh tế, xã hội. Các loại nguyên liệu làm vật liệu xây dựng rất phong phú (đá vôi, sét, gạch ngúi…), phõn bố rộng rãi trong tỉnh (núi đá vôi Hoành Bồ trữ lượng gần 1 tỉ tấn, các mỏ đất sét Giếng Đáy (Hạ Long), Yên Hưng trữ lượng tới 45 triệu tấn). Cỏc khoáng sản khác như cao lanh (Tấn Mài, Múng Cỏi), cỏt thuỷ tinh Vân Hải đều là các mỏ lớn của toàn miền Bắc có chất lượng cao, điều kiện khai thác thuận lợi, là nguồn nguyên liệu quan trọng để phát triển công nghiệp phục vụ nhu cầu trong tỉnh, trong nước và xuất khẩu. Vùng gần bờ có khả năng khai thác hải sản 47.000 tấn/năm. Có hơn 40.000 ha bãi triều, trong đó có thể đưa 4.650 ha vào trồng RNM và hơn 20.000 ha vào nuôi trồng thuỷ, hải sản với nhiều hình thứ khác nhau. Tài nguyên rừng Tổng diện tích rừng và đất lâm nghiệp 433.224 ha bao gồm 3 loại: 216.888 ha rừng sản xuất, 187.275 ha rừng phòng hộ và 29.061 ha rừng đặc dụng. Về rừng tự nhiên: Tổng diện tích là 140.000 ha với tài nguyên thực vật phong phú, hệ thực vật Quảng Ninh chịu ảnh hưởng của hệ thực vật Hoa Nam và nằm trong vùng di cự thực vật Đông Nam Trung Quốc, có khoaảng 250 loài thuộc 80 họ thực vật bậc cao có mạch, trong đó nhiều loài thực vật quý hiếm cần được bảo vệ. Về rừng trồng: Quảng Ninh là tỉnh có truyền thống và nhiều kinh nghiệm trong phát triển rừng. Tổng diện tớch rừng trồng là 100.000 ha. Tổng diện tích RNM là 18.645,88 ha (gồm 13.637,6 ha hỗn giao va 6.008,28 ha thuần loài, rừng tự nhiên chiếm 92,2%, rừng trồng chỉ chiếm 1,8%). Tài nguyên biển Quảng Ninh có chiều dài bờ biển 250 km, có 2077 đảo lớn nhỏ tạo ra nhiều vùng sinh thái biển khác nhau. Sinh vật biển phong phú, đa dạng, tiềm năng khai thác lớn. Động vật không xương sống phát hiện có 169 loài, 111 giống, 70 họ, trong đú có 100 loài động vật thân mềm (59,18%), 40 loài giáp xác (23,67%), 23 loài giun nhiều tơ (13,60%), 6 loài da gai, hải quỳ (3,55%). Thực vật biển có 26 loài phổ biến là trang, sú, mắm biển, vẹt dù, đước vòi và một số loài sống ở vùng nươc lợ. Khu hệ cá rất phong phú. Đặc điểm xã hội Dân số và lao động Dân số Dân số Quảng Ninh năm 2003 là 1.058.752 người, chiếm 1,31% dân số cả nước (Cục thống kê tỉnh Quảng Ninh , 2003). Mật độ dân số năm 2003 là 179 người/km2, thấp hơn nhiều so với mặt độ dân số trung bình vùng đồng bằng sông Hồng (894 người/km2) và vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ (853 người/km2). Dõn cư phân bố không đồng đều, theo đơn vị hành chính thì thành phố Hạ Long có mật độ dân cư đông nhất 908 người/km2, tiếp đến là thị xã Cẩm Phả 469 người/km2, huyện Yên Hưng 404 người/km2. Thấp nhất là ở huyện Hoành Bồ 49 người/km2 và Ba Chẽ 30 người/km2. Cơ cấu dân số nông thôn và thành thị năm 2003: dân số nông thôn có 569.446 người, chiếm 53,78%; dân số thành thị 489.306 người, chiếm 46,22%. Với tỷ lệ này, mức độ đô thị hóa của Quảng Ninh tương đối cao, cao hơn nhiều so với trung bình cả nước (25%) và vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ (gần 27,8%). Cơ cấu dân số nam, nữ năm 2003 là 50,67 – 49,33%. Dân số tỉnh thuộc dân số trẻ (do tăng cơ học), tỷ lệ dân số trong tuổi lao động chiếm 61,3% so với tổng số dân (cả nước 59,5%, đồng bằng sông Hồng là 60,2%). Tỷ lệ dân số trên 6 tuổi biết chữ chiếm 91,5% (trung bình cả nước là 86,3%). Gần 50% dân số đã tốt nghiệp phổ thông cơ sở (lớp 9) gấp 1,6 lần bình quân cả nước, là điều kiện rất thuận lợi cho việc đào tạo ngành nghề và tiếp thu nhanh tiến bộ khoa học và kỹ thuật Lao động Nguồn lao động ở Quảng Ninh rất dồi dào. Năm 2003 có 644,8 nghìn người, chiếm 61,3% so với dân số của tỉnh. Số lao động cú trỡnh độ chuyên môn kỹ thuật chiếm trên 25% là tỷ lệ cao so với các tỉnh đồng bằng sông Hồng (chỉ sau Hà Nội) là lợi thế lớn của Quảng Ninh. Tuy nhiên để đáp ứng nhu cầu phát triển nhanh theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong giai đoạn tới đòi hỏi phải khẩn trương đào tạo mới và đào tạo lại một đội ngũ lao động kỹ thuật trong tỉnh. Dự báo năm 2010 dân số của tỉnh nếu tính cả tăng cơ học có khoảng 1.500 nghìn người và năm 2020 khoảng 1.800 nghìn người. Dân số trong độ tuổi lao động đến năm 2010 khoảng 713,8 nghìn người và đến năm 2020 có khoảng 780 nghìn người, tăng thêm trong thời kỳ 2003-2010 khoảng 69 nghìn người, thời kỳ 2011-2020 tăng ít hơn, khoảng 64 nghìn người. Nguồn lao động tăng thêm là lực lượng lao động dồi dào, bổ sung cho các ngành kinh tế của tỉnh, song cũng đặt ra vấn đề cần giải quyết việc làm và đào tạo cho lực lượng lao động tăng thêm này để đáp ứng với công cuộc phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh. Dân tộc Quảng Ninh có 21 thành phần dân tộc khác nhau, song chỉ có 6 dân tộc có dõn số từ trên một nghìn người. Bao gồm Việt (Kinh), Dao, Tày, Sỏn Dỡu, Sỏn Chỉ, Hoa. Tiếp đến là hai dân tộc cú dõn số từ trên một trăm người là Nùng và Mường. Mười bốn dân tộc còn lại có số dân dưới 100 người gồm Thái, Kh'mer, Hrờ, Hmụng, ấđờ, Cờ Tu, Gia Rai, Ngái, Xu Đăng, Cơ Ho, Hà Nhì, Lào, Pup cô. Đây là những người gốc cỏc dõn tộc thiểu số từ rất xa như từ Tõy Nguyên theo chồng, theo vợ là người Việt (Kinh) hoặc người cỏc dõn tộc khác về đây sinh sống, bình thường khó biết họ là người dân tộc thiểu số. Cơ sở hạ tầng Hệ thống giao thông Về đường bộ: Mạng lưới đường chủ yếu của tỉnh là 3 tuyến quốc lộ, các tuyến tỉnh lộ, huyện lộ và đường giao thông liên xã nối liền thành phố Hạ Long với 14 đơn vị hành chính (3 thị xã và 11 huyện) của tỉnh và với các nơi khác. Toàn bộ hệ thống đường bộ có khoảng 2.283 km. Mật độ đường (tính đến cấp huyện lộ) là 0,190 km/km2, cao hơn so với mật độ đường trung bình toàn quốc. Tuy nhiên, hệ thống giao thông nông thôn vẫn còn nhiều đường cấp phối, giao thông đi lại còn gặp nhiều khó khăn. Toàn tỉnh cú trờn 100 cầu lớn nhỏ. Hiện nay, cầu Bói Chỏy đi ngang vịnh Cửa Lục đã hoàn thành và đi vào hoạt động, tạo điều kiện thuận lợi cho sự lưu thông giữa các vùng trong tỉnh và với các tỉnh khác trong cả nước. b. Về đường thủy: Là một tỉnh có lợi thế về phát triển giao thông trên biển, hiện có mạng lưới đường thủy do Trung ương quản lý khoảng 396km, do địa phương quản lý 105 km. c. Về đường sắt: Hiện tại Quảng Ninh mới chỉ có tuyến đường sắt từ Kép – Bói Chỏy dài hơn 166 km, tuyến đường này chỉ chủ yếu vận chuyển than và một lượng hàng hóa không đáng kể từ Bói Cháy vào trong nội địa. Trong thời gian tới, sẽ xây dựng mới tuyến Hà Nội – Yờn Viờn – Hạ Long có chiều dài khoảng 180 km để tăng cường năng lực hàng hóa thông qua địa bàn kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và góp phần giải tỏa nhanh lượng hàng qua các cảng biển thuộc tỉnh. d. Hàng không: Tại thị xó Múng Cỏi và Tiờn Yờn trước đây (thời thuộc Phỏp) đó từng có sân bay nhưng đến nay không còn sử dụng. Hiện tại đang có dự án làm sân bay tại đảo Kế Bào huyện Vân Đồn Cảng biển và các dịch vụ cảng biển Quảng Ninh có bờ biển dài, nhiều khu vực kín gió, nước sõu, ớt lắng đọng để phát triển cảng biển. Đặc biệt Cỏi Lõn và Cửa Ông là hai khu vực nằm trong vịnh Hạ Long và Bái Tử Long, được các dãy núi đá vôi bao quanh chắn súng, giú. Luồng tàu hiện tại đó cú thể cho phép tiếp nhận các tàu có trọng tải hàng vạn tấn ra, vào nhận, trả hàng hoá. Phát triển kinh tế Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội: Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội của Quảng Ninh giai đoạn 2000 - 2010 đã được Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 988/TTg ngày 30/12/1996 với mục tiêu khai thác mọi tiềm năng, lợi thế về vị trí địa lý và các nguồn tài nguyên để xây dựng tỉnh Quảng Ninh phát triển nhanh, ổn định, bền vững; đưa tỉnh trở thành một trung tâm công nghiệp, thương mại, dịch vụ, du lịch và là một trong những "cửa mở" lớn của phía Bắc để cùng với một số tỉnh, thành phố khác hợp thành khu kinh tế trong điểm thúc đẩy sự phát triển của vùng và phát triển chung của cả nước. Một số mục tiêu chủ yếu giai đoạn 2000 - 2010 Nhịp độ tăng trưởng GDP hàng năm từ 11,5% - 12%. Trong đó, công nghiệp, xây dựng tăng từ 13 - 14%/năm, nụng-lõm-ngư nghiệp tăng 5%/năm, du lịch-dịch vụ tăng 13%/năm. Kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân hàng năm 18 -20%. Tổng thu ngân sách tăng bình quân hàng năm 10-12%. Có sự chuyển biến trong cơ cấu kinh tế của tỉnh; đến năm 2000, tỷ trọng công nghiệp chiếm 38%, nụng-lõm-ngư nghiệp 14%, du lịch-dịch vụ 48% trong tổng GDP của tỉnh. Tổng quan về RNM Vai trò của RNM RNM là một loại rừng đặt biệt ở vùng cửa sông ven biển của các nước nhiệt đới. Trong RNM chỉ có một số loài cây sống được, đó là cỏc cõy ngập mặn. Cây ngập mặn sinh trưởng và phát triển tốt trờn cỏc bói bựn lầy ngập nước biển, nước lợ có thuỷ triều lên xuống hàng ngày, khác với cây rừng trong đất liền và cõy nụng nghiệp chỉ sống ở nơi có nước ngọt. Cung cấp gỗ và vật liệu: Gỗ các loài cây đước, vẹt, cóc, dà rất cứng, mịn, bền dùng làm cột nhà, ván, xà, đồ dùng trong gia đình, cầu, cọc chài lưới... Gỗ các loài cây tạp như mắm, bần, giá dùng làm ván ép. Lá cây dừa nước dùng để làm nhà, làm vách, mui thuyền và một số dụng cụ gia đình khác. Cung cấp tanin: Tanin chiết từ vỏ của cây đước, vẹt, dà có chất lượng tốt, tỉ lệ cao, dùng nhuộm vải, lưới, thuộc da. Trụ mầm của cỏc cõy trong họ đước cũng chứa nhiều tanin, nhân dân ven biển Thái Bình trước đõy đó khai thác để làm thuốc chữa bệnh tiêu chảy và nhuộm lưới. Cung cấp chất đốt: Cỏc cây ngập mặn là nguồn chất đốt chủ yếu của nhân dân vùng ven biển. Nếu như biết khai thác hợp lý và phát triển rừng trồng trờn cỏc bói bồi thỡ cú thể sử dụng lâu dài. Than đước, vẹt có nhiệt lượng cao, lâu tàn được nhân dân các thành phố và thị trường thế giới ưa chuộng. Sản phẩm công nghiệp: Nhiều loài cây như giá, mắm, bần ... có gỗ trắng, mềm, làm bột giấy rất tốt. Rễ hô hấp của cây bần xốp, có thể làm nút trai, vật cách điện. Thức ăn, đồ uống: Hầu hết lỏ cỏc loài cây ngập mặn là thức ăn giàu đạm cho gia súc. Quả mắm nhiều đạm, có thể muối dưa, luộc ăn khi thiếu gạo. Một số loài cá như cá dứa rất thích quả mắm. Nhựa cây dừa nước lấy từ cuống quả là loại nước uống bổ, ngon, có thể khai thác để sản xuất đường, nước ngọt, cồn. Thuốc chữa bệnh: Nhiều loài cây ngập mặn là những cây thuốc dân gian có giá trị. Trong thời kỳ chiến tranh, nhân dân và cán bộ vùng chiến khu đó dựng cỏc loài cây thuốc nam đó chữa được nhiều bệnh. Hiện nay đã điều tra được 15 loài cây ngập mặn nước ta có thể dùng làm thuốc. Mở rộng đất liền: Ở cỏc bãi mới bồi ven biển, cửa sụng cú một số loài cây ngập mặn như cây mắm, bần có khả năng mọc trên đất bùn lỏng, mặn và chịu ngập sâu. Đó là những loài cây tiên phong xâm chiễm bãi lầy. Nhờ các rễ cõy hô hấp dày đặc trên mặt bựn giỳp phù sa lắng đọng nhanh, đất được bồi tụ dần tạo thuận lợi cho loài cõy khỏc như đước, vẹt, dà… đến sau và phát triển thành rừng. Nhiều bãi nổi ở cửa sông, ven biển ngày nay trở thành những khu rừng có giá trị kinh tế cao như Cồn Trong, Cồn Ngoài (Minh Hải), Cồn Lu, Cồn Ngạn (Nam Định) đều là nơi phát triển của các cây ngập mặn. Hải sản: RNM cung cấp mựn, bó hữu cơ (do cành, lá, hoa quả rụng xuống được các vi sinh vật phõn huỷ) làm thức ăn cho nhiều loài động vật vùng triều, trong đó cú cỏc nhúm hải sản có giá trị kinh tế cao như tôm he, cua, biển, sò, ốc, cá bớp... Nghề đánh bắt hải sản ven bờ phụ thuộc rất nhiều vào RNM. Chim và dơi: RNM là nơi thu hút nhiều loài chim nước và chim di cư. Hiện nay RNM Minh Hải, Xuân Thuỷ là địa điểm lý tưởng cho chim non trong mùa sinh sản, trong đó có nhiều loài quý hiếm, được ghi tên trong sách đỏ Việt Nam và sách đỏ IUCN như cũ thỡa, già đẫy, hạc cổ trắng... Bảo vệ bờ biển, bờ sông: RNM được ví như bức tường xanh, bảo vệ vùng cửa sông ven biển. Từ xa xưa, ông cha ta đã biết trồng và bảo vệ các dải rừng tự nhiên và trồng thêm rừng trờn bói bồi ven biển, cửa sông để hạn chế tác hại của sóng và gió bóo Điều hoà khí hậu: Cũng như các rừng nội địa, RNM cú tỏc dụng to lớn trong việc điều hoà khí hậu. Về mùa hè, cỏc cõy thoỏt hơi nước nhiều, làm tăng độ ẩm không khí. Do đó cũng làm tăng lượng mưa ở địa phương. RNM thu nhận một khối lượng khớ cỏcbonớc thải ra trong sinh hoạt, trong công nghiệp và thải ra một lượng lớn ụxy trong quá trình quang hợp làm cho không khí trong lành, vì vậy nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đó vớ RNM ở Cần Giờ như “lỏ phổi” của thành phố. Rừng ngập mặn Việt Nam và tỉnh Quảng Ninh Rừng ngập mặn Việt Nam Diện tích Theo kết quả kiểm kê rừng toàn quốc, diện tích RNM Việt Nam tính đến ngày 21/12/1999 là 156.608 ha. Trong đó diện tích RNM tự nhiên là 59.732ha chiếm 38,1% và diện tích RNM trồng là 96.876ha chiếm 61,95%.(Viện Điều tra Quy hoạch Rừng, 2001). Phân bố Dựa vào các yếu tố địa lý, khảo sát thực địa và một phần kết quả ảnh viễn thám, Phan Nguyên Hồng (1991) đã chia RNM Việt Nam ra làm 4 khu vực khác nhau. Cụ thể như sau: Khu vực I: Ven biển Đông Bắc, từ mũi Ngọc đến mũi Đồ Sơn; Khu vực II: Ven biển đồng bằng Bắc Bộ, từ mũi Đồ Sơn đến mũi Lạch Trường; Khu vực III: Ven biển Trung bộ, từ mũi Lạch Trường đến Vũng Tàu; Khu vực IV: Ven biển Nam bộ, từ Vũng Tàu đến mũi Nải, Hà Tiên. Các tồn tại và thách thức trong công tác quản lý và bảo vệ RNM Để triển khai việc phục hồi RNM cho bảo vệ môi trường và phòng chống thiên tai có hiệu quả trên thực tế đòi hỏi chúng ta phải vượt qua một số thách thức và giải quyết những tồn tại chính sau đây: Ở hầu hết các địa phương ven biển từ Quảng Ninh tới Thừa Thiên Huế, nguy cơ thiên tai cao, mặc dù người dân đã có nhận thức vai trò lớn của RNM trong phòng chống thiên tai nhưng chưa tạo được được quỹ đất cụ thể cho từng vùng để phục hồi RNM đã bị suy thoái cũng như để trồng mới RNM. Các tỉnh ven biển Nam Trung bộ, đồng bằng sông Cửu Long cũng không còn quĩ đất để phục hồi mặc dù biết rằng mất RNM kéo theo suy giảm nguồn lợi thủy hải sản và thiệt hại sẽ vô cùng to lớn khi thiên tai xảy ra. Hơn nữa, việc bảo vệ và phát triển RNM vẫn gặp nhiều khó khăn do nhu cầu cuộc sống hàng ngày của người dõn vẫn chưa được đáp ứng. Trong thời gian qua chúng ta đã nỗ lực trồng RNM mới nhưng phần lớn chỉ trồng có một loài cõy (cõy Trang ở miền Bắc, cây Đước đôi ở miền Nam) nên hiệu quả kinh tế và môi trường phòng chống thiên tai không cao. Đó là chưa nói đến sự cố khi có dịch bệnh, sâu hại và thiên tai rất dễ bị tàn phá vì rừng chủ yếu chỉ có một loài cây. Chúng ta đang thiếu các giải pháp kỹ thuật thích hợp và áp dụng cho từng vùng trong việc phục hồi RNM, cải thiện chất lượng rừng hiện có và trồng mới RNM đáp ứng nhu cầu phòng chống thiên tai và bảo vệ môi trường ở từng địa phương cụ thể. Có thể nói rằng chúng ta đang lãng phí rất lớn khi chưa phối hợp, lồng ghép những hoạt động cụ thể của những đề án mới với các chương trình hiện có của quốc gia, quốc tế và các tổ chức phi chính phủ nhằm phục hồi, bảo vệ và sử dụng bền vững RNM. Mặt khác, chúng ta đang thiếu sự phối hợp liên ngành, chưa tạo ra được cơ chế tài chính bền vững nhằm huy động các nguồn thu cho công tác phục hồi, quản lý các khu bảo vệ, đề xuất thành lập các khu bảo tồn RNM có tầm quan trọng quốc gia và quốc tế. Một số mô hình phục hồi và bảo tồn hiệu quả RNM có sự tham gia của cộng đồng như ở Ninh Hòa (Nha Trang), Rỳ Trỏ (Huế), Thạch Hà (Hà Tĩnh), Sóc Trăng… chưa được nhân rộng, chưa có cơ chế huy động cộng đồng tham gia, công tác xã hội hóa việc phục hồi RNM cho phòng chống thiên tai chưa được coi trọng nhất là trờn cỏc phương tiện truyền thông đại chúng. Thực tế RNM vẫn tiếp tục bị suy giảm do nhiều nguyên nhõn khác nhau: Đổ chất phế thải trong khai thác than đó vựi lấp các dải RNM Ở Quảng Ninh có nhiều mỏ than lộ thiên sát ven biển hoặc sông nước mặn như: Hà Tu, Cẩm Phả, Mông Dương.... Khi khai thác than các xí nghiệp đổ vật phế thải xuống sông, biển lấp các bãi lầy cú cõy ngập mặn sinh sống. Việc xây dựng một số cảng than như cảng Uụng Bớ, Cửa Ông đã phá hủy nhiều đám RNM và hủy hoại các thảm cỏ biển và rạn san hô rất giàu động vật và hải sản ở vùng ven bờ và biển nông. Việc khai thác than với tốc độ cao như hiện nay đang là mối đe dọa lớn đối với HST RNM ở một số địa phương trờn vỡ lượng chất thải rất lớn vẫn tiếp tục đổ ra sông, biển hoặc do mưa làm xói mòn đất, than từ mỏ xuống cỏc sụng vựi lấp các những RNM ven sông và phá huỷ môi trường sống của các động vật hoang dã ở đó. Phá RNM để phát triển đô thị, cảng biển Trong thời kỳ đổi mới, công nghiệp hoá đất nước, nhiều vùng RNM ở ven biển, cửa sụng đó và đang bị lấp đất để xây dựng đô thị, khu công nghiệp, cảng biển như Nghi Sơn (Thanh Hoá), Vũng Áng (Hà Tĩnh), Tuần Lễ (Khánh Hoà), thị xã Hà Tiên... Hiện nay diện tích RNM đã bị thu hẹp mạnh, nếu không có biện pháp bảo vệ những dải RNM còn lại ở một số địa phương thỡ khụng những làm mất đi nguồn tài nguyên quớ giá mà còn mất cảnh quan đặc thù của vùng nhiệt đới. Hiện tượng xói lở bờ sông, bờ biển khó tránh khỏi, kinh phí để chống xói lở có thể gấp hàng trăm lần tiền trồng và bảo vệ RNM. Buông lỏng quản lý, chạy theo nguồn lợi trước mắt Các cơ quan quản lý từ trung ương đến địa phương chưa đánh giỏ đỳng vai trò to lớn của HST RNM; buông lỏng quản lý trong việc sử dụng tài nguyên vùng ven biển có RNM; khụng kiờn quyết xử lý việc phá rừng để nuôi tôm. Nhiều địa phương chỉ chú trọng đến lợi ích trước mắt là cho đấu thầu đất bãi lầy có RNM ở ven biển, cửa sông để nuôi tôm xuất khẩu mà chưa tính đến hậu quả lâu dài do thiên tai và suy giảm tài nguyên khi không còn rừng. Nước biển dâng Hiện tượng này được tạo ra bởi tổ hợp của nhiều yếu tố, đặc biệt do sự tăng khí thải công nghiệp, nông nghiệp như CO2, CH4 và mất RNM. Những dự báo cho biết trong thế kỷ này, Trái đất sẽ ấm lên, mức nước biển sẽ dâng cao hơn mức hiện nay có thể từ 60-100cm. Trong điều kiện đó nhiều vùng đất thấp ven biển, đặc biệt là ở đồng bằng sông Cửu Long sẽ bị chìm ngập trong nước biển, các rừng cây ngập mặn, các đầm tôm cũng không còn nữa. Rừng ngập mặn Quảng Ninh Sự suy giảm RNM Tổng số RNM đã bị hao hụt từ năm 1988 đến năm 2003 là 2509 ha chiếm gần 11 % số diện tích RNM toàn tỉnh (Bảng 1). Nhiệm vụ quy hoạch RNM tỉnh Quảng Ninh năm 2006 -2015 Nhiệm vụ quy hoạch RNM tỉnh Quảng Ninh năm 2006 -2015 bao gồm: Bảo vệ rừng hiện có: 17.682,55 ha Khoanh nuụi cú trồng bổ xung: 3.720,45 ha Trồng rừng mới: 3.000,00 ha Sản xuất lâm ngư kết hợp: 2.000,00 ha Mục tiêu tiến độ bảo vệ RNM ở Quảng Ninh thể hiện trong bảng 2. Bảng 1. Diện tích RNM chuyển đổi mục đích sử dụng TT  Tên huyện  Tổng diệntích chuyển đổi (ha)  Nuôi thuỷ sản (ha)  Mục đích khác (ha)  Các xã có diện tích   1  Móng Cái  1040  1040   Hải Hoà   2  Đầm Hà  30  30   Tân Bình   3  Hải Hà  159  159   Quảng Thắng, Quảng Phong, Quảng Quảng Minh, Đường Hoa   4  Tiên Yên  402  402   Đồng Rui   5  Hạ Long  295  161  134  Bãi Cháy, Cao Xanh, Hà Khẩu, Đại Yên, Giếng Đáy, Thống Nhất   6  Hoành Bồ  212  212   Lê Lợi   7  Yên Hưng  236  236   Hoàng Tân, Hà An, Minh Thành   8  Cẩm Phả  133  133   Cẩm Hải, Cửa Ông, Mông Dương   9  Vân Đồn  2  2     Tổng  2509  2375  134    (Nguồn: Sở Nông Nghiệp & PTNT Quảng Ninh, 2004) Bảng 2. Tiến độ bảo vệ RNM Quảng Ninh 2006-2015 (ha) Hạng mục  Tổng  Giai đoạn 2006-2010  Giai đoạn 2011-2015   Tổng  193.800,05  88.412,75  105.387,15   Bảo vệ rừng hiện có  167.697,8  88.412,75  79.285,05   Bảo vệ rừng khoanh nuôi có trồng bổ xung  18.602,25   18.602,25   Bảo vệ rừng trồng mới  5.000   5.000   Bảo vệ rừng trồng lâm ngư kết hợp  2.500   2.500   (Nguồn: Sở Nông Nghiệp & PTNT Quảng Ninh, 2004) Các giải pháp kiến nghị bảo vệ RNM Quảng Ninh Quy hoạch và sử dụng hợp lý RNM, vừa phát triển kinh tế vừa bảo vệ được tài nguyên môi trường. UBND tỉnh và các ngành chức năng ban hành càng sớm càng tốt quy chế quản lý bảo vệ và phát triển RNM cho phù hợp với từng địa phương. Các ngành chức năng cần tuyên truyền phổ biến giáo dục nhân dân hiểu và bảo vệ RNM, đưa việc giáo dục bảo vệ RNM và các nguồn lợi thuỷ sản ở địa phương vào các chương trình giáo dục phổ thông của địa phương bằng nhiều hình thức như viết tài liệu, hội thảo chuyên đề và phổ biến, tuyên truyền trờn các phương tiện thông tin đại chúng. Đề nghị tỉnh, các Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Khoa học cụng nghờ, Bộ Tài nguyên và môi trường, Bộ Thuỷ sản có những chủ trương chính sách cụ thể liên quan đến việc sử dụng hợp lý tài nguyên và môi trường RNM. Đặc biệt quan tâm đến việc nâng cao đời sống kinh tế, xã hội cho nhân dân ven biển để hạn chế tối đa việc phá RNM. Vấn đề khôi phục RNM ở Quảng Ninh không chỉ là trách nhiệm của nhân dân, các ngành chức năng mà còn có liên quan đến nhiều tỉnh trong khu vực. Kêu gọi đầu tư, giúp đỡ của các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ, các nước trong khu vực nhằm phục hồi rừng, đặc biệt là các chương trình nghiên cứu vừa có nguồn thu từ nguồn lợi thủy sản vừa quản lý RNM bền vững. Các giải pháp bảo vệ rừng ngập mặn Các giải pháp chung Kinh doanh RNM: Một nguyên lý cơ bản cần phải quan tâm là quản lý trên cơ sở ổn định sản lượng lâu dài của các loài cây kinh tế chủ yếu và giữ cân bằng sinh thái của vùng cửa sông, ven biển. Do đó trong kinh doanh lâm nghiệp phải chú ý đến những vấn đề chính dưới đây: Khai thác hợp lý và duy trì tối đa trữ lượng cây rừng để sử dụng gỗ, củi, than và các sản phẩm phụ khác một cách lâu dài, tạo công ăn việc làm ổn định cho nhân dân địa phương, hạn chế thấp nhất việc phá rừng bừa bãi. Khi diện tích, chất lượng rừng bị suy giảm, cần có thời gian ngừng khai thác lâm sản để phục hồi RNM. Bảo vệ bãi đẻ và nơi nuôi dưỡng những hải sản có giá trị kinh tế cao cũng như các động vật hoang dã quý hiếm khác trong RNM và vùng kế phụ cận bằng cách duy trì, phát triển rừng ở mức độ thích hợp. Tạo điểu kiện thuận lợi cho việc tái sinh tự nhiên bằng cách giữ lại đủ cây giống trong khu khai thác (30-40 cây giống/ha) với khoảng cách giữa cỏc cõy là từ 15m đến 20m. Biện pháp tốt nhất là sau khi các rừng sản xuất đã phục hồi và trưởng thành có thể khai thác từng dải rừng theo băng luân phiên nhau (35-40 m/băng), có trừ cây giống để đủ nguồn giống cho tái sinh tự nhiên. Chỉ cần trồng thêm ở chỗ tái sinh kém hoặc chỗ trống, giảm nhẹ kinh phí trồng rừng. Trồng rừng: Trồng rừng phòng hộ chống sóng bảo vệ đờ các vùng ven biển nước ta đã trở thành vấn đề cấp thiết. Tuy nhiên chọn các loài cây trồng thích hợp ở từng vùng địa lý là rất quan trọng. Biện pháp tốt nhất là trồng xen đước, đõng, đưng hoặc trang với các loài cây mọc tự nhiên hoặc các loài khác, những loài cây tái sinh tự nhiờn cú tỏc dụng hạn chế tác động của sóng, thuỷ triều, giữ đất bồi và là nơi thu hút các động vật bỏm khỏc như màn cước, hà sun, tạo điều kiện tốt cho cây trồng sinh trưởng nhanh. Cải tiến cỏch nuụi hải sản trong vùng RNM Môi trường RNM có những mặt thuận lợi và không thuận lợi đối với nuôi tôm, cần phải hiểu biết đầy đủ để xử lý thì việc nuôi trồng mới có hiệu quả. Muốn có năng suất cao cần chọn vị trí đầm hợp lý, giúp người nuụi tôm vốn và kỹ thuật để chuyển từ nuôi quảng canh thô sơ sang nuôi quảng canh cải tiến với diện tích thớch hợp. Biện pháp cấp bách là phải khảo sát tỉ lệ diện tích rừng sử dụng để nuôi tôm, đảm bảo tỉ lệ đầm nuôi ở vùng RNM là 1/5 hoặc 1/4. Nơi nào nuôi tụm không hiệu quả, cương quyết lấy lại đất để trồng rừng, tạo môi trường sống lâu dài cho hải sản. Cần tổ chức tập huấn về kỹ thuật canh tác và cách theo dõi, xử lý các yếu tố của môi trường cũng như kỹ thuật trồng RNM để đạt sản lượng cao và lâu dài theo phương pháp lâm ngư kết hợp cho những người nuôi tôm, cua.. Có biện phỏp tớch cực dành một phần tiền thu hoạch tôm, cua vào việc phục hồi rừng. Ngoài ra có thể sử dụng vùng RNM để nuôi một số hải sản như cua, các loại cỏ trờn bố hoặc trong lồng đặt trong kênh rạch của RNM, nuụi nghờu, sũ huyết ở các bãi cát có bùn trước RNM như Cần Giờ-Thành phố Hồ Chí Minh, Thạch Phú - Bến Tre, Duyên Hải – Trà Vinh đã làm. Phát triển cỏc hỡnh thức nuụi trờn vừa giải quyết được việc làm cho dân địa phương vừa hạn chế việc phá rừng. Cần đẩy mạnh việc giao đất cho nhân dân lâu dài, cho vay vốn để nuôi hải sản. Cần xoá bỏ việc cho người giầu ở nơi khác hoặc ở địa phương đấu thầu cỏc bói bồi rộng lớn, làm mất chỗ kiếm ăn hàng ngày của người dân nghèo ven biển. Mặt khác cần có biện pháp giải thớch, tuyờn truyền cựng cỏc qui định chặt chẽ về việc đánh bắt các lưới mắt quá nhỏ, cỏc công cụ huỷ diệt nguồn lợi làm giảm mạnh nguồn giống hải sản vào RNM. Sử dụng đất RNM để sản xuất nông nghiệp, cõy cụng nghiệp Những nơi có mùa khô kéo dài 4-6 tháng, hoặc nơi không có đủ nước ngọt để rửa chua mặn thì tuyệt đối không nên sử dụng RNM để sản xuất cây lương thực, cõy cụng nghiệp như dừa, đào lộn hột, mía. Nơi nào có nguồn nước ngọt dự trữ lớn, hoặc có khả năng sử dụng nước ngọt từ cỏc dòng sông để rửa chua mặn đều quanh năm, mới có khả năng trồng lúa và cỏc cõy khỏc. Mặt khác cần sử dụng giống lúa chịu mặn đã được Viện lúa quốc tế IRI tuyển chọn mới có hiệu quả. Đối với đất mặn ít ngập triều cần chọn một số loài cây gỗ mọc tự nhiên ở địa phương như xu, cóc, me, giá, cui, tra, bông gòn, so đũa, điền thanh, điên điển, … để trồng, vừa bảo vệ đất vừa thu nhiên liệu. Những nơi bị nhiễm mặn do nước dâng không còn cấy được lúa, cần nhanh chóng chuyển sang trồng dừa nước để sản xuất đường, rượu, cồn, nước ngọt từ nhựa cuống của quả và các sản phẩm khác từ lá cây hoặc xây dựng đầm nuôi tôm quảng canh cải tiến quy mô gia đình và trồng cây ngập mặn. Xây dựng khu bảo vệ, dự trữ nguồn gen, nghiên cứu và du lịch Cần chọn một số RNM điển hình cho từng vùng sinh thái làm khu bảo vệ các nguồn gen thực vật và động vật vùng triều và bảo tồn thiên nhiên. Trước hết cần tập trung nghiên cứu, đánh giá hiện trạng tài nguyên RNM để có biện pháp hữu hiện bảo vệ và phát triển tính đa dạng đi truyền trong HST RNM. Có thể kết hợp trong việc chọn khu bảo tồn RNM với địa điểm du lịch và giáo dục, hoặc tổ chức nơi du lịch thuận lợi để thu hút khách trong và ngoài nước. Do tác động của mực nước biển dâng và nhiễu động thời tiết bất lợi (bóo, ỏp thấp nhiệt đới, gió mùa, gió xoáy…) ngày càng tăng, cho nên việc bảo vệ các HST RNM cũng như cỏ biển, vỉa san hô và thực vật hoang dại khác ở các cửa sông, ven biển là rất cần thiết để hạn chế xói lở, tàn phỏ đê điều. Cần đầu tư thích đáng và khẩn trương trồng rừng phòng hộ chắn sóng ở một số tuyến đê biển và đờ sụng. Cho đến nay công tác điều tra tài nguyên HST RNM mới thực hiện một phần ở nước ta, chủ yếu là tài nguyên thực vật bậc cao. Cũn cỏc dạng tài nguyên sinh vật khác và tài nguyên khí hậu, nước cũn ớt được chú ý. Giải quyết vấn đề kinh tế - xã hội và quy hoạch dân cư trong vùng RNM Nguồn lợi về nuôi tôm ở vùng RNM lớn đã thu hút khá đông người dõn tham gia phá rừng nuôi tôm. Mặt khác những người dân từ nhiều địa phương khác tập trung đến khai thác, xõy dựng đầm nuôi tôm. Do đó tình trạng ở phân tán ngày càng tăng khiến cho việc quản lý và các sinh hoạt xã hội, văn hoá vốn đã yếu kém lại càng khó khăn hơn. Nếu để tình trạng này kéo dài thì rừng tiếp tục bị phá, nguồn hải sản giảm sút nhanh. Những vấn đề cấp bách phải giải quyết là: Đưa việc giáo dục bảo vệ RNM và nguồn lợi thuỷ hải sản lồng ghép vào chương trình giáo dục ở các cấp phổ thông, Mặt khác, cần tổ chức các “Cuộc thi tìm hiểu lợi ích rừng ngập mặn” cho học sinh các trường ở xã. Bồi dưỡng cỏc cỏn bộ chủ chốt ở địa phương cùng cán bộ ngành lâm nghiệp, thuỷ sản về vai trò của các HST RNM đối với nền kinh tế và môi trường, để dần dần họ giúp đỡ nhân dân hiểu rừ tỏc hại lâu dài của việc phá rừng, qua đó có ý thức bảo vệ rừng không chỉ cho hiện tại mà cũn cho các thế hệ sau. Có chớnh sách, quy chế rõ ràng về việc dành một phần nguồn lợi thuỷ sản, làm quỹ để phục hồi lại rừng. Đánh thuế luỹ tiến việc sử dụng diện tích RNM để nuôi tôm và khuyến khích việc đầu tư công sức, vốn, kỹ thuật nuôi tôm theo mô hình lâm ngư kết hợp quy mô gia đỡnh trờn diện tích hẹp. Có biện phỏp tớch cực hạn chế mức tăng dân số và nghiên cứu quy hoạch dân cư trong vùng RNM để xây dựng những mô hình thích hợp, trỏnh tỡnh trạng đưa dân ra xây dựng vùng kinh tế mới ven biển khi chưa có quy hoạch cụ thể cho việc bảo vệ, phát triển RNM và các vỉa san hô, các thảm cỏ biển ven bờ. Giải pháp bảo vệ rừng ngập mặn dựa vào cộng đồng Khái niệm về cộng đồng và cỏc bên liên quan Cộng đồng là những nhóm người có những đặc điểm về thái độ, cách ứng xử, tập quán sinh hoạt và ước muốn tương đối giống nhau, cùng sống trong bối cảnh tự nhiên, kinh tế, xã hội. Hay nói cách khác, cộng đồng được xác định là tất cả những người sống hoặc làm việc trong một khu vực địa lý nhất định, khụng phõn biệt nam nữ, già hay trẻ. Như vậy sự tham gia của cộng đồng được xác định là tất cả những người sống hoặc làm việc trong khu vực [6]. Cộng đồng cũng có thể bao gồm những tổ chức xã hội do cộng đồng lập ra để đại diện cho các quan điểm của họ. Ở nhiều dân tộc thiểu số, Già làng, Trưởng bản là những người giàu kinh nghiệm, nắm vững phong tục, tập quán của cộng đồng mình, đồng thời cũng là trung tâm của cuộc hoà giải, những tranh chấp xung đột, được cộng đồng tôn sùng nên hoàn toàn có thể đại diện cho cộng đồng, khác với những tổ chức được thành lập cho chương trình, dự án hay tổ chức quần chỳng cú màu sắc chính trị như Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh... [6]. Cỏc bên liên quan (stakerholder) gồm tất cả những người, những tổ chức, có lợi ích liên quan đến một hoạt động cụ thể. Cỏc bên liên quan có thể bao gồm cả những nhà ra quyết định cũng như những người bị ảnh hưởng bởi các quyết định. Cộng đồng là một trong cỏc bờn liên quan. Cỏc bờn liên quan khác sẽ rất khác nhau tuỳ thuộc vào từng vấn đề cụ thể [6]. Sự tham gia của cộng đồng Sự tham gia của cộng đồng là việc một cộng đồng được tham gia tư đóng góp kiến, tỏ thái độ và mối quan tâm của họ về một kế hoạch phát triển, hay một quy hoạch, kế hoạch sử dụng tài nguyên. Đó là cơ hội để người dõn cú thể bày tỏ ý kiến của mình và bằng cách đó họ có thể ảnh hưởng đến sự ra quyết định. Điều này sẽ tác động đến những kế hoạch của một vùng rộng lớn hoặc cũng có thể là một dự án nhỏ [6]. Hình thức tham gia có thể khác nhau, tuỳ thuộc vào loại và mức độ của dự án, cũng như khả năng nhận thức của cộng đồng về vấn đề đang được quan tâm. Thời gian của sự tham gia cũng khác nhau, từ giai đoạn đầu của việc lập kế hoạch hoặc trong quá trình cần có sự đánh giá nhu cầu của cộng đồng, sự tham gia của cộng đồng vào quá trình trên càng sớm thì càng có được nhiều sự ủng hộ của cộng đồng [6]. Những quyết định về quy hoạch, kế hoạch sử dụng tài nguyên sẽ ảnh hưởng trực tiếp đế chất lượng cuộc sống của cộng đồng. Những người trong cộng đồng chịu ảnh hưởng bao gồm những người sống trong khu vực đó, làm việc trong khu vực đó, học tập trong khu vực đó và thường qua lại trong khu vực đó [6]. Do đó, sự cần thiết phải có được những ý kiến của họ về những gì họ đang làm, những gì họ đang muốn có và trong nhiều trường hợp, chính cộng đồng là những người ra quyết định. Thực tiễn đã cho thấy, nếu những kế hoạch phát triển hoặc quy hoạch sử dụng tài nguyên phù hợp với nguyện vọng và nhu cầu của cộng đồng thì cộng đồng cũng sẽ tự hào về xứ sở của mình [6]. Vai trò của cộng đồng trong việc khai thác bền vững RNM Trong các chủ trường chính sách của Đảng, Nhà nước đó xỏc định vai trò quan trọng của cộng đồng trong công tác bảo vệ môi trường. Chỉ thị số 36/CT-TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 25-6-1998 đó xỏc định: “Bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ”. Quyết định số 256/2003/QĐ-TTg, ngày 3-12-2003 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia năm 2010 cũng nêu “Bảo vệ môi trường là nhiệm vụ của toàn xã hội, của các cấp, các ngành, các tổ chức, cộng đồng và của mọi người dõn”. Và quyết định số 22/200/QĐ – TTg của Thủ tướng Chính phủ về “Tư vấn, phản biện và giám định xã hội” đó xỏc định vai trò của các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp trong việc tham gia đóng góp ý kiến và thực hiện cỏc chớnh sỏch, cỏc kế hoạch, các dự ỏn phát triển kinh tế, xã hội và môi trường. Các tổ chức cộng đồng ở Việt Nam Các tổ chức cộng đồng ở Việt Nam ngày càng phát triển. Về tổ chức xã hội - nghề nghiệp, hiện có khoảng trên 40 hội và hàng trăm trung tâm hoạt động trong lĩnh vực khoa học và công nghệ. Các tổ chức này đã đóng góp ý kiến xây dựng các chính sách, luật pháp về bảo vệ môi trường, như Luật bảo vệ môi trường, Kế hoạch hành động đa dạng sinh học, Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia… đã thực hiện nhiều hoạt động tại các địa phương trong cả nước, thông qua các đề tài nghiên cứu, các dự ỏn phát triển trong các lĩnh vực sản xuất, xã hội và bảo vệ môi trường. Thí dụ Hội Khoa học Kỹ thuật Lâm nghiệp Việt Nam đã thực hiện nhiều dự án bảo vệ rừng và xây dựng các khu bảo tồn thiên nhiên. Các tổ chức chính trị - xã hội như Hội Nông dân Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, có hệ thống tổ chức từ trung ương tới cơ sở, nên phát huy được vai trò quan trọng trong việc huy động hội viờn cựng nhân dân địa phương thực hiện nhiều hoạt động bảo vệ môi trường tại địa phương. Cộng đồng địa phương là nguồn đóng góp ý kiến cho các chủ trương, chính sách của nhà nước và các dự án đầu tư, là người thực hiện, triển khai các dự ỏn, các chủ trương chính sách tại địa phương, tại cộng đồng. Cộng đồng địa phương cũng là cơ sở để thực hiện xã hội hoá công tác bảo vệ môi trường, thực hiện chủ trương “dõn biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, phát huy dân chủ từ cơ sở”. Cộng đồng dân cư ven biển là những người sống ở những dải đất hẹp hay trên mặt nước dọc theo một đường biến động nơi biển gặp đất liền. Những cộng đồng ven biển có nguồn thu nhập đa dạng nhưng đều có mối đe doạ nghiêm trọng về an ninh lương thực. Việc khuyến khích cộng đồng tham gia khai thác và quản lý bền vững RNM tại các vùng ven biển đang được các cấp các ngành hết sức quan tâm trong giai đoạn hiện nay. Truyền thống bảo vệ tài nguyên ven biển của các cộng đồng Trong lịch sử phát triển của đất nước, các cộng đồng dân tộc ở Việt Nam đó cú truyền thống lâu đời trong việc sống hài hoà với thiên nhiên, bảo vệ môi trường, vừa bảo tồn thiên nhiên vừa khai thác một cách hợp lý. Trong sử dụng tài nguyên, cộng đồng đã có nhiều kinh nghiệm, tri thức bản địa và nhiều phương pháp sáng tạo, trong đó có việc quy định các hương ước. Hương ước do nhân dân địa phương tự nguyện quy định và thi hành, nhằm bảo vệ và khai thác tài nguyên ven biển một cách hợp lý đó cú từ nhiều đời nay. Việc chọn một loài động vật sinh sống ở biển (cá ngừ, cá nhà táng, cá voi…) làm sinh vật thờ cúng tại mỗi làng chài là rất phổ biến. Hương ước được quy định cụ thể như được phép hay không được phép khai thác sử dụng một nguồn tài nguyên nào hay cách thức cộng đồng xử lý vi phạm. Bên cạnh đó, ở vùng ven biển nhiều cộng đồng còn xây dựng mạng lưới bảo vệ RNM, bảo vệ chim biển để hỗ trợ hoạt động của các cơ quan quản lý. Hoạt động chính của mạng lưới là tuyên truyền giáo dục, phát hiện sự cố, thông tin với các cấp lãnh đạo và các ngành chuyên môn, tham gia xử lý, giải quyết sự cố. Ví dụ như “Cõu lạc bộ bảo tồn chim biển” của huyện Giao Thuỷ. Thành viên của Câu lạc bộ là những nông dân, ngư dân đến từ cỏc xó vùng đệm của Vườn Quốc gia Xuân Thuỷ, họ tham gia một cách tình nguyện. Hàng ngày, song song với công việc của gia đình, họ thường xuyên đi tuần tra, bảo vệ RNM và đàn chim, cò tại địa phương. Họ tuyên truyền, vận động người dân cùng bảo vệ RNM, bảo vệ những đàn chim biển di cư đến địa phương. Khi phát hiện ra sự cố, chính người dân trực tiếp liên lạc với thành viên câu lạc bộ, và những thành viên này sẽ tham gia xử lý sự cố. Trong trường hợp không giải quyết được, họ thông báo với BQL Vườn Quốc gia Xuân Thuỷ, hay UBND xó/huyện hoặc các nhà khoa học liên quan. Trong điều kiện hiện nay, khi tốc độ dân số đang tăng lên, sức ép với TNTN càng lớn, những phong tục tập quán tốt trong việc bảo vệ RNM, bảo vệ tài nguyên ven biển cần được phát huy, phổ biến rộng rãi. Huy động vốn cho cộng đồng phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ RNM Huy động vốn cho cộng đồng phát triển kinh tế – xã hội và bảo vệ môi trường thông qua hình thức quỹ là một mô hình tiên tiến và hiệu quả được nhiều nơi sử dụng. Phương thức cho vay vốn để đầu tư cho phát triển kinh tế của cộng đồng dân cư là một hướng đi rất quan trọng trong việc nâng cao đời sống người dân, góp phần bảo vệ RNM địa phương. Một số mô hình quay vòng vốn hỗ trợ cho các hoạt động có sinh lãi như chăn nuôi lợn, xử lý chất thải bằng biogas, nuôi ong, du lịch sinh thái, ngành nghề thủ công. Việc khó khăn nhất là cách thức quản lý vốn quay vòng, cần phải có quy chế chặt chẽ về việc sử dụng quỹ, có sự công nhận và giúp đỡ của chính quyền địa phương Vai trò của cộng đồng trong giải quyết các xung đột môi trường ven biển Xung đột môi trường ven biển là một dạng xung đột xã hội liên quan đến hoạt động quản lý, sử dụng và bảo vệ tài nguyên ven biển. Xung đột thường xảy ra do thiếu thông tin, không có sự giải thích, thoả thuận trao đổi nên dẫn tới xung đột về lợi ớch. Vớ dụ UBND tỉnh Thái Bình năm 2003 đã ra quyết định phá huỷ 48 ha RNM để công ty ĐASO làm đầm nuôi tôm công nghiệp tại xó Thỏi Thượng, Thái Thụy, Thái Bình. Quyết định này đó gõy bất bình trong cộng đồng địa phương. Bởi vì, mất RNM sẽ mất đi vành đai xanh bảo vệ đê biển, người dân địa phương, đặc biệt là người dân nghèo, sẽ mất chỗ đánh bắt hải sản ven bờ. Người dõn đó biểu tình, gửi đơn thư tố cáo tới UBND huyện, UBND tỉnh rồi tới Ban Nghiên cứu HST RNM. Để giải quyết vấn đề này, một cuộc họp bốn bên giữa các nhà khoa học, cơ quan quản lý, cơ quan đã tài trợ trồng phục hồi RNM và đại diện người địa phương đã được tổ chức gấp ngay tại UBND xó Thỏi Thượng. Kết quả cuối cùng là quyết định phá RNM nuôi tôm đã được huỷ bỏ. Những mõu thuẫn, xung đột về lợi ích tương tự giữa những người dõn địa phương và những nhà đầu tư nuôi tôm ở các vùng RNM cũng thường hay gặp ở các địa phương khác trong cả nước Quản lý tài nguyên dựa vào cộng đồng Quản lý tài nguyên ven biển dựa vào cộng đồng là quá trình quản lý tài nguyên ven biển do những người phụ thuộc vào nguồn tài nguyên đề xuất và thực hiện. Vì vậy ngày càng có nhiều người sử dụng tài nguyên tham gia vào quản lý nguồn tài nguyên ven biển và trách nhiệm quản lý mang tính chất địa phương. Ý thức trách nhiệm, sự tuân thủ pháp luật do đó cũng tăng lên. Quản lý tài nguyên ven biển dựa vào cộng đồng là hoạt động nhằm định hướng các vấn đề thông qua kiểm soát quản lý tài nguyên mang tính địa phương. Khi quản lý tài nguyên dựa vào cộng đồng trở nên tiến bộ hơn nó sẽ giải quyết các vấn đề của cộng đồng ven biển một cách toàn diện hơn. Quản lý tài nguyên dựa vào cộng đồng là một nỗ lực làm cho cộng đồng “được kiểm soát hơn”. Quản lý tài nguyên ven biển dựa vào cộng đồng là chiến lược toàn diện nhằm xác định những vấn đề mang tính chất nhiều mặt ảnh hưởng đến môi trường ven biển thông qua sự tham gia tích cực của cộng đồng dõn cư. Điều quan trọng là chiến dịch này tìm cách xác định vấn đề cốt lõi của sự tiếp cận tài nguyên một cách tự nguyện cùng với cách tăng cường sự tiếp cận và kiểm soát của cộng đồng đối với nguồn tài nguyên mà họ phụ thuộc. Thuật ngữ “Dựa vào cộng đồng” là một nguyên tắc mà những người sử dụng tài nguyên đồng thời cũng là người quản lý hợp pháp đối với nguồn tài nguyên đó. Điều này giỳp phõn biệt nó với các chiến lược quản lý các nguồn TNTN khác hoặc là có tính tập trung hoá cao hoặc là không có sự tha

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLuan van thac si rung.doc