Forest protection and development law is approved by the 11th National Assembly at the 6th Session on
3/12/2004. According to this law, the regulations on forest protection and forest fire protection guarantee that the
implementation of forest protection law in reality increases the forest area, ensuring the forest coverage. However,
during implementation of these regulations, there are certain inadequacies and limitations. Therefore, it is essential
to do research, evaluate the implementation of regulations of forest protection and fire protection. Based on that,
certain limitations of these regulations must be pointed out and modifications on forest law building and releasing
must be proposed in compliance with the new context.
9 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 564 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá tình hình thực hiện quy định về bảo vệ rừng, phòng cháy, chữa cháy rừng trong luật bảo vệ và phát triển rừng 2004, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Quản lý Tài nguyên rừng & Môi trường
9TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 6-2016
ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN QUY ĐỊNH VỀ BẢO VỆ RỪNG,
PHÒNG CHÁY, CHỮA CHÁY RỪNG TRONG LUẬT BẢO VỆ
VÀ PHÁT TRIỂN RỪNG 2004
Lê Sỹ Doanh1, Nguyễn Thị Tiến2, Lê Mạnh Thắng3
1,2Trường Đại học Lâm nghiệp
3Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng Sơn La
TÓM TẮT
Luật Bảo vệ và phát triển rừng được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 6, khóa XI ngày 3/12/2004. Trong Luật
Bảo vệ và Phát triển rừng 2004 các quy định về bảo vệ rừng, phòng cháy chữa cháy rừng cũng đã góp phần đảm
bảo cho việc thực thi pháp luật bảo vệ rừng trên thực tế khiến cho diện tích rừng tăng, đảm bảo được độ che phủ
của rừng. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện các quy định về bảo vệ rừng, phòng chống cháy rừng
cũng vẫn còn có những điểm bất cập, hạn chế nhất định. Vì vậy, việc nghiên cứu, đánh giá tình hình thực hiện quy
định về bảo vệ rừng, phòng cháy, chữa cháy rừng trong Luật là hết sức cần thiết. Trên cơ sở đó, chỉ ra những hạn
chế nhất định của các quy định này và đề xuất các sửa đổi cho việc xây dựng và ban hành Luật Lâm nghiệp phù
hợp với tình hình mới.
Từ khóa: Bảo vệ rừng, bảo vệ và phát triển rừng, đánh giá tình hình thực hiện Luật, phòng cháy chữa
cháy rừng.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Luật Bảo vệ và Phát triển rừng (BV&PTR)
được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 6, khóa
XI ngày 3/12/2004. Sau khi Luật được ban
hành, cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở
Trung ương đã ban hành khoảng 100 văn bản
quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành luật;
ngoài ra còn có các văn bản quy phạm pháp
luật khác liên quan đến BV&PTR. Việc ban
hành Luật BV&PTR ở giai đoạn 2004 là hết
sức cần thiết, đáp ứng đòi hỏi của xã hội trong
việc gìn giữ, bảo tồn và phát triển được tài
nguyên thiên nhiên nói chung và tài nguyên
rừng nói riêng.
Trong Luật BV&PTR 2004 các quy định về
bảo vệ rừng, phòng cháy chữa cháy rừng cũng
đã góp phần đảm bảo cho việc thực thi pháp
luật bảo vệ rừng trên thực tế khiến cho diện tích
rừng tăng, đảm bảo được độ che phủ của rừng.
Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện
các quy định về bảo vệ rừng, phòng chống cháy
rừng cũng vẫn còn có những điểm bất cập, hạn
chế nhất định. Vì vậy, việc nghiên cứu, đánh giá
tình hình thực hiện quy định về bảo vệ rừng,
phòng cháy chữa cháy rừng trong Luật
BV&PTR 2004 là hết sức có ý nghĩa cả về mặt
lý luận và thực tiễn. Trên cơ sở rà soát, đánh giá
các quy định này có thể đề xuất các điểm sửa
đổi cơ bản của Luật Lâm nghiệp phù hợp xu
hướng hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng,
nhằm thực hiện cam kết của Việt Nam với cộng
đồng quốc tế.
II. NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Nội dung nghiên cứu
- Rà soát Luật BV&PTR năm 2004; phát
hiện tồn tại, hạn chế trong chính những quy
định của Luật thực định; so sánh với các văn
bản quy phạm pháp luật khác có liên quan
trong lĩnh vực bảo vệ rừng, phòng cháy chữa
cháy rừng.
- Chỉ ra những điểm thiếu của Luật
BV&PTR 2004, những điểm tồn tại hạn chế,
những điểm mâu thuẫn chồng chéo giữa Luật
BV&PTR với các Luật khác trong quy định về
bảo vệ rừng, phòng cháy chữa cháy rừng.
- Đề xuất hướng sửa đổi, bổ sung Luật phù
hợp với quá trình chuyển sang nền kinh tế thị
trường, hội nhập quốc tế, thích ứng với biến
đổi khí hậu, góp phần thực hiện Chiến lược
phát triển lâm nghiệp, tái cơ cấu ngành lâm
nghiệp trong thời gian tới.
Quản lý Tài nguyên rừng & Môi trường
10 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 6-2016
2.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập tài liệu thứ cấp: Thu
thập, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm
pháp luật liên quan đến bảo vệ rừng, phòng
chống cháy rừng theo nhóm vấn đề. Các tiêu
chí rà soát văn bản: tính hợp pháp, tính đồng
bộ, tính thống nhất, tính phù hợp.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp: Được
dùng để phân tích, tổng hợp các thông tin thu
thập được nhằm đưa ra những nhận định, đánh
giá, chỉ ra những tồn tại, hạn chế của quy định
bảo vệ rừng, phòng cháy chữa cháy rừng nhằm
đề xuất các sửa đổi cơ bản về bảo vệ rừng,
phòng cháy chữa cháy rừng.
- Nghiên cứu cũng tiến hành khảo sát và
tham vấn thực tế tại hai tỉnh Hà Tĩnh và Hòa
Bình để kiểm chứng và xác định lại những
bất cập trong thực tế khi áp dụng Luật
BV&PTR 2004.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Khái quát về pháp luật liên quan đến
bảo vệ rừng và phòng cháy, chữa cháy rừng
Từ sau khi Luật Bảo vệ và Phát triển rừng
năm 2004 được ban hành, cơ quan nhà nước có
thẩm quyền ở Trung ương đã ban hành nhiều văn
bản pháp luật liên quan đến bảo vệ rừng và
phòng cháy, chữa cháy rừng. Tuy nhiên, những
văn bản này khi triển khai vào thực tế vẫn còn có
những bất cập nhất định. Có thể tóm tắt như sau:
Các văn bản pháp luật tập trung quy định về
trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo vệ và
phát triển rừng, trách nhiệm của toàn dân, trách
nhiệm của chủ rừng trong bảo vệ rừng, phòng
cháy chữa cháy rừng nhưng chủ yếu là quy
định trách nhiệm một cách chung chung. Ngoài
ra, một số văn bản pháp luật quy định về trách
nhiệm bảo vệ rừng của Ủy ban nhân dân các
cấp, trách nhiệm bảo vệ rừng của từng chủ
rừng cụ thể, hoặc quy định trách nhiệm bảo vệ
rừng trong một số trường hợp như trong trường
hợp cần áp dụng các biện pháp cấp bách để
bảo vệ rừng. Tuy nhiên, các văn bản quy phạm
pháp luật đều quy định trách nhiệm của chủ
rừng về bảo vệ rừng còn chung chung.
Các văn bản pháp luật quy định về nội dung
bảo vệ rừng chủ yếu tập trung vào hai vấn đề
chính đó là vấn đề quản lý bảo vệ đối với động
thực vật rừng nguy cấp quý hiếm và phòng
cháy chữa cháy rừng. Các văn bản quy định về
nội dung Bảo vệ rừng bao gồm: phòng cháy,
chữa cháy rừng; quản lý các hoạt động du lịch
sinh thái tại các Vườn quốc gia, khu bảo tồn
thiên nhiên; quản lý thực vật rừng, động vật
rừng nguy cấp quý hiếm; quản lý hoạt động
xuất khẩu, nhập khẩu, tái xuất khẩu, nhập nội
từ biển, quá cảnh, nuôi sinh sản, nuôi sinh
trưởng và trồng cấy nhân tạo các loài động vật,
thực vật hoang dã nguy cấp, quý, hiếm; quản lý
khai thác và gây nuôi một số loài động vật
rừng thông thường; phối hợp giữa lực lượng
kiểm lâm và lực lượng dân quân tự vệ trong
công tác bảo vệ rừng; quy định tính hợp pháp
và kiểm tra nguồn gốc lâm sản; quản lý, sử
dụng nguồn thu từ xử lý vi phạm hành chính
đối với hành vi buôn lậu, gian lận thương mại
trong lĩnh vực QLR, bảo vệ rừng và quản lý
lâm sản và một số chính sách tăng cường công
tác bảo vệ rừng.
Quy định về tổ chức lực lượng; quyền hạn,
trách nhiệm; trang thiết bị; đào tạo, huấn luyện
chuyên môn nghiệp vụ đối với lực lượng bảo
vệ rừng cơ sở. Quy định này hiện nay còn rất
sơ sài và thiếu các quy định cụ thể để tăng
cường quyền hạn cho lực lượng này thực thi
pháp luật về bảo vệ rừng.
Một số văn bản quy định về phòng cháy
chữa cháy rừng như: Luật Bảo vệ và phát triển
rừng, Nghị định số 09 chưa đề cập đến việc
khắc phục hậu quả sau cháy rừng theo quy
định của Luật BV&PTR (Điều 42); Khoản 3
Điều 20 quy định về thẩm quyền phê duyệt
phương án phòng cháy và chữa cháy rừng của
một số các chủ thể, như Chủ tịch UBND tỉnh,
kiểm lâm... nhưng không quy định thẩm quyền
phê duyệt phương án phòng cháy và chữa cháy
rừng của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện.
Quản lý Tài nguyên rừng & Môi trường
11TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 6-2016
Vì vậy, trên thực tế cấp huyện không phát huy
được tính chủ động trong quá trình phòng
cháy, chữa cháy rừng tại địa phương.
3.2. Kết quả thực hiện pháp luật về bảo vệ
rừng, phòng cháy chữa cháy rừng1
Hệ thống tổ chức của lực lượng kiểm lâm
được kiện toàn từ Trung ương đến địa phương,
như: Cục Kiểm lâm trực thuộc Tổng cục Lâm
nghiệp, Bộ NN & PTNT; ở địa phương hình
thành Chi cục Kiểm lâm trực thuộc Sở NN &
PTNT (đến nay đã có 52/63 tỉnh thực hiện);
Hạt Kiểm lâm trực thuộc Chi cục Kiểm lâm,
đưa lực lượng kiểm lâm địa bàn về xã; đồng
thời, tăng cường các đội kiểm soát lưu động,
hình thành trạm Kiểm lâm làm nhiệm vụ kiểm
soát lâm sản của chủ rừng, Hạt Kiểm lâm rừng
đặc dụng.
Đã có 58/63 tỉnh, thành phố thành lập Ban
chỉ đạo cấp tỉnh về kế hoạch bảo vệ và phát
triển rừng giai đoạn 2011-2020 (trước đây là
Ban chỉ huy cấp bách trong bảo vệ rừng, phòng
cháy, chữa cháy rừng), với hơn 460/520 huyện
có rừng và 4.816/5.985 xã có rừng thành lập
các Ban chỉ huy để chỉ đạo, điều hành và kiểm
tra đôn đốc các chủ rừng tổ chức thực hiện
công tác bảo vệ rừng, phòng cháy, chữa cháy
rừng trên địa bàn; đồng thời trực tiếp chỉ huy
công tác chống chặt phá rừng và chữa cháy
rừng ở cơ sở. Hiện nay, các địa phương đã
thành lập Đội cơ động bảo vệ rừng và phòng
cháy, chữa cháy rừng (cấp tỉnh); Tổ cơ động
bảo vệ rừng và phòng cháy, chữa cháy rừng
(cấp huyện) và Tổ, Đội quần chúng bảo vệ
rừng và phòng cháy, chữa cháy rừng.
Việc xây dựng và triển khai Phương án bảo
vệ rừng, phòng cháy, chữa cháy rừng được duy
trì đều đặn, có nề nếp ở hầu khắp các địa
phương, chủ rừng. Ban chỉ đạo thực hiện kế
hoạch bảo vệ và phát triển rừng các cấp được
thành lập và củng cố; hình thành các tổ đội
1 Báo cáo tổng kết đánh giá tình hình thực hiện Luật
BV&PTR – Cục Kiểm lâm, 2015.
quần chúng bảo vệ rừng, ký quy chế bảo vệ
rừng. Công tác kiểm tra, truy quét phá rừng trái
pháp luật được tăng cường và duy trì thường
xuyên, tập trung ngăn chặn tình trạng phá
rừng, khai thác, mua bán, vận chuyển lâm sản
trái pháp luật, đã triệt phá, xử lý nghiêm minh
nhiều tụ điểm, "đầu lậu" phá rừng, buôn bán
lâm sản trái pháp luật.
Công tác cảnh báo, dự báo nguy cơ cháy
rừng được duy trì có hệ thống từ Trung ương
đến các địa phương. Các địa phương triển khai
thực hiện tích cực công tác phòng cháy, chữa
cháy rừng. Hầu hết các vụ cháy rừng đều đựơc
phát hiện sớm và đã tổ chức chữa cháy, dập tắt
đám cháy kịp thời trong vòng 24 giờ, thiệt hại
về rừng giảm, đây là điểm nổi bật về công tác
quản lý bảo vệ rừng trong những năm gần đây.
Việc bảo đảm chấp hành pháp luật về bảo
vệ và phát triển rừng: Thực hiện trách nhiệm
quản lý nhà nước của các cấp về rừng và đất
lâm nghiệp được tăng cường và triển khai ngày
càng có hiệu quả. Uỷ ban nhân dân các tỉnh,
huyện, xã đã thực hiện các biện pháp quản lý,
bảo vệ rừng và đất lâm nghiệp trên địa bàn, tổ
chức theo dõi diễn biến rừng và đất lâm
nghiệp. Vai trò, trách nhiệm của chính quyền
địa phương các cấp trong bảo vệ rừng đã từng
bước được nâng cao.
Chính quyền các địa phương đã tổ chức
thực hiện quyết liệt nhiều biện pháp về quản lý
bảo vệ rừng với nhiều tiến bộ đáng ghi nhận
thể hiện trên số vụ vi phạm giảm, thiệt hại gây
ra đối với rừng giảm và diện tích rừng ngày
một tăng. Tuy vậy, tình hình vi phạm Luật Bảo
vệ và Phát triển rừng vẫn còn diễn ra ở nhiều
địa phương, gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng
và bức xúc trong xã hội.
3.3. Tồn tại, hạn chế của quy định bảo vệ
rừng, phòng cháy chữa cháy rừng
* Về trách nhiệm bảo vệ rừng
Quy định trách nhiệm của chủ rừng về bảo
vệ rừng còn chung chung, thiếu cụ thể và chưa
Quản lý Tài nguyên rừng & Môi trường
12 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 6-2016
chặt chẽ. Luật BV&PTR2 quy định: Chủ rừng
có trách nhiệm bảo vệ rừng của mình; xây
dựng và thực hiện phương án, biện pháp bảo
vệ hệ sinh thái rừng; phòng, chống chặt phá
rừng; phòng, chống săn, bắt, bẫy động vật rừng
trái phép; phòng cháy, chữa cháy rừng; phòng,
trừ sinh vật gây hại rừng theo quy định của
Luật này, pháp luật về đất đai, pháp luật về
phòng cháy, chữa cháy, pháp luật về bảo vệ và
kiểm dịch thực vật, pháp luật về thú y và các
quy định khác của pháp luật có liên quan. Quy
định này quá chung chung nên rất khó có thể
đảm bảo việc chủ rừng sẽ thực hiện một cách
nghiêm túc. Chẳng hạn, phương án, biện pháp
bảo vệ hệ sinh thái rừng mà chủ rừng có nghĩa
vụ xây dựng và thực hiện bao gồm những nội
dung gì, cần phải đáp ứng những yêu cầu nào
không được qui định rõ. Chính vì vậy, Luật
phải chờ văn bản dưới luật giải thích. Tuy
nhiên, ngay cả Nghị định số 23/2006/NĐ-CP
hướng dẫn thi hành Luật bảo vệ và phát triển
rừng cũng không hướng dẫn cụ thể về vấn đề
này. Bên cạnh đó, về trách nhiệm bảo vệ rừng,
Luật BV&PTR3 có quy định: Chủ rừng không
thực hiện các quy định tại Khoản 1 Điều này
mà để mất rừng được Nhà nước giao, cho thuê
thì phải chịu trách nhiệm theo quy định của
pháp luật. Nếu quy định trách nhiệm của chủ
rừng mà chỉ buộc họ phải chịu trách nhiệm
trong trường hợp làm mất rừng do không thực
hiện các trách nhiệm đó là bất hợp lý, không
đảm bảo được nguyên tắc phòng ngừa và có
thể gây ra những hậu quả khó lường. Về
nguyên tắc, đã là nghĩa vụ được quy định bởi
pháp luật thì chủ rừng bắt buộc phải thực hiện
và phải thực hiện đúng, đầy đủ. Việc áp dụng
các biện pháp xử lý đối với họ sẽ được thực
hiện ngay từ khi họ không thực hiện hoặc thực
hiện không đúng nghĩa vụ đó theo quy định
của pháp luật chứ không phải đợi đến khi hậu
2 Khoản 1, Điều 37, Luật BV&PTR 2004.
3 Xem Khoản 2, Điều 37, Luật BV&PTR 2004.
quả xảy ra thì họ mới bị xử lý.
* Về nội dung bảo vệ rừng
Trong Luật BV&PTR4 chưa có khái niệm
đầy đủ về bảo vệ rừng. Chưa có quy định
nguyên tắc bảo vệ, phòng cháy, chữa cháy
rừng thích ứng, giảm thiểu tác động của biến
đổi khí hậu. Vấn đề quản lý khai thác và gây
nuôi một số loài động vật rừng thông thường
đến nay chưa có văn bản quy định cụ thể vấn
đề này.
Hiện tại, quy định về hỗ trợ kinh phí cho Ủy
ban nhân dân cấp xã5 tổ chức bảo vệ rừng ở cơ
sở, thành lập quỹ bảo vệ và phát triển rừng cấp
xã, chính sách đồng quản lý rừng, lực lượng
bảo vệ rừng ở cơ sở; tuy nhiên, những quy
định này chỉ mang tính nguyên tắc, cần có văn
bản quy định cụ thể hơn.
Trong quy định tại điều 42, Luật BV&PTR
và Nghị định số 09/2006 đều chưa đề cập đến
việc khắc phục hậu quả sau cháy rừng. Đây là
điểm rất thiếu trong quy định của Luật hiện
hành bởi từ thực tế thấy rằng quy định này là
rất cần thiết để đảm bảo cho công tác phòng
cháy chữa cháy rừng được thực thi một cách có
hiệu quả.
Sự thay đổi thường xuyên trong mô hình tổ
chức của tổ chức kiểm lâm nói riêng và ngành
lâm nghiệp nói chung tạo ra nhiều bất cập
trong hoạt động của lực lượng bảo vệ rừng do
Luật BV&PTR năm 2004 chưa xác định mô
hình quản lý, kiểm soát rừng phù hợp với bản
chất, tính chất hoạt động bảo vệ rừng, từ đó
trao cho lực lượng này những công cụ, những
quyền hạn cần thiết cho hoạt động bảo vệ rừng.
Mặc dù nhiều văn bản hướng dẫn thực hiện
Luật BV&PTR đã qui định cơ chế phối hợp
liên ngành trong việc thực hiện bảo vệ rừng
song do thiếu các căn cứ luật định nên cơ chế
này không phát huy được hiệu quả. Luật
4 Xem Đều 3, Luật BV&PTR 2004, giải thích từ ngữ.
5 Xem Điều 3, 4,5 Quyết định số 07/2012/QĐ-TTg ngày
8/2/2012 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành một số
chính sách tăng cường công tác bảo vệ rừng.
Quản lý Tài nguyên rừng & Môi trường
13TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 6-2016
BV&PTR qui định trách nhiệm chính của lực
lượng kiểm lâm trong việc bảo vệ rừng song
hoạt động của kiểm lâm bị chi phối bởi nhiều
luật chuyên ngành khác. Trong nhiều trường
hợp, vì nhiều lý do khác nhau (nhận thức, ý
muốn chủ quan...) các cơ quan chức năng
không muốn (hoặc là cố tình) không truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với đối tượng vi phạm
Luật BV&PTR.
Tình trạng phá rừng, lấn chiếm đất rừng,
khai thác, mua bán, vận chuyển lâm sản trái
pháp luật còn xảy ra ở hầu khắp các địa
phương trong cả nước, đặc biệt ở các khu vực
giáp ranh, khu rừng đặc dụng, rừng phòng hộ.
Xuất hiện các điểm nóng về phá rừng, khai
thác lâm sản trái phép. Tình trạng chống người
thi hành công vụ tại một số địa phương có
chiều hướng tăng cả về số vụ và mức độ
nghiêm trọng; song việc giải quyết chưa
nghiêm, chính quyền các cấp chưa chỉ đạo
quyết liệt các cơ quan khối nội chính vào cuộc
để giải quyết. Việc quản lý các cơ sở chế biến
gỗ, các tụ điểm mua, bán gỗ kém hiệu quả nên
tạo kẽ hở cho khai thác, chế biến lâm sản trái
phép diễn ra ồ ạt ở một số địa bàn trọng yếu.
Việc bảo vệ rừng tự nhiên giao cho các hộ
gia đình gặp khó khăn do quy mô nhỏ, rừng
giao cho các hộ là rừng tự nhiên nghèo kiệt,
không có thu nhập trong nhiều năm tới, nên họ
không quan tâm bảo vệ rừng. Việc ký kết hợp
đồng khoán bảo vệ rừng cũng như vậy. Hiện
tượng các hộ gia đình nhận tiền theo hợp đồng
nhưng không thực hiện không tuần tra bảo vệ
rừng là khá phổ biến. Vì vậy, rừng vẫn bị chặt
phá trái phép, nhưng khó quy trách nhiệm cụ
thể. Vì vậy cần có giải pháp để khác phục các
yếu kém này như tổ chức tuần tra bảo vệ rừng
theo nhóm hộ, quản lý rừng dựa vào cộng đồng.
* Quy định về phòng cháy, chữa cháy rừng
Vấn đề trách nhiệm lập phương án phòng
cháy, chữa cháy rừng của chủ rừng6 không
6 Xem Khoản 1, Điều 20, Nghị định số
09/2006/NĐ-CP ngày 16/01/2006 của Chính phủ
quy định về phòng cháy, chữa cháy rừng.
giúp chủ rừng thực hiện hiệu quả trách nhiệm
của mình. Vì phương án phòng cháy và chữa
cháy rừng phải đảm bảo các yêu cầu và nội
dung cơ bản như: Đề ra chương trình kế hoạch
tổ chức thực hiện các biện pháp, điều kiện
phòng cháy và chữa cháy rừng; Đề ra các tình
huống cháy cụ thể có thể xảy ra, khả năng cháy
lan, phát triển của đám cháy theo các mức độ
khác nhau và tình huống cháy lớn phức tạp
nhất; Đề ra kế hoạch huy động, sử dụng lực
lượng, phương tiện, tổ chức chỉ huy, biện pháp
kỹ thuật, chiến thuật chữa cháy và công việc
phục vụ chữa cháy phù hợp với từng giai đoạn
của từng tình huống cháy. Đây là những vấn đề
mà chủ rừng không đủ các điều kiện chuyên
môn thể thực hiện được một cách chính xác
nếu không có sự trợ giúp từ phía các cơ quan
quản lý. Theo quy định7 chủ rừng chỉ có thể
nhận được sự trợ giúp chuyên môn trong các
trường hợp như: Trường hợp phương án phòng
cháy và chữa cháy cần huy động lực lượng
phương tiện chữa cháy của lực lượng chuyên
ngành phòng cháy và chữa cháy rừng, của các
chủ rừng và lực lượng, phương tiện khác do cơ
quan Kiểm lâm quản lý; Trường hợp phương
án phòng cháy và chữa cháy cần huy động
nhiều lực lượng, phương tiện của nhiều cơ
quan, tổ chức hoặc địa phương tham gia. Tuy
nhiên, khi đã không đủ kiến thức chuyên môn
sâu về lĩnh vực này thì chủ rừng cũng khó xác
định được một cách chính xác phương án
phòng cháy chữa cháy rừng của mình cần sự
huy động lực lượng và phương tiện đến mức
độ nào để tìm đến sự trợ giúp phù hợp từ cơ
quan Kiểm lâm hay cơ quan Cảnh sát phòng
cháy chữa cháy.
Quy định về thẩm quyền phê duyệt phương
án phòng cháy chữa cháy rừng của Uỷ ban
7 Xem Khoản 2, Điều 20, Nghị định số
09/2006/NĐ-CP ngày 16/01/2006 của Chính phủ
quy định về phòng cháy, chữa cháy rừng.
Quản lý Tài nguyên rừng & Môi trường
14 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 6-2016
nhân dân cấp xã8 chưa hợp lý và tiêu chí phân
định thẩm quyền phê duyệt phương án phòng
cháy, chữa cháy rừng thiếu sự thống nhất. Chủ
tịch Ủy ban nhân dân cấp xã phê duyệt phương
án phòng cháy và chữa cháy rừng thuộc phạm
vi trách nhiệm quản lý của mình. Theo quan
điểm của chúng tôi, quy định thẩm quyền này
là quá cao so với khả năng thực tế của UBND
cấp xã. Như đã trình bày ở trên, cũng giống
như chủ rừng, phương án phòng cháy chữa
cháy rừng bao gồm nhiều nội dung chuyên
môn vượt ngoài khả năng thẩm định của
UBND cấp xã, nên khó đảm bảo được mục
đích của việc thực hiện hoạt động này. Khi
người lập phương án đã không đủ trình độ để
lập phương án chuẩn xác nhất mà người phê
duyệt phương án lại cũng không đủ điều kiện
chuyên môn để phê duyệt phương án thì vô
hình chung, phương án đó sẽ hoặc chỉ để cho
có, hoặc sẽ phản tác dụng trong phòng cháy,
chữa cháy rừng.
Ngoài ra, Nghị định số 09/2006/NĐ-CP
ngày 16/01/2006 của Chính phủ quy định về
phòng cháy, chữa cháy rừng chưa đề cập đến
việc khắc phục hậu quả sau cháy rừng theo quy
định của Luật BV&PTR (Điều 42); khoản 3
Điều 20 quy định về thẩm quyền phê duyệt
phương án phòng cháy và chữa cháy rừng của
một số các chủ thể, như Chủ tịch UBND tỉnh,
kiểm lâm... nhưng không quy định thẩm quyền
phê duyệt phương án phòng cháy và chữa cháy
rừng của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện.
Vì vậy, trên thực tế cấp huyện không phát huy
được tính chủ động trong quá trình phòng
cháy, chữa cháy rừng tại địa phương.
Nghị định 09 quy định các chủ rừng không
thụ hưởng ngân sách nhà nước phải tự bảo đảm
kinh phí cho hoạt động phòng cháy và chữa
cháy rừng. Đây là trở ngại lớn cho các chủ
8 Xem Khoản 3, Điều 20, Nghị định số
09/2006/NĐ-CP ngày 16/01/2006 của Chính phủ
quy định về phòng cháy, chữa cháy rừng.
rừng là hộ gia đình, cộng đồng các chủ rừng
nhà nước khác (các Ban quản lý RPH và
RĐD), vì nguồn cấp phát của các tỉnh rất hạn
hẹp, chủ yếu hỗ trợ cho một số trọng điểm
cháy rừng. Vì vậy, khi xảy ra cháy rừng tại các
huyện, thị xã, Hạt kiểm lâm, đơn vị chủ rừng
rất lúng túng, vì không có kinh phí chi cho việc
chữa cháy.
Quy định trách nhiệm quản lý nhà nước về
phòng cháy, chữa cháy rừng thuộc hai Bộ (Bộ
Công an và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn) chưa rõ ràng gây khó khăn trong công tác
chỉ đạo, điều hành và tổ chức thực hiện, như
thẩm quyền phê duyệt phương án phòng cháy,
chữa cháy rừng, chỉ huy chữa cháy rừng và
tham mưu ban hành văn bản quy phạm pháp
luật9. Tiêu chí phân định thẩm quyền phê duyệt
phương án phòng cháy, chữa cháy rừng thiếu
thống nhất. Quy định này cho thấy, việc phân
định thẩm quyền phê duyệt phương án phòng
cháy, chữa cháy rừng được thực hiện trên tiêu
chí về mức độ và phạm vi sử dụng lực lượng
phương tiện phòng cháy chữa cháy. Tuy nhiên,
riêng quy định về thẩm quyền phê duyệt
phương án phòng cháy chữa cháy của Cục
trưởng Cục Kiểm lâm lại được phân định dựa
trên tiêu chí về trách nhiệm quản lý loại các
loại rừng. Sự thiếu thống nhất này đặt ra một
vấn đề là, phải chăng các loại rừng do Bộ
Nông nghiệp và phát triển nông thôn quản lý
được bảo vệ theo một quy chế riêng và cách
phòng cháy chữa cháy đối với các loại rừng
này cũng được Bộ Nông nghiệp và phát triển
nông thôn thực hiện theo một phương án
riêng? hay cần có một sự ưu tiên đặc biệt nào
cho việc phòng cháy, chữa cháy đối với các
loại rừng mà Bộ này quản lý.
Thiếu thống nhất trong quy định về nhiệm
9 Xem Khoản 3, Điều 20, Nghị định số
09/2006/NĐ-CP ngày 16/01/2006 của Chính phủ
quy định về phòng cháy, chữa cháy rừng.
Quản lý Tài nguyên rừng & Môi trường
15TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 6-2016
vụ Kiểm lâm đối với thực hiện phòng cháy
chữa cháy rừng10: Mặc dù nhiều văn bản
hướng dẫn thực hiện Luật BV& PTR đã qui
định cơ chế phối hợp liên ngành trong việc
thực hiện bảo vệ rừng song do thiếu các căn cứ
luật định nên cơ chế này không phát huy được
hiệu quả. Luật BV & PTR qui định trách
nhiệm chính của lực lượng kiểm lâm trong việc
bảo vệ rừng song hoạt động của kiểm lâm bị
chi phối bởi nhiều luật chuyên ngành khác.
Điều này có thể thấy trong quy định của Nghị
định số 119/2006/NĐ-CP và Nghị định
09/2006/NĐ-CP. Nghị định 09/2006/NĐ-CP
quy định chủ rừng có thể đề nghị cơ quan kiểm
lâm hướng dẫn xây dựng phương án phòng
cháy chữa cháy rừng trong trường hợp phương
án phòng cháy và chữa cháy cần huy động lực
lượng phương tiện chữa cháy của lực lượng
chuyên ngành phòng cháy và chữa cháy rừng,
của các chủ rừng và lực lượng, phương tiện
khác do cơ quan Kiểm lâm quản lý. Nghị định
số 119/2006/NĐ-CP lại quy định một trong
những nhiệm vụ của Hạt Kiểm lâm Huyện là
hướng dẫn chủ rừng, cộng đồng dân cư địa
phương xây dựng và thực hiện kế hoạch, phương
án bảo vệ rừng, phòng cháy, chữa cháy rừng.
Như vậy, Nghị định 09/2006/NĐ-CP giới
hạn sự tham gia hướng dẫn của Kiểm lâm đối
với chủ rừng trong phòng cháy chữa cháy rừng
chỉ trong trường hợp cần huy động lực lượng
phương tiện chữa cháy của lực lượng chuyên
ngành phòng cháy và chữa cháy rừng, của
các chủ rừng và lực lượng, phương tiện khác
do cơ quan Kiểm lâm quản lý. Còn Nghị định
số 119/2006/NĐ-CP lại không xác định giới
hạn này.
3.4. Đề xuất sửa đổi, bổ sung quy định bảo
vệ rừng, phòng cháy chữa cháy rừng
* Về trách nhiệm bảo vệ rừng
Luật BV&PTR nên sửa đổi, bổ sung quy
10 Nghị định số 119/2006/NĐ-CP ngày 16/10/2006
về tổ chức và hoạt động của kiểm lâm và Nghị định
09/2006/NĐ-CP ngày 16/01/2006 của Chính phủ
quy định về phòng cháy, chữa cháy rừng.
định về trách nhiệm bảo vệ rừng theo hướng
quy định cụ thể trách nhiệm bảo vệ rừng của
từng loại chủ rừng khác nhau khi các đối tượng
này được giao các loại rừng khác nhau. Chẳng
hạn, phương án, biện pháp bảo vệ hệ sinh thái
rừng mà chủ rừng có nghĩa vụ xây dựng và
thực hiện bao gồm những nội dung cụ thể như
bảo vệ thực vật rừng, bảo vệ động vật rừng,
bảo vệ môi trường rừng... cần phải đáp ứng
những yêu cầu bảo vệ môi trường, bảo vệ các
thành phần của hệ sinh thái.
Về trách nhiệm cụ thể của chủ rừng thì nên
quy định: Chủ rừng không thực hiện các quy
định tại Khoản 1 Điều này mà để mất rừng
được Nhà nước giao, cho thuê thì phải chịu
trách nhiệm theo quy định của pháp luật. Bỏ từ
” mà để mất rừng được Nhà nước giao, cho
thuê”. Chỉ còn lại quy định: Chủ rừng không
thực hiện các quy định tại Khoản 1 điều này
thì phải chịu trách nhiệm theo quy định của
pháp luật.
*Nội dung bảo vệ rừng
Trong phần giải thích từ ngữ, nên bổ sung
khái niệm bảo vệ rừng. Điều này giúp cho việc
hiểu đúng như thế nào là bảo vệ rừng. Hơn
nữa, cần có khái niệm đầy đủ về bảo vệ rừng từ
đó mới xác lập được các nội dung bảo vệ rừng,
xác định được chủ thể bảo vệ rừng và các yếu
tố liên quan đến bảo vệ rừng trong nội hàm của
khái niệm.
Bên cạnh đó, Luật nên quy định cụ thể trách
nhiệm quản lý nhà nước về bảo vệ rừng, đặc
biệt là phòng cháy chữa cháy rừng chỉ thuộc về
Bộ NN&PTNT. Chính phủ quy định Chế độ
quản lý, bảo vệ những loài thực vật rừng, động
vật rừng nguy cấp, quý, hiếm, ưu tiên bảo vệ
và Danh mục những loài thực vật rừng, động
vật rừng nguy cấp, quý, hiếm, ưu tiên bảo vệ.
Cần bổ sung nguyên tắc đối với quy định cụ
thể về điều kiện khai thác và gây nuôi một số
loài động vật rừng thông thường (bằng việc
ban hành nghị định hướng dẫn). Bên cạnh đó
quy định nguyên tắc quản lý đối với một số
Quản lý Tài nguyên rừng & Môi trường
16 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 6-2016
loài động vật rừng thông thường.
Bổ sung quy định về lực lượng thực thi
pháp luật về bảo vệ rừng theo hướng tăng
cường quyền hạn cho lực lượng bảo vệ rừng
các cấp, thống nhất chức năng, quyền hạn,
quyền lợi cho các lượng bảo vệ rừng; bổ sung
chức năng, quyền hạn, quyền lợi cho lực lượng
bảo vệ rừng tự nhiên cấp cơ sở vì như vậy sẽ
tăng cường khả năng phối hợp giữa các lực
lượng bảo vệ rừng, tăng cường khả năng xử lý
vi phạm pháp luật bảo vệ rừng: Có thể cho
phép lực lượng bảo vệ rừng cấp cơ sở được sử
dụng súng và công cụ hỗ trợ trong công tác
bảo vệ rừng. Quy định về tổ chức quản lý bảo
vệ rừng theo hướng thống nhất cơ cấu tổ chức
quản lý bảo vệ rừng, giảm các điều kiện thành
lập ban quản lý, tăng định biên cho rừng đặc
dụng và rừng phòng hộ ven biển, quy định lại
định biên tối thiểu của một ban, vì như vậy sẽ
thống nhất thành hệ thống tổ chức quản lý bảo
vệ rừng các cấp, phù hợp với điều kiện của các
loại rừng đặc thù, tạo điều kiện quản lý chặt
chẽ rừng tự nhiên.
Bổ sung quy định bảo tồn đa dạng sinh học
ở các loại rừng theo hướng quy định bảo tồn đa
dạng sinh học ở rừng phòng hộ, quản lý các khu
rừng có giá trị bảo tồn cao trong các khu rừng
sản xuất, xây dựng và bảo tồn các hành lang đa
dạng sinh học, vì thực hiện như vậy tạo thuận
lợi cho việc bảo tồn đa dạng sinh học một cách
toàn diện, bền vững, hội nhập quốc tế về tiêu
chuẩn quản lý rừng bền vững, tạo điều kiện mở
rộng sinh cảnh cho bảo tồn đa dạng sinh học.
Bổ sung, sửa đổi về quy định xử lý vi phạm
nếu vi phạm các quy định về bảo vệ rừng,
phòng chống cháy rừng theo hướng điều chỉnh
khung xử phạt và hình thức xử phạt hành chính
đối với người dân địa phương và cộng đồng
như vậy sẽ dễ dàng hơn trong việc thi hành án
phạt, cộng đồng dân cư địa phương dễ chấp
nhận. Đặc biệt, cần bổ sung quy định về xử lý
vi phạm trong trường hợp người dân địa
phương phát hiện cháy nhưng không tham gia
chữa cháy rừng. Đây là quy định cần thiết để
huy động nhanh nhất lực lượng tại chỗ khi có
cháy rừng xảy ra.
Bổ sung quy định cộng đồng tham gia bảo
vệ rừng theo hướng quy định về vai trò, trách
nhiệm, quyền hạn, quyền lợi của cộng đồng
tham gia bảo vệ rừng, xây dựng các chính sách
đồng quản lý và hỗ trợ cộng đồng, vì như vậy
sẽ bảo đảm sự thành công của công tác bảo vệ
rừng, bảo tồn đa dạng sinh học; tận dụng được
ưu thế của cộng đồng, nâng cao trách nhiệm
của cộng đồng; tạo việc làm và nâng cao đời
sống cộng đồng vùng sâu, vùng xa. Cần phải
có những quy định cụ thể về quyền lợi, trách
nhiệm của cộng đồng trong công tác bảo vệ
rừng, chính sách hỗ trợ, khen thưởng đối với
các cộng đồng làm tốt công tác này. Đồng thời
xây dựng cơ chế chia sẻ lợi ích của cộng đồng
trong công tác bảo vệ rừng.
Giải thích thống nhất thuật ngữ khu bảo tồn
làm cơ sở cho việc thực hiện thống nhất các
cam kết của Việt Nam trong bảo vệ đa dạng
sinh học nói chung, bảo vệ rừng đặc dụng nói
riêng (bổ sung vào điều giải thích từ ngữ).
Bổ sung các quy định nguyên tắc về tổ
chức và hoạt động của trung tâm cứu hộ động
vật rừng; điều kiện tiếp nhận động vật, yêu cầu
về cách ly, kiểm tra dịch bệnh
* Các quy định về phòng cháy, chữa
cháy rừng
Trong quy định của Luật mới cần phải quy
định Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về phòng
cháy, chữa cháy rừng trên phạm vi cả nước, Ủy
ban nhân dân các cấp trong phạm vi địa
phương mình chịu trách nhiệm quản lý nhà
nước về phòng cháy và chữa cháy rừng.
Về vấn đề chịu trách nhiệm pháp lý và khắc
phục hậu quả sau cháy rừng thì cần quy định
theo hướng khi xảy ra cháy rừng, chủ rừng
phải kịp thời chữa cháy rừng, báo ngay cho cơ
quan nhà nước có thẩm quyền; chịu trách
nhiệm khắc phục hậu quả...
Chính vì cấp xã không có đủ khả năng, kinh
phí, phương tiện xây dựng và phê duyệt
Quản lý Tài nguyên rừng & Môi trường
17TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ LÂM NGHIỆP SỐ 6-2016
phương án phòng cháy chữa cháy rừng nên cần
bỏ quy định về thẩm quyền phê duyệt phương
án phòng cháy chữa cháy rừng mà thay vào đó
bổ sung quy định thẩm quyền phê duyệt
phương án phòng cháy và chữa cháy rừng của
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện.
IV. KẾT LUẬN
Luật BV&PTR 2004 quy định về quản lý,
bảo vệ, phát triển, sử dụng rừng, quyền và nghĩa
vụ của chủ rừng. Luật có 88 điều, được cấu trúc
thành 8 chương. Trong quá trình triển khai thực
hiện các quy định về bảo vệ rừng, phòng chống
cháy rừng cũng vẫn còn có những điểm bất cập,
hạn chế nhất định. Vì vậy, việc nghiên cứu,
đánh giá tình hình thực hiện quy định về bảo vệ
rừng, phòng cháy, chữa cháy rừng trong Luật là
hết sức cần thiết. Báo cáo này tập trung chủ yếu
vào việc rà soát Luật BV & PTR và các văn
bản hướng dẫn thi hành Luật, kết quả thực hiện
các quy định của Luật chỉ được nhận diện một
cách khái quát do hạn chế về thời gian nghiên
cứu. Những tồn tại, hạn chế, bất cập của quy
phạm pháp luật về bảo vệ rừng, phòng cháy, chữa
cháy rừng chỉ được trình bày một cách tóm tắt.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng,
đã đưa ra một số đề xuất sửa đổi, bổ sung quy
định về bảo vệ rừng, phòng cháy chữa cháy
rừng. Những gợi mở này rất cần được các bên
liên quan tiếp tục xem xét, phân tích, đánh giá,
cho thêm ý kiến để cung cấp đầu vào cho việc
sửa đổi, bổ sung Luật BV & PTR năm 2004.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Thông tư
01/2012/TT-BNNPTNT quy định hồ sơ lâm sản hợp
pháp và kiểm tra nguồn gốc lâm sản.
2. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Chỉ thị
số 3767/CT-BNN của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và
PTNT về việc tăng cường các biện pháp cấp bách trong
công tác BVR và PCCCR.
3. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Quyết
định 59/2005/QĐ-BNN ngày 10/10/2005 của Bộ trưởng
bộ NN&PTNT về việc ban hành quy định việc kiểm tra
kiểm soát lâm sản.
4. Chính phủ, Nghị định số 23 /2006 ngày 3/3/2006
về thi hành Luật Bảo vệ và Phát triển rừng.
5. Chính phủ, Nghị định số 119/2006/NĐ-CP ngày
16/10/2006 về tổ chức và hoạt động của Kiểm lâm.
6. Chính phủ, Nghị định số 09/2006/NĐ-CP ngày
16/01/2006 Quy định về Phòng cháy và Chữa cháy rừng.
7. Cục Kiểm lâm, Báo cáo tổng kết đánh giá tình
hình thực hiện Luật BV&PTR, 2015.
8. Quốc Hội, 2004, Luật Bảo vệ và Phát triển rừng.
REVIEW OF THE IMPLEMENTATION
OF REGULATIONS ON FOREST PROTECTION,
FOREST FIRE PREVENTION IN THE LAW
ON FOREST PROTECTION AND DEVELOPMENT OF FOREST 2004
Le Sy Doanh1, Nguyen Thi Tien2, Le Manh Thang3
1,2Vietnam National University of Forestry
3Son La Forest protection and Development Fund
SUMMARY
Forest protection and development law is approved by the 11th National Assembly at the 6th Session on
3/12/2004. According to this law, the regulations on forest protection and forest fire protection guarantee that the
implementation of forest protection law in reality increases the forest area, ensuring the forest coverage. However,
during implementation of these regulations, there are certain inadequacies and limitations. Therefore, it is essential
to do research, evaluate the implementation of regulations of forest protection and fire protection. Based on that,
certain limitations of these regulations must be pointed out and modifications on forest law building and releasing
must be proposed in compliance with the new context.
Keywords: Evaluation on law implementation, forest fire protection, forest protection, forest protection
and development.
Người phản biện : GS.TS. Võ Đại Hải
Ngày nhận bài : 19/10/2016
Ngày phản biện : 28/10/2016
Ngày quyết định đăng : 28/11/2016
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_gia_tinh_hinh_thuc_hien_quy_dinh_ve_bao_ve_rung_phong_c.pdf