Do ưu điểm của công cụ MNA là giúp phát
hiện các vấn đề có liên quan chủ yếu đến người
cao tuổi như giảm lượng thức ăn ăn vào, cuộc
sống phụ thuộc, có nhiều bệnh kèm theo, sử
dụng nhiều loại thuốc, suy giảm khối cơ, ít vận
động. Sử dụng công cụ MNA thích hợp cho việc
đánh giá suy dinh dưỡng ở người cao tuổi, giúp
phát hiện sớm nguy cơ suy dinh dưỡng, từ đó có
kế hoạch hỗ trợ dinh dưỡng kịp thời.
Một nghiên cứu của tác giả Murphy gồm
49 bệnh nhân (60-103 tuổi) bệnh viện chấn
thương chỉnh hình, phát hiện tỉ lệ suy dinh
dưỡng lúc nhập viện theo MNA là 19%, thấp
hơn tỉ lệ bệnh nhân gãy xương tại bệnh viện
Thống Nhất, có thể do mẫu nghiên cứu của
chúng tôi thấp hơn, tỉ lệ nguy cơ suy dinh
dưỡng là 47%, tương đương với kết quả trong
nghiên cứu của chúng tôi. (8)
Một nghiên cứu gộp gồm 36 nghiên cứu sử
dụng MNA, kết quả ghi nhận suy dinh dưỡng
bệnh nhân cao tuổi trong bệnh viện 23 ± 0,5 %,
kết quả này thấp hơn nghiên cứu của chúng tôi
52,2%, do số mẫu trong nghiên cứu lớn hơn rất
nhiều so với nghiên cứu của chúng tôi. Trong
khi đó nguy cơ suy dinh dưỡng là 46 ± 0,5%,
tương đương với kết quả của chúng tôi. (4)
Theo tác giả Thomas, bệnh nhân ngoại khoa
trước mổ, vào thời điểm nhập viện, tỉ lệ suy dinh
dưỡng và nguy cơ suy dinh dưỡng > 90%, kết
quả này cũng tương đồng với nghiên cứu của
chúng tôi là 100%. (11)
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 26/01/2022 | Lượt xem: 280 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá tình trạng suy dinh dưỡng ở bệnh nhân gãy xương tại bệnh viện Thống Nhất, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 3 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2014 42
ĐÁNH GIÁ TÌNH TRẠNG SUY DINH DƯỠNG
Ở BỆNH NHÂN GÃY XƯƠNG TẠI BỆNH VIỆN THỐNG NHẤT
Dương Thị Kim Loan*, Công Huyền Tôn Nữ Bảo Liên*, Nguyễn Thị Tiến*
TÓM TẮT
Đánh giá tình trạng dinh dưỡng rất quan trong trong bệnh viện, bởi vì suy dinh dưỡng rất thường gặp
trong lâm sàng. Suy dinh dưỡng đi kèm với những hậu quả xấu như suy giảm miễn dịch, chậm lành vết thương,
suy mòn khối cơ, kéo dài thời gian nằm viện, tăng chi phí điều trị và tăng tỉ lệ tử vong. Mục tiêu: Đánh giá tỉ lệ
suy dinh dưỡng ở bệnh nhân gãy xương. So sánh công cụ chẩn đoán suy dinh dưỡng chỉ số khối cơ thể BMI
(Body Mass Index ) và MNA (Mini Nutritional Assessment)
Phương pháp: Nghiên cứu tiền cứu, cắt ngang gồm 80 bệnh nhân được chẩn đoán gãy xương nhập vào
khoa Chấn thương chỉnh hình Bệnh viện Thống Nhất từ tháng 9 đến tháng 11 năm 2013.
Kết quả: Dựa vào công cụ MNA phát hiện 30,2% bệnh nhân gãy xương suy dinh dưỡng (điểm MNA <17);
60,4% bệnh nhân có nguy cơ suy dinh dưỡng (điểm MNA 17-23,5). Đặc biệt, tỉ lệ suy dinh dưỡng ở nhóm bệnh
nhân ≥ 60 tuổi chiếm tỉ lệ cao 50,2% và nguy cơ suy dinh dưỡng là 47,8%. Trong khi đó, BMI chỉ phát hiện được
10% bệnh nhân có suy dinh dưỡng, không phát hiện nguy cơ suy dinh dưỡng.
Kết luận: Bệnh nhân gãy xương tại khoa Chấn thương chỉnh hình cỏ tỉ lệ suy dinh dưỡng và nguy cơ suy
dinh dưỡng khá cao. MNA là công cụ hữu ích trong việc tầm soát suy dinh dưỡng và nguy cơ suy dinh dưỡng
trong bệnh viện.
Từ khóa: Suy dinh dưỡng, MNA, BMI
ABSTRACT
TO EVALUATE THE MALNUTRITIONAL STATE IN PATIENTS WITH BONE FRACTURE
AT THONG NHAT HOSPITAL
Dương Thi Kim Loan, Cong Huyen Ton Nu Bao Lien, Nguyen Thi Tien
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - No 3- 2014: 42-46
Background: Nutrition assessment is important in clinical medicine because malnutrition is a common
clinical finding. Malnutrition is associated with negative outcomes of patients, including higher infection and
complication rates, increasing muscle loss, impairing wound healing, longer length of hospital stay and
increasing morbidity and mortality. Objective: Evaluate the prevalence of malnutrition in patients with bone
fracture. To compare the nutrional status measured by the Body Mass Index (BMI) and the Mini Nutritional
Assessment (MNA).
Methods: A cross-sectional, prospective study was conducted in 80 patients admitted to the Orthopeadic
department from September to November 2013.
Results: The MNA assessment categorized 30.2% of group as “malnutrition” (score < 17 points), 60.4% as
“at risk “ (scored 17.5-23.5 points). Especially, the prevalence of malnutrition is 50.2% in elderly patients, 60
years or older and the proportion at risk of malnutrition is 47.8%. BMI detected only 10% of malnutrition
patients.
Conclusions: The prevalence of malnutrition in patients at the Orthopeadic department is rather high. The
results suggest that the MNA is a useful diagnostic tool in the identification of elderly patients at risk from
malnutrition and those who are malnourished in this hospital setting.
Key words: Malnutrition, MNA, BMI
* Khoa dinh dưỡng Bệnh viện Thống Nhất Tp. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: BSCKII. Dương Thị Kim Loan ĐT: 0988601486 Email: dkimloantn@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 3 * 2014 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2014 43
ĐẶT VẤN ĐỀ
Suy dinh dưỡng bệnh viện là vấn đề phổ
biến và chiếm tỉ lệ khá cao: tỉ lệ suy dinh dưỡng
trong bệnh viện thay đổi từ 15 – 54 % tùy thuộc
nhiều yếu tố: bệnh lý nền, tuổi, các chỉ số về dinh
dưỡng, sử dụng công cụ tầm soát và đánh giá
dinh dưỡng(10)
Suy dinh dưỡng lúc nhập viện khoảng 40%,
nếu không được can thiệp kịp thời, bệnh nhân sẽ
bị thiếu hụt dinh dưỡng nhiều hơn trong thời
gian nằm viện. Ngoài ra, tình trạng stress do
chấn thương, gãy xương, phẫu thuậtsẽ làm
tăng nhu cầu năng lượng và protein, trong khi
khả năng ăn vào của bệnh nhân kém, không
đảm bảo cân bằng dinh dưỡng(2).
Hậu quả suy dinh dưỡng làm giảm khối cơ,
yếu cơ hô hấp, chậm lành vết thương, chậm liền
xương, giảm sức đề kháng với nhiễm trùng, tăng
chi phí điều trị và kéo dài thời gian nằm viện,
tăng tỉ lệ tử vong.
Tại Việt Nam, nghiên cứu của tác giả Phạm
Văn năng ghi nhận tỉ lệ suy dinh dưỡng ở bệnh
nhân ngoại khoa phẫu thuật chọn lọc là 56% dựa
SGA(9).
Tỉ lệ suy dinh dưỡng ở bệnh nhân gãy cổ
xương đùi là 20%(3).
Có nhiều công cụ tầm soát và đánh giá tình
trạng suy dinh dưỡng: chỉ số khối cơ thể BMI
(Body Mass Index), chỉ số nhân trắc, thành phần
cơ thể, sinh hóa máu (albumin, prealbumin), tế
bào lympho, NRS (Nutritional Risk Screening),
SGA (Subjective Global Assessment), MUST
(Malnutrition Universal Screening Test), MNA
(Mini Nutritional Assessment), trong đó MNA là
công cụ thường được dùng đánh giá tình trạng
suy dinh dưỡng người cao tuổi với độ nhạy
(96%) và độ đặc hiệu cao (98%)(6).
Hiện tại Việt nam có rất ít nghiên cứu về suy
dinh dưỡng bệnh nhân gãy xương
Do đó, chúng tôi thực hiện nghiên cứu đánh
giá suy dinh dưỡng ở bệnh nhân gãy xương tại
Bệnh viện Thống Nhất, với các mục tiêu sau:
-Xác định tỉ lệ suy dinh dưỡng ở bệnh nhân
gãy xương
-So sánh công cụ chẩn đoán suy dinh dưỡng
BMI và MNA.
ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Các bệnh nhân được chẩn đoán gãy xương
nhập khoa ngoại chấn thương chỉnh hình
Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh nhân gãy xương kèm bệnh nội khoa
nặng như tai biến mạch não, suy tim nặng
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Cắt ngang, mô tả
Mẫu
Các bệnh nhân gãy xương được điều trị tại
khoa Chấn thương chỉnh hình Bệnh viện Thống
Nhất từ tháng 9 đến tháng 11 năm 2013.
Các biến số
- Biến số định tính
Giới tính, bệnh đi kèm, loại xương gãy, cảm
giác ngon miệng, tiền sử sụt cân, khả năng vận
động, stress tâm lý, suy giảm nhận thức, khả
năng ăn uống, tự nhận xét tình trạng dinh
dưỡng hay so sánh với người khác.
- Biến số định lượng:
Tuổi, số lượng thức ăn, thức uống, số thuốc
uống
Cân nặng, chiều cao, BMI, vòng cánh tay,
vòng cẵng chân
Cách tiến hành(1)
Hỏi cân nặng trước gãy xương
Chiều cao được đo gián tiếp qua chiều dài
sãi tay trái.
BMI = cân nặng (kg)/ chiều cao 2 (m)
Đo vòng cánh tay, vòng cẵng chân (cm)
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 3 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2014 44
Bệnh nhân được phỏng vấn theo thang điểm
MNA gồm, MNA-SF (Short form of the MNA
gồm 6 câu hỏi), mất 4 phút/bệnh nhân và MNA
(Full MNA gồm 11 câu hỏi), mất 10 -15
phút/bệnh nhân.
Tiêu chuẩn đánh giá kết quả
Dựa BMI (7)
Suy dinh dưỡng theo BMI
BMI = Cân nặng / (chiều cao)2
BMI : 17-18,49 Kg/m2 = Suy dinh dưỡng độ I
BMI : 16- 16,99 Kg/m2 = Suy dinh dưỡng độ II
BMI : < 16 Kg/m2 = Suy dinh dưỡng độ III
Thừa cân, béo phì theo BMI (12)
BMI : 23-24,9 Kg/m2 = Thừa cân
BMI : 25-29,9 Kg/m2 = Béo phì độ I
BMI : ≥ 30 Kg/m2 = Béo phì độ II
Công cụ MNA gồm 2 bước (5) (GUIGOZ 1994)
Bước 1: sử dụng MNA-SF
- MNA-SF ≥ 12 : Dinh dưỡng chấp nhận được
- MNA-SF < 12 : sử dụng Full MNA
Bước 2: sử dụng MNA
- MNA ≥ 23,5 : Dinh dưỡng tốt
- MNA 17-23,5 : Nguy cơ suy dinh dưỡng
- MNA < 17: Suy dinh dưỡng protein năng
lượng
Xử lý số liệu
Dữ liệu được xử lý bằng phần mềm SPSS
10.5 for windows
Mức có ý nghĩa khi p < 0,05.
KẾT QUẢ
Mẫu nghiên cứu gồm 80 bệnh nhân được
chẩn đoán gãy xương
Tuổi trung bình 46,3 ± 21,6 (năm), nhỏ nhất
là 13 tuổi và lớn nhất là 86 tuổi
Nam chiếm 62,5%, nữ 37,5%
Gãy cổ xương đùi, chiếm tỉ lệ cao ở nhóm
bệnh nhân ≥ 60 tuổi (52,2%) cao hơn nhóm bệnh
nhân < 60 tuổi (8,8%)
Bảng 1: Loại xương gãy
Nhóm tuổi
< 60 (n, %) ≥ 60 (n, %)
Xương
gãy
Cổ xương đùi 5 (8,8) 12 (52,2)
Cổ tay 4(7) 11 (47,8)
Cánh tay 11(19,3) 1(4,3)
Cẵng chân 15 (26,3) 6 (26,1)
Xương khác 22 (38,6) 4 (17,4)
Bảng 2: Tỉ lệ suy dinh dưỡng theo BMI
Tình trạng dinh dưỡng N Tỉ lệ %
Suy dinh dưỡng 8 10
Bình thường 41 51
Dư cân 31 39
Tổng 80 100
Bảng 3: Tỉ lệ suy dinh dưỡng theo MNA
Tình trạng dinh dưỡng N Tỉ lệ %
Suy dinh dưỡng 24 30
Nguy cơ suy dinh dưỡng 49 61
Bình thường 7 9
Tổng 80 100
Sau khi đánh giá MNA-SF, có 27 bệnh nhân
dinh dưỡng chấp nhận được và 53 bệnh nhân
được đánh giá tiếp bằng Full MNA đạt kết quả
như sau:
Tỉ lệ suy dinh dưỡng 30,2% và nguy cơ suy
dinh dưỡng 60,4%.
Bảng 4: Tỉ lệ suy dinh dưỡng theo MNA khảo sát
theo nhóm tuổi < 60 tuổi và ≥ 60 tuổi
Nhóm tuổi
< 60 (n, %) ≥ 60 (n, %)
MNA
< 17 4 (7,5) 12 (52,2)
17-23,5 21 (39,6) 11 (47,8)
> 23,5 5 (9,4) 0
P = 0,001
Bảng 5: So sánh MNA & BMI
MNA
< 17
(n, %)
17-23,5
(n, %)
> 23,5
(n, %)
BMI
(kg/m2)
< 18,5 5 (31,2) 3 (7,5) 0
18,5-22,9 8 (50) 25 (62,5) 8 (33,3)
23-24,9 1 (6,25) 6 (15) 8 (33,3)
≥ 25 2 (12,5) 6 (15) 8 (33,3)
Nhóm bệnh nhân ≥ 60 có tỉ lệ suy dinh
dưỡng theo MNA 52,2% và nguy cơ suy dinh
dưỡng là 47,8% cao hơn nhiều so với nhóm bệnh
nhân < 60 tuổi (7,5 % và 39,6%). Khác biệt có ý
nghĩa thống kê
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 3 * 2014 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2014 45
Kết quả BMI bình thường, vẫn có bệnh nhân
suy dinh dưỡng và nguy cơ suy dinh dưỡng
theo MNA (33/41 ) 70%, khác biệt p< 0,05.
BÀN LUẬN
Tỉ lệ suy dinh dưỡng ở bệnh nhân gãy
xương: theo MNA chiếm tỉ lệ khá cao 30,2% so
với BMI là 10%. Điều này cho thấy, đánh giá
suy dinh dưỡng chỉ dựa vào BMI sẽ bỏ sót
bệnh nhân suy dinh dưỡng, đặc biệt là bệnh
nhân cao tuổi. Ngoài ra, BMI không cho biết
được nguy cơ suy dinh dưỡng, do vậy, không
có chiến lược can thiệp dinh dưỡng sớm cho
bệnh nhân. Một lý do khác nữa là khi sử dụng
BMI đối với bệnh nhân cao tuổi sẽ kém chính
xác do sự thay đổi thành phần cơ thể: giảm
khối nạc, tăng khối mỡ, đồng thời chiều cao
cũng bị thấp đi so với người trẻ.
Khi phân tích theo nhóm tuổi, suy dinh
dưỡng theo MNA ở nhóm bệnh nhân ≥ 60 tuổi là
52,2% và nguy cơ suy dinh dưỡng là 47,8% cao
hơn nhóm bệnh nhân < 60 tuổi là 7,5% và 39,6%,
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05).
Do ưu điểm của công cụ MNA là giúp phát
hiện các vấn đề có liên quan chủ yếu đến người
cao tuổi như giảm lượng thức ăn ăn vào, cuộc
sống phụ thuộc, có nhiều bệnh kèm theo, sử
dụng nhiều loại thuốc, suy giảm khối cơ, ít vận
động. Sử dụng công cụ MNA thích hợp cho việc
đánh giá suy dinh dưỡng ở người cao tuổi, giúp
phát hiện sớm nguy cơ suy dinh dưỡng, từ đó có
kế hoạch hỗ trợ dinh dưỡng kịp thời.
Một nghiên cứu của tác giả Murphy gồm
49 bệnh nhân (60-103 tuổi) bệnh viện chấn
thương chỉnh hình, phát hiện tỉ lệ suy dinh
dưỡng lúc nhập viện theo MNA là 19%, thấp
hơn tỉ lệ bệnh nhân gãy xương tại bệnh viện
Thống Nhất, có thể do mẫu nghiên cứu của
chúng tôi thấp hơn, tỉ lệ nguy cơ suy dinh
dưỡng là 47%, tương đương với kết quả trong
nghiên cứu của chúng tôi. (8)
Một nghiên cứu gộp gồm 36 nghiên cứu sử
dụng MNA, kết quả ghi nhận suy dinh dưỡng
bệnh nhân cao tuổi trong bệnh viện 23 ± 0,5 %,
kết quả này thấp hơn nghiên cứu của chúng tôi
52,2%, do số mẫu trong nghiên cứu lớn hơn rất
nhiều so với nghiên cứu của chúng tôi. Trong
khi đó nguy cơ suy dinh dưỡng là 46 ± 0,5%,
tương đương với kết quả của chúng tôi. (4)
Theo tác giả Thomas, bệnh nhân ngoại khoa
trước mổ, vào thời điểm nhập viện, tỉ lệ suy dinh
dưỡng và nguy cơ suy dinh dưỡng > 90%, kết
quả này cũng tương đồng với nghiên cứu của
chúng tôi là 100%. (11)
KẾT LUẬN
Việc đánh giá tình trạng dinh dưỡng bệnh
nhân nằm viện là rất quan trọng, đặc biệt là
nhóm bệnh nhân cao tuổi, bị stress chấn thương
(gãy xương), giúp phát hiện sớm bệnh nhân suy
dinh dưỡng, nguy cơ suy dinh dưỡng, từ đó có
kế hoạch hỗ trợ dinh dưỡng kịp thời, giúp nâng
cao chất lượng điều trị cho bệnh nhân, giảm biến
chứng và giảm chi phí điều trị.
Công cụ MNA thật sự hữu ích trong việc
đánh giá suy dinh dưỡng và nguy cơ suy dinh
dưỡng bệnh nhân cao tuổi, cần thực hiện một
cách thường quy việc đánh giá dinh dưỡng bệnh
nhân nhập viện bằng công cụ này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. “ A Guide to Completing the Mini Nutritional Assessment –
MNA”, (2008) mna_guide.pdf
2. Barke LA., Gout BS. et al (2011), Hospital Malnutrition,
Prevalence Identification and Impact on Patients and Healthcare
System, Int. J. Environ. Public Health, 8, 514-527.
3. Chong CPW et al, (2009), Medical Problem in Hip Fracture
Patients, Atch Orthop Trauma Surg.
4. Guigoz Y (2006) The Mini Nutritional Assessment (Mna®)
Review Of The Literature – What Does It Tell Us?, The Journal
of Nutrition, Health Aging, Volum 10, Number 6.
5. Guigoz Y, Vallas B and Garry PJ, (1994), Mini Nutritional
Assessment: Apractical assessment tool for grading the
nutritiopnal state of elderly patient. Facts and Research in
Gerontolory. Subplement #2: 15-59.
6. Guigoz Y, Vellas B (1995), Test d'évaluation de l'etat nutritionnel
de la personne âgee : le Mini Nutritional Assessment (MNA)
(Test to assess the nutritional status of the elderly: The Mini
Nutritional Assessment (MNA). Med Hyg; 53:1965-1969.
7. International Arteriosclerosis Society XIII th International
Symposium on Artherosclerosis- September 28- October 2, 2003
- Kyoto.
8. Murphy MC, Brooks CN, et al (2000), The use of the Mini-
Nutritional Assessment (MNA) tool in elderly orthopaedic
patients. Eur J Clin Nutr; 54:555-562.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 3 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2014 46
9. Pham N V, Cox-Reijvenb PLM, et al (2006), Application of
subjective global assessment as a screening tool for malnutrition
in surgical patients in Vietnam. Clin Nutr; 25:102-108.
10. Pirlich M, Schutz T, Norman K et al (2006): The German
hospital malnutrition study. Clin Nutr; 25:563-572.
11. Thomas DR, Zdrowski CD, et al, (2002), Malnutrition in
subacute care. Am J Clin Nutr; 75:308-313.
12. Word Health Organization. Physical status (1995): The use and
interpretation of Anthropometry. Report of a WHO Expert
Committee geneva.
Ngày nhận bài báo: 03-04-2014
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 11-04-2014
Ngày bài báo được đăng: 20 – 05 - 2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_gia_tinh_trang_suy_dinh_duong_o_benh_nhan_gay_xuong_tai.pdf