Mối liên quan giữa RLCD và HATB
Theo tác giả R Kloner ở bệnh nhân THA có
khoảng 67 – 68% có các vấn đề liên quan tới RLC
ở các mức độ khác nhau. Nghiên cứu của
Michael Doumas và cộng sự tiến hành trên 358
bệnh nhân THA và 276 bệnh nhân có huyết áp
bình thường thấy tỷ lệ RLCD của bệnh nhân
THA là 35,2% cao hơn nhóm chứng 14,1% với
p<0,001. Các bệnh nhân có chỉ số huyết áp càng
cao tỷ lệ RLC càng lớn.
Tại nghiên cứu này đã tìm thấy mối tương
quan nghịch khá chặt chẽ giữa HATB và RLC
với r = -0,5 và p < 0,001 (IIEF = -0,298 HATB +
105,913).
Tại các nghiên cứu của Sylvia E Rosas(12),
nghiên cứu của Ming Wei và Asim Mumtaz cho
thấy có mối tương quan với RLC tuy nhiên tại
nghiên cứu này chúng tôi không tìm thấy các
mối tương quan giữa các yếu tố này với RLC.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy
bệnh nhân có nồng độ Testosterone thấp có tỷ lệ
RLC cao hơn. Mặt khác các bệnh nhân RLC nặng
có nồng độ testosterone rất thấp (dưới 5nmol/l)
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05).
Có mối tương quan thuận tương đối chặt chẽ
giữa nồng độ testosterone và RLC với r = 0,407
và p <0,001 (IIEF = 1,146 x nồng độ testosterone +
6,794).
Kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu
của Muhammad Anees và cộng sự ở nhóm RLC
có nồng độ testosterone trung bình 227 ± 20,47
ng/ml thấp hơn nhóm không RLC 305,71 ±
59,82ng/ml.
Điểm IIEF trong cả 5 lĩnh vực và điểm tổng
đều có mối tương quan thuận khá chặt chẽ với
p<0,001
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 08/02/2022 | Lượt xem: 156 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá tình trạngrối loạn cương và một số yếu tố liên quan trên bệnh nhân suy thận mạn thận nhân tạo chu kỳ tại bệnh viện thận Hà Nội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015
Chuyên Đề Thận – Niệu 166
ĐÁNH GIÁ TÌNH TRẠNG RỐI LOẠN CƯƠNG VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN
TRÊN BỆNH NHÂN SUY THẬN MẠN THẬN NHÂN TẠO CHU KỲ
TẠI BỆNH VIỆN THẬN HÀ NỘI
Nguyễn Thế Lương*, Ngô Trung Dũng*, Trần Mỹ Hạnh*, Lý Trần Kiên*, Trần Quang Hòa*
TÓM TẮT
Mục tiêu: (1). Đánh giá mức độ rối loạn cương trên bệnh nhân suy thận mạn thận nhân tạo chu kỳ. (2)Tìm
hiểu mối liên quan giữa rối loạn cương và một số yếu tố sức khoẻ của bệnh nhân suy thận mạn thận nhân tạo chu
kỳ
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu là mô tả cắt ngang
Kết quả: Có 75 bệnh nhân, tuổi trung bình 41,9±10,8, Thời gian thận nhân tạo trung bình là 60,3 ± 43,2
tháng. Bệnh nhân tăng huyết áp là 40%, thiếu máu là 68%. Nồng độ testosterone trung bình là 12,5 ± 5,9 nmol/l.
85,3% bệnh nhân có rối loạn cương, theo mức độ nhẹ vừa và nặng là 53,3%, 13,3% và 18,7%. Điểm IIEF là
38,7±16,6 Có mối tương quan nghịch khá chặt chẽ giữa rối loạn cương với tuổi, huyết áp trung bình. Có mối
tương quan thuận tương đối chặt chẽ giữa nồng độ testosterone và điểm IIEF. Có mối tương quan chặt chẽ giữa
testosterone, tuổi và rối loạn cương.
Kết luận Rối loạn cương là vấn đề sức khỏe phổ biến ở bệnh nhân suy thận mạn thận nhân tạo chu kỳ mặc
dù vậy lại chưa nhận được nhiều sự quan tâm của bệnh nhân, nhân viên y tế và hệ thống y tế.
Từ khóa: Rối loạn cương, Suy thận mạn, Thận nhân tạo chu kỳ
ABSTRACT
REVIEW STATUS OF ERECTILE DYSFUNCTION AND SOME RELATED FACTORS IN PATIENTS
WITH END-STAGE RENAL DISEASE WITH HEMODIALYSIS AT HANOI NEPHROLOGY HOSPITAL
Nguyen The Luong, Ngo Trung Dung, Tran My Hanh, Ly Tran Kien, Tran Quang Hoa
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - No 4 - 2015: 166 - 173
Aim: (1) To assess the level of erectile dysfunction in patients with End-stage renal disease with
hemodialysis. (2) To learn the association between erectile dysfunction and some health factors of End-stage renal
disease with hemodialysis
Methods: a cross-sectional study
Results: Our study researches on 75 patients with the mean age 41.9±10.8, the average hemodialysis time is
60.3±43.2 per person per month. It has been found that 40% of our patients have hypertension and 68 % of them
have ischemia. The average testosterone concentration is 12.5±5.9 nmol/l. 85.3 percentage of our patients has
erectile dysfunction, from mild, moderate to severe level are 53.3 %, 13.3% and 18.7% respectively. The IIEF
point is 38.7±16.6. We come to conclusion that there is a tight negative correlation between ED, age and average
blood pressure. There is a positive relationship between testosterone levels and IIEF point. We also find that
another result of our research is a correlation between testosterone, age and ED.
Conclusion: The erectile dysfunction is a common health problem of patients with End-stage renal disease
with hemodialysis though it has not received much attention from patients, professionals and health systems.
Key words: erectile dysfunction, End–stage renal disease, hemodialysis
* Bệnh viện Thận Hà Nội
Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Thế Lương ĐT: 0913308001 Email: luongandrology@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận – Niệu 167
ĐẶT VẤN ĐỀ
Suy thận đang là vấn đề ngày càng trở nên
phổ biến có tính toàn cầu không chỉ với ngành
y tế mà còn cả với toàn bộ cộng đồng. Thận
nhân tạo chu kỳ là một biện pháp điều trị hiệu
quả được áp dụng phổ biến tại Việt Nam cũng
như trên thế giới. Mặc dầu vậy giải pháp điều
trị này gặp rất nhiều khó khăn do người bệnh
suy thận mạn giai đoạn cuối đã có tổn thương
nhiều cơ quan trong đó có rối loạn chức năng
cương dương.
Rối loạn cương (RLC) là một bệnh vừa
mang tính thực thể vừa mang tính chất xã hội.
Bệnh tuy không gây tử vong, cũng không cần
xử trí cấp cứu nhưng tác động của nó dần ảnh
hưởng đến cuộc sống tinh thần của người
mắc. Trong sâu thẳm của tâm tư người bệnh
luôn bị ám ảnh bởi một mặc cảm bất lực của
một phế nhân. Trạng thái này sẽ là tiền đề sản
sinh ra các hiện tượng như chán nản trong
công việc, trong giao tiếp đời thường và là
nguồn gốc của nhiều chứng bệnh khác về tâm
thần kinh: suy nhược thần kinh, trầm cảm và
thậm chí tâm thần phân liệt(3,9).
Nâng cao chất lượng cuộc sống cho bệnh
nhân nói chung và bệnh nhân suy thận mạn
tính thận nhân tạo chu kỳ nói riêng được các
nhà lâm sàng, các nhà làm chính sách y tế và
toàn thể xã hội ngày càng đặc biệt quan
tâm.Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy tỷ lệ
rối loạn cương dương ở bệnh nhân suy thận
mạn thận nhân tạo chu kỳ rất cao, khoảng 50 –
90%(1,2,4,5). Vấn đề này tại Việt Nam chưa nhận
được sự quan tâm một cách thích đáng(6). Xuất
phát từ những vấn đề trên chúng tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài: “Đánh giá tình trạng rối
loạn cương và một số yếu tố liên quan trên bệnh
nhân suy thận mạn thận nhân tạo chu kỳ ở
bệnh viện Thận Hà Nội” với các mục tiêu sau.
Đánh giá mức độ rối loạn cương trên bệnh
nhân suy thận mạn thận nhân tạo chu kỳ.
Tìm hiểu mối liên quan giữa rối loạn cương
và một số yếu tố sức khoẻ của bệnh nhân suy
thận mạn thận nhân tạo chu kỳ.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu được thiết kế là mô tả cắt ngang.
Phương pháp thu thập số liệu: phỏng vấn trực
tiếp trên bản câu hỏi soạn sẵn.
Đối tượng nghiên cứu
Bệnh nhân nam suy thận mãn tính thận
nhân tạo chu kỳ tại bệnh viện Thận Hà Nội. Tuổi
từ 18 trở lên, đang hoặc đã có vợ hoặc bạn tình,
vợ bệnh nhân khoẻ mạnh.Có thời gian thận
nhân tạo chu kỳ ≥ 3 tháng. Không có các bệnh lý
cấp tính. Đồng ý tham gia nghiên cứu.
75 đối tượng đủ tiêu chuẩn nghiên cứu.
Các bước tiến hành
Hỏi bệnh sử
Khám lâm sàng
Sử dụng bảng câu hỏi IIEF (International
Index of Erectile Function – bảng điểm đánh giá
chức năng cương).
Xét nghiệm cận lâm sàng: công thức máu,
huyết sắc tố, hematocrit, mỡ máu, testosterone.
Phân tích kết quả bằng SPSS 12.0 và EPI –
INFO.
KẾT QUẢ
Trong thời gian nghiên cứu từ tháng 1/2013
đến tháng 12/2013 chúng tôi thu nhận 75 bệnh
nhân.
Tuổi trung bình là 41,9±10,8 tuổi (thấp nhất
là 20 và cao nhất là 65 tuổi).
Nhóm tuổi có số lượng đối tượng nghiên
cứu cao nhất là 30 – 39 (33,3%) sau đó thấp dần ở
các nhóm 50 – 59 (30,7%), 40 – 49 (17,3%), 20 – 29
(14,7%) và trên 60 chỉ có 4%.
42,7% là các bệnh nhân hưu trí và làm việc
ở nhà, nông dân với 31,3%, lao động trí óc
chiếm 20%, lao động phổ thông (10,7%) và
sinh viên (5,3%).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015
Chuyên Đề Thận – Niệu 168
Thời gian TNT chu kỳ trung bình là 60,3 ±
43,2 tháng (thấp nhất là 3 và cao nhất là
191tháng). Số bệnh nhân có thời gian TNT chu
kỳ từ 12 – 60 tháng chiếm tỷ lệ lớn nhất sau đó là
nhóm 60 – 120 tháng, nhóm <12 tháng và nhóm ≥
120 tháng có tỷ lệ tương đương khoảng 10%.
Tăng huyết áp chiếm tới 40% số đối tượng
nghiên cứu. Tỷ lệ bệnh nhân thiếu máu là 68% ở
các mức độ từ nhẹ, vừa tới nặng lần lượt là
41,3%, 22,7 và 4%.
Không có bệnh nhân nào có nồng độ
testosterone vượt ngưỡng trung bình (> 35
nmol/l), bệnh nhân có chỉ số cao nhất cũng chỉ
đạt 31,8 nmol/l, nhưng có tới 54,1% đối tượng
nghiên cứu có nồng độ testosterone dưới
ngưỡng thấp của chỉ số bình thường (<10nmol/l).
Nồng độ testosterone trung bình là 12,5 ± 5,9
nmol/l.
Ở nhóm tuổi 20 – 29 và 30 – 39 tỷ lệ đối
tượng có nồng độ testosterone dưới ngưỡng lần
lượt là 45 và 44% tỷ lệ này tăng lên khoảng 60%
ở nhóm tuổi 40 – 49 và 50 – 59, ở nhóm tuổi ≥ 60
tỷ lệ này là 100%.
Nồng độ testosterone giảm dần theo lứa tuổi
và có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).
87,3% đối tượng nghiên cứu có kích thức
tinh hoàn phải <12mm3, và 93,7% có kích thước
tinh hoàn trái <12mm3. Kích thước trung bình
tinh hoàn phải là 8,2 ± 2,6 mm3 và tinh hoàn trái
là 7,5 ± 2,3mm3.
Trong nghiên cứu của chúng tôi có tới 85,3%
bệnh nhân có rối loạn cương.
Bảng 1. Mức độ RLC theo thang điểm IIEF
Chỉ số N %
Bình thường 11 14,7
RLCD Nhẹ 40 53,3
Vừa 10 13,3
Nặng 14 18,7
Tổng số 75 100
Tổng điểm IIEF và điểm trung bình từng lĩnh
vực của nhóm nghiên cứu đều thấp so với điểm
chuẩn.Tổng điểm chung là 38,7 ± 16,6, chỉ chiếm
hơn 50% so với điểm chuẩn của thang điểm IIEF.
Bảng 2. Tổng điểm IIEF và điểm IIEF trung bình ở cả
5 lĩnh vực
Điểm IIEF
Điểm
trung bình
Tỷ lệ so với tổng
điểm tối đa
Khả năng cương 16,5 ± 7,8 55
Thoả mãn trong giao hợp 6,5 ± 3,4 43,3
Khả năng cực khoái 5,4 ± 2,2 54
Ham muốn tình dục 5,3 ± 1,9 53
Thoả mãn nói chung 5,0 ± 2,1 50
Tổng điểm chung 38,7 ±16,6 51,6
Chỉ có 8% số bệnh nhân có độ cứng đạt độ 1
tỷ lệ độ cứng mức độ 2, 3, 4 lần lượt là 12,0%,
65,3% và 14,7%.
Phân bố đối tượng mắc RLC có xu hướng
tăng dần theo tuổi 72,72% ở nhóm 20 – 29 tuổi,
76% ở nhóm 30 – 39 tuổi, 84% ở nhóm 40 – 49
tuổi và từ trên 50 tuổi là 100%.
Bảng 3. Phân bố RLC ở từng lứa tuổi
Nhóm tuổi
IIEF
RLC Tổng số
N % N %
60 3 100 3 4,0
50-59 23 100 23 30,7
40-49 11 84,61 13 17,3
30-39 19 76 25 33,3
20-29 8 72,72 11 14,7
Tổng 64 85,33 75 100
Biểu đồ 1. tương quan giữa tuổi và điểm IIEF
Có mối tương quan nghịch khá chặt chẽ giữa
tuổi và RLC với r = -0,69 và p < 0,001
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận – Niệu 169
Tại nghiên cứu này đã tìm thấy mối tương
quan nghịch khá chặt chẽ giữa HATB và RLC
với r = -0,5 và p < 0,001.
Biểu đồ 2. Tương quan giữa nồng độ testosrerone và
điểm IIEF
Điểm IIEF trong cả 5 lĩnh vực và điểm tổng
đều có mối tương quan thuận khá chặt chẽ với
p<0,001.
Có mối tương quan chặt chẽ khi nghiên cứu
mối tương quan đa biến giữa testosterone, tuổi
và RLC với r = 0,767 và p <0,001.
BÀN LUẬN
Tuổi trung bình của mẫu nghiên cứu là
41,9±10,8 tuổi, thấp nhất là 20 tuổi và cao nhất là
65 tuổi. Nghiên cứu của chúng tôi có độ tuổi
thấp hơn so với một số nghiên cứu. Tại nghiên
cứu của Juan Jesus Carrero(8) tuổi trung bình là
63, thấp nhất là 29 và cao nhất là 86 tuổi. Nghiên
cứu của Albaaj(3) tại Anh có độ tuổi trung bình là
56, thấp nhất là 16 và cao nhất là 94 tuổi. Ở mẫu
nghiên cứu của chúng tôi chỉ có 4% đối tượng
trên 60, với đa số bệnh nhân có độ tuổi dưới 60
nên các trao đổi trong quá trình nghiên cứu của
chúng tôi về RLC khá thuận lợi, đối tượng
nghiên cứu càng trẻ tuổi thì càng cởi mở, thông
tin thu thập dễ dàng hơn so với các đối tượng
cao tuổi. Các công trình nghiên cứu trên thế giới
có biên độ tuổi rộng hơn nên tuổi trung bình cao
hơn, nhưng số liệu này cũng cho thấy một khía
cạnh khác, đó là thời gian sống của các bệnh
nhân suy thận mạn tại các nước có lẽ cao hơn tại
Việt Nam.
Tại Việt Nam, trước đây quan hệ tình dục chỉ
tính đến khi đối tượng có vợ chính thức, tuy
nhiên tại mẫu nghiên cứu của chúng tôi có tới 24
% đối tượng nghiên cứu chưa có vợ, nhưng khi
trao đổi sâu với các đối tượng này thì họ đều đã
có các trải nghiệm tình dục với bạn tình, với các
nghiên cứu tại nước ngoài thay cho câu hỏi về
tình trạng hôn nhân là các câu hỏi về việc đã có
hay chưa có quan hệ tình dục vì vậy đây là vấn
đề không thể so sánh gữa nghiên cứu của chúng
tôi và các nghiên cứu khác, 76% hiện đang sống
với vợ, 5,3% chưa có con, 4 trường hợp (5,3%) có
con khi đang điều trị TNT.
Nhóm bệnh nhân đông nhất chiếm tới 42,7%
đối tượng nghiên cứu là các bệnh nhân hưu trí
và làm việc ở nhà, tiếp theo là các đối tượng
nông dân với 31,3%, nhóm lao động trí óc chiếm
20%, còn lại là các nhóm lao động phổ thông
(10,7%) và sinh viên (5,3%≥). Kết quả này cũng
tương đồng với hầu hết các nghiên cứu tại nước
ngoài(4,5), có thể lý giải được cơ cấu nghề này do
liên quan nhiều tới cơ cấu bệnh tật của đối tượng
nghiên cứu.
Thời gian TNT chu kỳ trung bình của đối
tượng nghiên cứu là 60,3 ± 43,2 tháng (ngắn nhất
là 3 tháng và dài nhất là 191 tháng). Với các
nghiên cứu tại cả trong và ngoài nước cơ bản
đều có kết quả tương đồng, Yu Sen Peng(7) có
thời gian là 50 ± 46,7 tháng, Ozkan Gungor(11) là
54 ± 49 tháng, Hoàng Trâm Anh là 46,8 ± 30
tháng. Nhưng cao hơn hẳn so với một số nghiên
cứu như Turk S là 41± 35 tháng, Asim Mutaz(3) là
25,5 ±19,4 tháng, Chun Fu Lai(5) là 21,16 ± 16,5
tháng. Điều này có lẽ do kỹ thuật thận nhân tạo
tại địa điểm nghiên cứu ngày càng được nâng
cao về chất lượng nên thời gian TNT chu kỳ
trung bình và tuổi thọ của bệnh nhân ngày càng
tăng lên.
Tình trạng huyết áp
Theo Blumenfeld JD tỷ lệ tăng huyết áp ở
bệnh nhân suy thận mạn có LMCK là 60 – 85%.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015
Chuyên Đề Thận – Niệu 170
Tăng huyết áp trên bệnh nhân suy thận mạn
có thận nhân tạo chu kỳ là một trong các nguyên
nhân chính dẫn tới tử vong. Nhiều nghiên cứu
của nước ngoài đã cho thấy: đa số các trường
hợp tăng huyết áp bệnh nhân suy thận mạn có
thận nhân tạo chu kỳ đều được chẩn đoán và
điều trị song mức độ kiểm soát tối ưu chỉ số
huyết áp vẫn còn thấp, có một tỷ lệ khá lớn
không kiểm soát được chỉ số huyết áp tối ưu do
rất nhiều nguyên nhân
Tại mẫu nghiên cứu của chúng tôi, bệnh
nhân có tăng huyết áp chiếm tới 40% số đối
tượng nghiên cứu. Kết quả này tương đương với
các nghiên cứu của Yu Sen Peng(13) là 31,1%,
Chun Fu Lai là 53,7%, nhưng lại thấp hơn rất
nhiều các nghiên cứu của Đặng Thu Thanh(8)
(93,7%), Sylvia E Rosas(12) là 97%, Leonardo E
Mesina là 94,8%.
Tình trạng thiếu máu ở nhóm nghiên cứu
Thiếu máu là triệu chứng phổ biến ở bệnh
nhân suy thận mạn, có trên 90 % bệnh nhân suy
thận mạn có thiếu máu.
Tỷ lệ bệnh nhân thiếu máu là 68% ở các mức
độ từ nhẹ, vừa tới nặng lần lượt là 41,3%, 22,7 và
4%. Với kết quả này có cao hơn so với một số
nghiên cứu tại nước ngoài cũng như trong nước,
nghiên cứu của Blanche M Chavers có kết quả là
39,8 – 54,1%, nghiên cứu của Min Chen có tỷ lệ là
40 – 57,8%, nghiên cứu của tác giả Đặng Thu
Thanh(8) có kết quả là 50%.
Trong mẫu nghiên cứu không có bệnh nhân
nào có nồng độ testosterone vượt ngưỡng trung
bình (> 35 nmol/l), bệnh nhân có chỉ số cao nhất
cũng chỉ đạt 31,8 nmol/l, nhưng có tới 54,1% đối
tượng nghiên cứu có nồng độ testosterone dưới
ngưỡng thấp của chỉ số bình thường (<10nmol/l).
Nồng độ testosterone trung bình ở mẫu nghiên
cứu là 12,5 ± 5,9 nmol/l.
Theo nhiều nghiên cứu cả trong và ngoài
nước thì sự thiếu hụt testosterone trên bệnh
nhân suy thận mạn có thận nhân tạo chu kỳ là
rất phổ biến, nhiều công trình đã cho thấy tỷ lệ
thiếu hụt là từ 30 – 60%. Kết quả nghiên cứu này
khá tương đồngvới nghiên cứu của Albaaj(3) tiến
hành năm 2006 trên 84 bệnh nhân suy thận mạn
có lọc máu chu kỳ (13,0 ± 6,9 nmol/l) và nghiên
cứu của tác giả Đặng Thu Thanh(8) (12,55 ± 4,48
nmol/l), cao hơn nghiên cứu của Ozkan
Gungor(11) (8,69 ± 4,1 nmol/l) hay của Juan J
Carrero(9) (9,95 nmol/l).
Nồng độ testosterone theo nhóm tuổi: ở
nhóm tuổi 20 – 29 và 30 – 39 tỷ lệ đối tượng có
nồng độ testosterone dưới ngưỡng lần lượt là 45
và 44% tỷ lệ này tăng lên khoảng 60% ở nhóm
tuổi 40 – 49 và 50 – 59, ở nhóm tuổi ≥ 60 tỷ lệ này
là 100%.
Trong từng nhóm tuổi nồng độ
testosterone giảm dần theo lứa tuổi và có ý
nghĩa thống kê (p < 0,05).
Theo Chris Steidle thì sau tuổi 30, hoạt động
của tinh hoàn giảm 2% mỗi năm và phát triển
hội chứng mãn dục nam (suy tuyến sinh dục
khởi phát muộn), 20% nam giới ở độ tuổi 50, 30%
ở độ tuổi 60 và 50% ở độ tuổi 80 có nồng độ
testosteron thấp hơn ngưỡng trung bình.
Tại nghiên cứu Massachusetts của Henry
Feldman tiến hành năm 1994 nghiên cứu trên
1709 nam giới có độ tuổi từ 40 – 70 kéo dài 7 – 10
năm cho thấy testosterone tự do giảm 2- 3 % mỗi
năm, testosterone toàn phần giảm 1,6% năm.
Phân loại thể tích tinh hoàn
Về kích thức tinh hoàn: 87,3% đối tượng
nghiên cứu có kích thức tinh hoàn phải <12mm3,
và 93,7% có kích thước tinh hoàn trái <12mm3.
Kích thước trung bình tinh hoàn phải là 8,2 ± 2,6
mm3 và tinh hoàn trái là 7,5 ± 2,3mm3. Nếu so
sánh với nghiên cứu của Rob Mc Lachlan tiến
hành tại Australia thì kích thước trung bình của
tinh hoàn là 20 mm3 (kích thước 4,5 x 2,5 x 1,5
cm), tại nghiên cứu của Nguyễn Thành Như tiến
hành tại bệnh viện Bình dân trên 164 nam giới
cho kết quả 66% có kích thước 12 – 20 mm3.
Các nghiên cứu tương tự về rối loạn cương
trên bệnh nhân suy thận mạn có LMCK cả
trong và ngoài nước mà chúng tôi tham khảo
thì đều không tiến hành đo thể tích tinh hoàn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận – Niệu 171
của bệnh nhân nên chúng tôi chưa thể có các
phép so sánh.
Rối loạn cương là triệu chứng dễ nhận thấy,
phổ biến và rõ ràng nhất về suy giảm chức năng
sinh dục ở bệnh nhân nam giới suy thận mạn.
Chức năng tình dục ở nam giới là sự phối hợp
của rất nhiều yếu tố tác động như hệ thống nội
tiết, thần kinh, tâm thần, mạch máu và tâm lý. Ở
bệnh nhân nam suy thận mạn có sự rối loạn hệ
thống của nhiều cơ quan: thiếu máu, cường cận
giáp thứ phát dẫn tới calci hoá mạch, thiếu kẽm,
dùng thuốc (hạ huyết áp, chống loạn nhịp), rối
loạn dòng chảy của động mạch và các xoang tĩnh
mạch dương vật, tinh hoàn giảm chức năng do
giảm tưới máu dẫn tới giảm sản xuất
testosterone, tổn thương hệ thống thần kinh tự
động và một yếu tố rất quan trọng là tổn thương
tâm lý do mắc bệnh mạn tính kéo dài. Theo Biff
F Palmer tỷ lệ rối loạn cương ở bệnh nhân suy
thận mạn có thận nhân tạo chu kỳ và bệnh nhân
lọc màng bụng là tương đương nhau khoảng 50
– 90% số bệnh nhân.
Trong nghiên cứu có tới 85,3% bệnh nhân
có rối loạn cương. Trong đó phân loại theo
mức độ nhẹ vừa và nặng lần lượt là 53,3%,
13,3% và 18,7%.
Kết quả này của cúng tối thấp hơn so với
nghiên cứu của Asim Mumtaz(3) tiến hành
năm 2009 với 50 bệnh nhân (86%), Neto AF
năm 2002 với 118 bệnh nhân (86,4%), Mehrsai
năm 2006 với 64 bệnh nhân (87,5%) nhưng cao
hơn so với các nghiên cứu của tác giả Đặng
Thu Thanh(8) (78,1%), của Sylvia Rosas(12)
(82%), Yamasaki (60%).
Một trong các yếu tố có ảnh hưởng tới rối
loạn cương là stress và các tổn thương tâm lý,
điều này là một thực sự khó khăn ngay cả với
các bác sĩ chuyên khoa tâm thần đó là định
lượng, lượng giá các tổn thương này, chính vì
vậy khả năng so sánh giữa các tác giả thường ít
được sử dụng. Ở nghiên cứu này chúng tôi chưa
đề cập tới những rối loạn tâm lý của bệnh nhân
có liên quan tới suy thận mạn cũng như rối loạn
cương. Mặc dầu vậy khi tham khảo một số
nghiên cứu của thế giới như nghiên cứu của
Starowicz M, Gellert R(10) tại khoa tâm thận và
thần kinh Warsaw, Ba lan tiến hành năm 2008
trên 69 bệnh nhân nam và 43 bệnh nhân nữ thấy
có mối liên quan giữa bất lực về tình dục và trầm
cảm. Đây là một gợi ý với chúng tôi trong các
nghiên cứu tiếp nối sau, cần quan tâm tìm hiểu
ảnh hưởng của tác động do tổn thương tâm lý,
stress trên bệnh nhân nghiên cứu.
Để đánh giá tình trạng rối loạn cương ở bệnh
nhân suy thận mạn có thận nhân tạo chu kỳ
chúng tôi đã sử dụng bộ câu hỏi IIEF đánh giá
trên 5 lĩnh vực của rối loạn cương là khả năng
cương cứng, khả năng cực khoái, ham muốn tình
dục, thoả mãn trong giao hợp, thoả mãn nói. Kết
quả nghiên cứu cho thấy cả tổng điểm và điểm
trung bình từng lĩnh vực của nhóm nghiên cứu
đều thấp so với điểm chuẩn.
Tổng điểm chung của nhóm nghiên cứu là
38,7 ± 16,6, chỉ chiếm hơn 50% so với điểm chuẩn
của thang điểm IIEF. Khi so sánh với các nghiên
cứu khác chúng tôi nhận thấy điểm trung bình
của bệnh nhân trong nghiên cứu tương đồng với
kết quả của nghiên cứu do Ivan Seibel tiến hành
tại Brazil năm 2002 (38,33± 10,1) nhưng có kết
quả thấp hơn, ở nghiên cứu của tác giả Đặng
Thu Thanh(6) là 39,92 ± 20,61, nghiên cứu của Yu
– Sen Peng(13) là 49,1 ± 17,6
Đối tượng mắc rối loạn cương có xu hướng
tăng dần theo tuổi 72,72% ở nhóm 20 – 29 tuổi,
76% ở nhóm 30 – 39 tuổi, 84% ở nhóm 40 – 49
tuổi và từ trên 50 tuổi là 100%.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cao hơn
với các nghiên cứu đã tiến hành. Tại nghiên cứu
của Ali ME(1) và cộng sự tỷ lệ RLC trên bệnh
nhân TNT là 80% ở tuổi <50 và 88% ở nhóm trên
50 tuổi.
Theo Sylvia E Rosas(12) và cộng sự cho kết
quả nghiên cứu tỷ lệ RLC ở nhóm <50 tuổi là
61,2%, nhóm 50 – 59 là 76%, nhóm 60 – 69 là
90,8% còn nhóm tuổi ≥ 70 là 100%.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015
Chuyên Đề Thận – Niệu 172
Có mối tương quan nghịch khá chặt chẽ giữa
tuổi và RLC với r = -0,69 và p < 0,001 (IIEF = -
0,449 tuổi + 59,32)
Mối liên quan giữa RLCD và HATB
Theo tác giả R Kloner ở bệnh nhân THA có
khoảng 67 – 68% có các vấn đề liên quan tới RLC
ở các mức độ khác nhau. Nghiên cứu của
Michael Doumas và cộng sự tiến hành trên 358
bệnh nhân THA và 276 bệnh nhân có huyết áp
bình thường thấy tỷ lệ RLCD của bệnh nhân
THA là 35,2% cao hơn nhóm chứng 14,1% với
p<0,001. Các bệnh nhân có chỉ số huyết áp càng
cao tỷ lệ RLC càng lớn.
Tại nghiên cứu này đã tìm thấy mối tương
quan nghịch khá chặt chẽ giữa HATB và RLC
với r = -0,5 và p < 0,001 (IIEF = -0,298 HATB +
105,913).
Tại các nghiên cứu của Sylvia E Rosas(12),
nghiên cứu của Ming Wei và Asim Mumtaz cho
thấy có mối tương quan với RLC tuy nhiên tại
nghiên cứu này chúng tôi không tìm thấy các
mối tương quan giữa các yếu tố này với RLC.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy
bệnh nhân có nồng độ Testosterone thấp có tỷ lệ
RLC cao hơn. Mặt khác các bệnh nhân RLC nặng
có nồng độ testosterone rất thấp (dưới 5nmol/l)
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05).
Có mối tương quan thuận tương đối chặt chẽ
giữa nồng độ testosterone và RLC với r = 0,407
và p <0,001 (IIEF = 1,146 x nồng độ testosterone +
6,794).
Kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu
của Muhammad Anees và cộng sự ở nhóm RLC
có nồng độ testosterone trung bình 227 ± 20,47
ng/ml thấp hơn nhóm không RLC 305,71 ±
59,82ng/ml.
Điểm IIEF trong cả 5 lĩnh vực và điểm tổng
đều có mối tương quan thuận khá chặt chẽ với
p<0,001
Mối liên quan giữa RLCD, tuổi và nồng
độ testosterone
Có mối tương quan chặt chẽ khi nghiên cứu
mối tương quan đa biến giữa testosterone, tuổi
và RLC với r = 0,767 và p <0,001 (IIEF = 68,644 +
1,001 x nồng độ testosterone – 1,01 x tuổi).
KẾT LUẬN
Bệnh nhân suy thận mạn, thận nhân tạo chu
kỳ cần được quan tâm tư vấn, khám phát hiện
sớm và có các biện pháp điều trị RLCD thích
hợp, giúp bệnh nhân không phải chịu các tác
động tiêu cực đặc biệt là các tác động liên quan
tới tinh thần và xã hội.
Việc suy giảm nồng độ testosterone không
chỉ ảnh hưởng tới chức năng cương dương mà
còn có các tác động tới toàn thân và hệ thống đặc
biệt là việc tạo máu. Việc bổ sung hormone một
cách hợp lý, hiệu quả và an toàn sẽ đem lại nhiều
lợi ích cho người bệnh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ali ME, Abdel HHZ, Mahran AM et al (2005). erectile
dysfunction in chronic renal failure patients undergoing
hemodialysis in Egyp, Int J Impot Ré, 17(4), 390.
2. Ali RM, Mohammad YK, Omid RZ (2010). erectile
dysfunction among hemodialysispatients, International
Urology and Nephrology, 10, 73 – 84.
3. Albaaj F, Sivalingham M, Haynes P, et al (2006). Prevalence of
hypogonadism in male patients with renal failure,
Postgraduate Medical Journal, 82, 693 – 696.
4. Asim M, Muhammad A, Muhammad HB, et al (2009). Low
serum testosterone and Estradiol predict mortality in Elderly
men, The Journal of Clinical endocrinology & metabolis, 94
(7), 2482 – 2488.
5. Bellinghieri G, Santoro D, Mallamace A, et al (2008). Sexual
dysfunction in chronic renal failure, J Am Nephrol, 21 (13), 113
– 117.
6. Chun FL, Wang YT, Hung KY, et al (2007). Sexual dysfunction
in peritoneal dialysis patients, Am J Nephrol, 27(6), 615 – 621.
7. Cagüven Ö, Aykose G, Albayrak S et al (2010). Efficacy of
testosterone gel in the treatment of erectile dysfunction in
hypogonadal hemodialysis patients: a pilot study,
International Journal of impotence research 22, 140 – 145.
8. Đặng Thu Thanh (2010). Nghiên cứu sự biến đổi nồng độ
Testosterone máu và rối loạn cương dương ở bệnh nhân nam
30 – 50 tuổi suy thận mạn tính lọc máu chu kỳ.
9. Juan JC, Abdul RQ, Paolo P, et al (2009). Low serum
testosterone increases mortality risk among male dialysis
patients, J Am Nephrol 20, 613 – 620.
10. Lew starowicz M, Gellert R (2008). The sexuality and quality
of life of hemodialyzed Patients - ASED multicenter, J Sex
Med, 17.
11. Ozkan G., Fatih K., et al (2010). Endogenous testosterone and
mortality in male hemodialysis patients: Is it the resuls of
aging? Clin J Am Soc Nephrol, 5, 1 – 6.
12. Rosas SE, Joffe M, Franklin E, Strom BL, Kotzker W,
Brensinger C, Grossman E, Glasser D, Feldman HI. (2001).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận – Niệu 173
Prevalence and determinants of erectile dysfunction in
hemodialysis patients, Kidney International, 59, 2259 – 2266.
13. Yu SP, Chih KC, Kung YH, et al (2007). The association of
higher depresssive symptoms and sexual dysfunction in male
hemodialysis patients, Nephrology Dialysis Transplantation
22 (3), 857 – 861.
Ngày nhận bài báo: 10/05/2015
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 01/06/2015
Ngày bài báo được đăng: 05/08/2015
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_gia_tinh_trangroi_loan_cuong_va_mot_so_yeu_to_lien_quan.pdf