Kết quả đánh giá định tính và định lượng tiềm
năng phát triển du lịch sinh thái huyện A Lưới cho
thấy, miền núi A Lưới có nhiều lợi thế và tiềm
năng để phát triển mạnh mẽ DLSTCĐ trong tương
lai gần như địa hình đa dạng, đã tạo ra nhiều thắng
cảnh tự nhiên đẹp như thác nước, hồ đầm, sông
suối uốn lượn, cộng thêm các khu rừng nguyên
sinh, các khu bảo tồn thiên nhiên, với hệ sinh thái279
động thực vật phong phú, đa dạng. Ngoài ra, nơi
đây còn có những nét văn hóa độc đáo của cộng
đồng các dân tộc thiểu số, các chứng tích chiến
trường xưa,. cùng với các yếu tố phụ trợ như giao
thông vận tải, thông tin liên lạc, các dịch vụ lưu
trú, ẩm thực đang được đầu tư. Vì vậy, huyện A
Lưới có tiềm năng phát triển tốt các loại hình du
lịch khác nhau như: du lịch sinh thái, du lịch ẩm
thực, du lịch làng nghề, du lịch lễ hội, du lịch thăm
chiến trường xưa, đặc biệt là du lịch sinh thái
cộng đồng.
Kết quả đánh giá định lượng tiềm năng DLSTCĐ
của các điểm du lịch dựa vào thang điểm đánh giá
tổng hợp cho thấy, huyện A Lưới có tiềm năng rất lớn
trong việc phát triển loại hình DLSTCĐ, đã xác định
được 3 điểm du lịch có tiềm năng rất lớn và 8 điểm có
tiềm năng để phát triển DLSTCĐ. Các kết quả đánh
giá bước đầu này sẽ góp phần giúp các cấp chính
quyền huyện A Lưới xây dựng quy hoạch chi tiết phát
triển DLSTCĐ nói riêng và xây dựng định hướng,
chiến lược phát triển du lịch A Lưới nói chung.
10 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 562 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá tổng hợp tiềm năng du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng huyện A Lưới, tỉnh thừa Thiên Huế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
271
36(3), 271-280 Tạp chí CÁC KHOA HỌC VỀ TRÁI ĐẤT 9-2014
ĐÁNH GIÁ TỔNG HỢP TIỀM NĂNG DU LỊCH
SINH THÁI DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG
HUYỆN A LƯỚI, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
TÔN THẤT HỮU ĐẠT
Email: huudat96@gmail.com
Viện Tài nguyên Môi trường và Phát triển bền vững tại Tp. Huế,
Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
Ngày nhận bài: 19 - 9 - 2013
1. Mở đầu
Du lịch sinh thái (Ecotourism) là một trong
những loại hình du lịch được xem là bền vững và
có xu hướng phát triển nhanh hơn so với các loại
hình du lịch truyền thống. Loại hình du lịch này đã
được đề cập rất nhiều trong các bài báo khoa học
từ những năm 1990. Tuy nhiên, trong thực tế, các
nguyên tắc của du lịch sinh thái vẫn chưa được đáp
ứng đầy đủ. Nhiều quốc gia đã phát triển du lịch
sinh thái với nhiều thiếu sót, và dường như còn rất
xa vời so với mục tiêu mà du lịch sinh thái hướng
đến [3], đồng thời thiếu sự tham gia của cộng đồng
địa phương [3, 17]. Với quan điểm nhấn mạnh vai
trò quan trọng của cộng đồng địa phương trong
phát triển du lịch bền vững, các nhà khoa học đã
đưa ra thuật ngữ “du lịch sinh thái dựa vào cộng
đồng (Community-base Ecotourism: DLSTCĐ)”
và làm rõ sự khác biệt giữa loại hình du lịch này
với các loại hình du lịch sinh thái dựa vào thiên
nhiên khác. Du lịch sinh thái và du lịch sinh thái
dựa vào cộng đồng đều bao hàm đến khía cạnh lợi
ích cộng đồng, tuy nhiên, du lịch sinh thái không
thể hiện rõ được vai trò của cộng đồng như du lịch
sinh thái dựa vào cộng đồng. Sự tham gia của cộng
đồng trong du lịch sinh thái ở mức khá khiêm tốn,
mang tính thụ động và phần lớn do các doanh
nghiệp du lịch bên ngoài cộng đồng sở hữu, vì vậy
lợi ích được chia sẻ với cộng đồng không đáng kể.
Trong khi đó thuật ngữ DLSTCĐ ngụ ý vượt ra
ngoài các hạn chế trên để cộng đồng có thể tham
gia tích cực hơn, chủ động hơn. Ít nhất phải có một
số thành viên của cộng đồng tham gia vào các hoạt
động kinh tế liên quan đến du lịch, một phần hoặc
toàn bộ các doanh nghiệp du lịch phải được cộng
đồng sở hữu và quản lý [1, 8]. Đây là một trong
những yếu tố để phân biệt DLSTCĐ và các loại
hình du lịch sinh thái khác.
A Lưới là một huyện miền núi ở phía tây tỉnh
Thừa Thiên Huế, nằm dọc theo dãy Trường Sơn,
với tính đặc thù cao về mặt tự nhiên cũng như
mang đậm dấu ấn lịch sử chống giặc ngoại xâm
của đất nước [14] là một điểm lý tưởng để phát
triển loại hình du lịch sinh thái. Mặt khác, người
dân ở đây là người dân tộc thiểu số (>85%) với
nhiều dân tộc khác nhau (Pa Kô, Cơ Tu, Tà Ôi,),
có nhiều nét văn hóa truyền thống đặc (lễ hội, làng
nghề truyền thống,), sẽ rất thuận lợi cho việc
phát triển du lịch dựa vào cộng đồng [13].
Cuộc sống của người dân bản địa còn gặp nhiều
khó khăn và chủ yếu dựa vào việc khai thác tài
nguyên ở địa phương. Vì vậy, để tăng tính bền vững,
cũng như tăng hiệu quả và tuổi thọ của các dự án du
lịch ở A Lưới, cần thiết phải có sự tham gia của
cộng đồng và góp phần vào việc cải thiện cuộc sống
cộng đồng. Tuy nhiên, trong thời gian qua,
DLSTCĐ trên địa bàn huyện vẫn còn rất hạn chế và
thiếu quy hoạch dẫn đến hoạt động du lịch ở đây
không hiệu quả và thiếu sự tham gia của cộng đồng.
Xuất phát từ thực tiễn của địa phương, Tác giả bài
báo đã tiến hành đánh giá tổng hợp tiềm năng
DLSTCĐ, nhằm phục vụ cho việc quy hoạch chi tiết
các điểm du lịch và xây dựng các giải pháp phát
triển du lịch bền vững.
272
2. Tiềm năng du lịch của huyện A Lưới
2.1. Tiềm năng du lịch tự nhiên
Tiềm năng du lịch tự nhiên của huyện A Lưới
được xác định bởi sự đa dạng, phong phú của tự
nhiên lãnh thổ, trong đó nỗi bật là hệ sinh thái rừng
đa dạng với nhiều cánh rừng nguyên sinh, khu bảo
tồn thiên nhiên, Kèm theo đó là các phong cảnh
gắn với địa hình và các phong cảnh gắn với thủy
văn như các dòng thác, các con suối mát và các
điểm nước khoáng nóng tự nhiên,...
2.1.1. Hệ sinh thái rừng
Với độ cao trung bình 700m so với mực nước
biển, đồng thời nằm trong vành đai khí hậu nhiệt
đới gió mùa nên A Lưới có khí hậu ôn hòa, thuận
lợi cho phát triển du lịch. Địa hình đa dạng với các
đỉnh núi cao trên 1000m như Co A Nong (1.228m),
Động Tiên Công (1.091m), Động Ngại (1.774m),
Động Re Lao (1.487m), Ha Te (1.084m),bao
quanh thung lũng A Lưới, tạo nên sự phát triển cho
các khu rừng tự nhiên trên các vùng đồi núi [14].
Hiện nay, diện tích rừng của huyện A Lưới là
99324,36 ha, chiếm 81% diện tích tự nhiên của
toàn huyện, trong đó diện tích rừng tự nhiên chiếm
đến 85% [12].
Huyện A Lưới có hai kiểu rừng chính: rừng kín
thường xanh mưa mùa á nhiệt đới phân bố ở độ cao
trên 800m và rừng kín thường xanh mưa mùa nhiệt
đới ở độ cao dưới 800m [14]. Rừng tự nhiên chiếm
chủ yếu với nhiều cánh rừng nguyên sinh như rừng
nguyên sinh A Roàng, rừng nguyên sinh Hồng Hạ
và các cánh rừng nguyên sinh chạy dọc theo đường
mòn Hồ Chí Minh.
Với đặc điểm khí hậu mang tính chất chuyển
tiếp giữa hai miền nam - bắc nên tổ thành loài thực
vật ở đây rất phong phú. Khu vực này là nơi giao
lưu giữa hai luồng thực vật từ phía Bắc xuống và
từ phía Nam lên. Luồng thực vật phía Bắc xuống
bao gồm những loài thuộc các họ đậu
(Leguminosae), họ Dẻ (Fagaceae), họ Re
(Lauraceae), họ Trâm (Melaleucadendre), và
luồng thực vật từ phía Nam lên phần lớn là những
loài thuộc họ dầu (Dipterocarpaceae) như: Kiền
kiền, Chò đen, Dầu đọt tím phân bố ở độ cao 200 -
800m [14].
Với yếu tố địa hình phức tạp và thảm thực vật
tự nhiên còn phát triển khá tốt nên trong vùng có
nhiều động vật hoang dã sinh sống như nai, gấu,
lợn rừng, thỏ, tê tê, sóc, sao la, góp phần tạo nên
sự hấp dẫn lớn đối với du khách.
2.1.2. Các phong cảnh tự nhiên gắn liền với
địa hình
Vùng núi A Lưới thuộc sườn phía tây dãy
Trường Sơn Bắc, cao từ 600-750m đến 1.600-
1.700m, với địa hình đa dạng, có sự phân hóa phức
tạp với nhiều kiểu địa hình khác nhau, và thấp dần
từ tây bắc xuống đông nam [14]. Sự đa dạng của
địa hình đã tạo nên nhiều phong cảnh đẹp. Huyện
A Lưới có khá nhiều hang động đẹp và nổi tiếng
trong các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm
của đất nước ta như: động Ngại (1.774m), động A
So (1.528m), động A Nô (1.485m), động A Sáp
(1.403m), động Cô A Nong (1.221m), động Xo
Xan (1.224m), động Tiên Công (1.091m), động A
Túc (1.128m), có tiềm năng rất lớn trong việc
phát triển loại hình du lịch leo núi, du lịch mạo
hiểm. Bên cạnh các đỉnh núi cao, vùng núi A Lưới
còn có các thung lũng hẹp, sâu đến 600-700m.
Càng đi về phía tây nam, địa hình càng bị chia cắt
mạnh tạo nên các thung lũng hẹp, bờ dốc, nhiều
thác ghềnh và đá tảng, tạo thành những cảnh quan
tự nhiên độc đáo, hấp dẫn du khách.
2.1.3. Các phong cảnh tự nhiên gắn liền với
thủy văn
Vùng núi huyện A Lưới có mạng lưới sông suối
khá dày đặc, bắt nguồn từ vùng núi cao, độ dốc
bình quân lưu vực đạt 28-30m/km, hệ số uốn khúc
khoảng 1,5-1,8. Sông suối ở đây có đặc điểm là
ngắn, dốc, lắm thác ghềnh, lòng sông hẹp. Ngoài
các sông chính như sông Bồ, sông Hữu Trạch, sông
Rào nhỏ, trên địa bàn huyện còn có nhiều khe lạch,
nhánh phụ lưu sông như: sông Xanh, A Sáp, A Lin,
Cà Xình, Rào Lô, là nguồn cung cấp nước chủ
yếu cho hoạt động dân sinh, du lịch và các ngành
kinh tế khác [14].
Với địa hình có nhiều dãy núi cao, rừng chiếm
tỷ lệ lớn và hệ thống sông suối dày đặc, ngắn và
dốc đã tạo cho vùng núi A Lưới nhiều thác ghềnh
đẹp, thu hút khách du lịch như thác A Nor, thác
Pồng Chất, các khe suối tự nhiên, các suối nước
khoáng như suối nước nóng A Roàng, suối nước
nóng Pa Hy, Trong đó, Thác A Nor và suối nước
nóng A Roàng là hai điểm du lịch sinh thái được
đánh giá là có tiềm năng rất lớn và đã thu hút một
lượng lớn du khách trong và ngoài nước đến tham
quan trong những năm qua.
273
2.2. Tiềm năng du lịch nhân văn
Bên cạnh sự đa dạng và phong phú của nguồn
tài nguyên du lịch tự nhiên, tài nguyên du lịch nhân
văn (văn hóa bản địa) ở miền núi A Lưới cũng rất
đa dạng và giàu bản sắc dân tộc. Là một huyện có
tới 85% dân số là người dân tộc thiểu số, là nơi
giao lưu của hai nền văn minh Đông Sơn và Sa
Huỳnh, đồng thời cũng là nơi để lại nhiều dấu ấn
và di tích cách mạng trong hai cuộc chiến tranh giữ
nước vĩ đại của dân tộc. Vì vậy, vùng núi A Lưới
được đánh giá là mang nhiều nét văn hóa đặc sắc
và riêng biệt.
2.2.1. Di tích lịch sử - văn hóa - cách mạng
Huyện A Lưới là một vùng đất nổi tiếng của
chiến trường Trị - Thiên trong hai cuộc kháng
chiến trường kỳ của dân tộc Việt Nam. A Lưới
từng là căn cứ địa cách mạng của tỉnh và cả nước,
nên huyện có rất nhiều điểm di tích lịch sử - văn
hóa - cách mạng với 11 địa đạo, 4 hang động, 4 sân
bay quân sự cũ và 11 di tích lịch sử khác trên
đường mòn Hồ Chí Minh [14]. Trong đó có 11 di
tích được công nhận là di tích cấp quốc gia và 1 di
tích cấp tỉnh. Các di tích nổi bật và đã thu hút được
các du khách đến tham quan gồm: địa đạo Động So
- A Túc, Động Tiên Công, sân bay A So, đồi A
Bia, dốc Mèo, Các điểm di tích này đã thu hút
một lượng du khách đến tham quan trong thời
gian qua, đặc biệt là cựu chiến binh trong và
ngoài nước.
Lễ hội truyền thống: A Lưới là địa bàn sinh sống
của nhiều dân tộc thiểu số: Pa Kô, Cơ Tu, Tà Ôi,
với hơn 85% tổng dân số của toàn huyện, vì vậy, các
lễ hội truyền thống của các dân tộc nơi đây được
xem là một nét văn hóa đặc sắc, hấp dẫn được thị
hiếu của các du khách, đặc biệt là du khách phương
Tây. Các lễ hội chính và nổi bật của các dân tộc
vùng núi A Lưới bao gồm: Lễ hội Đâm trâu của
người Pakô, Lễ hội Cầu mùa Azakoonh của người
Tà Ôi, Lễ hội lúa mới (tết cơm mới hay Aza), Lễ hội
cải táng và phong thần Ariêu ping [10],
Các sản phẩm thủ công truyền thống: A Lưới là
cái nôi của nhiều làng nghề truyền thống của người
dân tộc thiểu số như dệt Zèng, nghề đan lát, mây
tre, rượu đoác, Tuy nhiên, các làng nghề này
đang dần bị mai một và có nguy cơ biến mất nếu
không được giữ gìn và phát huy. Hiện nay, A Lưới
vẫn còn một số làng nghề như làng nghề dệt Dzèng
xã A Roàng; làng nghề rèn xã A Đớt, Hồng Vân,
Hồng Thượng; làng nghề chổi đót xã Hồng Thái,
A Ngo; làng nghề mây tre đan xã Hồng Thái, A
Ngo; làng nghề rượu đoác xã A Roàng, A Đớt; các
làng nghề đan lát, đồ dùng cá nhân, ngư cụ, nông
cụ, nhạc cụ, khí cụ, Các sản phẩm này rất được
du khách yêu thích.
Các tài nguyên du lịch nhân văn khác
- Cấu trúc nhà ở truyền thống: mỗi dân tộc ở
nơi đây đều có nhà truyền thống với những nét
biểu trưng riêng của dân tộc họ. Cấu trúc các ngôi
nhà được thiết kế nghệ thuật và chạm khắc công
phu, trang trí tài tình, khéo léo và mang đậm bản
sắc dân tộc, chẳng hạn như nhà Sàn của cộng đồng
các dân tộc, nhà Dài, nhà Moong của người Pa Kô,
nhà Rông của người Tà Ôi, nhà Gươi của người Cơ
Tu,... Các du khách tham quan rất yêu thích được
sinh hoạt trong các ngôi nhà truyền thống này.
- Làn điệu dân ca: nền văn hóa mang những nét
đặc sắc riêng của từng dân tộc nơi đây đã tạo nên
sự đa dạng và phong phú về mặt tinh thần cho cộng
đồng các dân tộc. Văn hóa A Lưới mang đậm nét
của các làn điệu dân ca nổi tiếng như: Cha Chấp,
Kaarr Lơi (Ka Lơi), Târ A (dân ca PaKô), Ba Boih
(dân ca Pa Kô, Cơ Tu), Ru con (Pa Kô, Cơ Tu, Ta
Ôi, Pa Hy), A Roi (Pa Kô, Ta Ôi), cũng như các
điệu múa dân tộc truyền thống: múa Da Zã (Cơ Tu,
Tà Ôi), múa A Za - Pa Kô, múa Cầu mùa - Tà Ôi,...
Đi cùng với các làn điệu dân ca và điệu múa là các
nhạc cụ dân tộc rất phong phú như trống, cồng,
chiêng, đàn ân toong, sáo, tù và khèn, Ngoài ra,
các dân tộc ở đây còn có một kho truyện cổ tích thể
hiện sự mật thiết của chế độ xã hội với tập quán
nghi lễ, trình độ sản xuất, sử dụng công cụ, vũ khí
đấu tranh, khả năng sáng tạo của họ, như truyện
Piêr chooh của dân tộc Pa Kô, truyện nàng A đủ
Trun của dân tộc Cơ Tu,
- Văn hóa ẩm thực: do hệ nguyên liệu phong
phú của vùng rừng núi mang lại nên các món ăn
của các tộc người thiểu số ở A Lưới thường rất đa
dạng, phục vụ nhiều mục đích khác nhau. Các món
ăn đặc sản và đặc trưng của các dân tộc gồm: các
món ăn được chế biến từ ngũ cốc như xôi thui ống,
cơm ống/lam (adeep ihoor), bánh Aquat và
Adeep man (Pa Kô, Tà Ôi); các món ăn chế biến từ
cá như cá gói lá rừng vùi tro, cá nướng, lạp cá, gỏi
cá, cá nướng ống, mắm cá (pa đẹec buỏi), các loại
côn trùng nhuyễn thể (ếch, nhái, con sùng (ha vưr),
mối (cláp), con dế (Anút), kiến chua (Aling ca
xâu), kiến thơm (Alinh ca do), kiến đỏ (Kasâu),
nhộng ong (Càroi Acon Ghi zớ),...); các món chế
biến từ thịt như: thịt nướng tươi, nướng khô, nướng
trực tiếp, nướng bằng ống tre, xào, lạp thịt, thịt heo
muối chua; các món ăn từ thực vật như các loại
274
măng rừng (A Băng) như măng lồ ô (Abăng hơm),
măng tre (Abăng cơrơđe). Các loại nấm như nấm
gỗ (Trika), nấm chuối (Tri Ariết), nấm nón
(Amool), nấm tai trắng (Tri Ú), nấm mèo (Tri
Tơơr),...; các loại củ như Abit (củ mài), Vơving (củ
môn rừng), Atrâu, Aon (củ chuối), gốc chuối rừng
(A riết),...; các loại rau dại như rau dại ven suối (A
Rui), rau dớn (A dong), rau má (Cờ bá). Các loại
quả như: hạt cây Đang, Ga Ươl (quả ươi), trái Bríu,
khế rừng (xơ nia), dâu đất (Mơrlong), quả Pơ rang,
Chaol, Mơ Xiêng, quả Ra đhiu/đhê, vỏ trái Bây,
hạt cây Chơ vọc, quả Maracăng, Kaziza mọc bờ
sông, vị ngọt của thân cây A Đung, Ta nông, vị
chua của hạt Cỏ coi, hạt Chơ đhang ađhí, xoài rừng
(Chơ rum), vỏ trái Trơ lúi, chùm quả A Pơớch chín
đỏ, hạt Ta tác, quả cóc rừng (Apíc); các loại
rượu của người Tà Ôi, Cơ Tu và Pa Kô rất đa dạng
như Ariêu Tà vạc, Ariêu Par đin, Bhua/a riêu thăn
(rượu sắn), Avíeet (rượu mía), Adương (rượu
mây), Ariêu Chĩa (rượu dứa) và cả Alắc, Axiêu,...
Có thể nói, cùng với những cảnh quan tự nhiên
giàu tính đa dạng và mang những nét riêng của
vùng đồi núi, thì nền văn hóa đa dạng và đậm đà
bản sắc dân tộc của A Lưới là một trong những
nhân tố quan trọng thu hút du khách đến tham quan
ở vùng đất này.
Tóm lại, huyện A Lưới có nhiều cảnh quan tự
nhiên hấp dẫn được thiên nhiên ban tặng và là vùng
đất có nền văn hóa cộng đồng độc đáo, mang đậm
màu sắc của các dân tộc anh em, đồng thời là nơi
giao lưu của hai nền văn minh Đông Sơn và Sa
Huỳnh. Các nhân tố này hứa hẹn sẽ góp phần quan
trọng để phát triển mạnh mẽ loại hình du lịch bền
vững này trong tương lai. Bên cạnh đó, nơi đây còn
lưu giữ lại nhiều dấu ấn lịch sử và di tích cách mạng
trong hai cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của dân
tộc, sẽ hỗ trợ rất lớn trong quá trình phát triển
DLSTCĐ nói riêng và du lịch A Lưới nói chung, tạo
nên sự đa dạng và phong phú về loại hình du lịch, đa
dạng về tuyến, điểm du lịch. Với vị trí và tiềm năng
to lớn về du lịch như vậy, A Lưới đã được UBND
tỉnh Thừa Thiên - Huế xác định là “vùng tam giác”
phát triển du lịch của tỉnh và được sự hỗ trợ về tài
chính và kỹ thuật của Dự án Phát triển Du lịch Bền
vững Tiểu vùng sông Mê Kông để phát triển du lịch
cộng đồng.
2.3. Đánh giá tổng hợp tiềm năng du lịch sinh
thái dựa vào cộng đồng huyện A Lưới
2.3.1. Các điểm du lịch được lựa chọn đánh giá
tiềm năng du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng
Chúng tôi đánh giá tiềm năng DLSTCĐ của
hầu hết các điểm du lịch sinh thái trên địa bàn
huyện A Lưới. Các điểm du lịch được đánh giá
tiềm năng DLSTCĐ được mô tả trong bản đồ
(hình 1).
Thác A Nor: nằm ở xã Hồng Kim, cách trung
tâm thị trấn A Lưới 3 km về phía bắc. Khu vực
hoạt động du lịch ở thác có diện tích 10ha. Thác A
Nor có độ cao khoảng 120m, đổ xuống tạo ra 3
dòng thác liên hoàn (8m, 60m, 120m). Dưới cùng
là một hồ nước khá rộng, nước trong vắt, mát lạnh.
Thác nằm giữa những cánh rừng nguyên sinh với
mây mù bao phủ quanh năm tạo nên cảnh sắc tuyệt
đẹp và hùng vĩ. Cách thác hơn 1km trên đường vào
thác có làng Việt Tiến của cộng đồng người bản
địa. Tại đây du khách có thể ngủ trong các nhà sàn
và thưởng thức những món ẩm thực đặc sản của
cộng đồng bản địa.
Thác Pông Chất: thuộc địa phận xã A Roàng,
cách thị trấn A Lưới khoảng 34 km. Tuy quy mô
và vẻ đẹp không bằng thác A Nor nhưng thác Pông
Chất có ý nghĩa thiết thực, làm phong phú thêm
sản phẩm du lịch cho cụm A Roàng, nơi đồng thời
có cả suối nước khoáng nóng, rừng nguyên sinh và
làng văn hóa A Ka điển hình.
Nước khoáng nóng A Roàng: thuộc địa phận xã
A Roàng, cách thị trấn A Lưới 25km về phía Nam.
Suối nằm gần quốc lộ 14 rất thuận tiện cho việc đi
lại, có diện tích khoảng 10 ha. Đây là mạch nước
ngầm lộ thiên có nhiệt độ trung bình từ 60-700C,
chứa nhiều khoáng chất chữa được một số bệnh, rất
có lợi cho sức khỏe. Rất thích hợp với loại hình du
lịch nghỉ dưỡng và chữa bệnh. Điểm suối khoáng
được bao bọc xung quanh bởi rừng núi trùng điệp
nơi có khu rừng nguyên sinh và khu bảo tồn Sao
La và làng văn hóa A Ka. Đồng thời hai làng văn
hóa Chi Lanh và Ka Vin thuộc xã kế bên cũng có
thế hỗ trợ cho hoạt động du lịch ở đây.
Suối nước nóng Pa Hy: thuộc địa phận xã Hồng
Hạ, cách thị trấn A Lưới khoảng 19km. Nằm trên
con đường giao thông từ Huế lên A Lưới. Suối
nước nóng Hồng Hạ là một giếng nhỏ đường kính
1m, nhiệt độ 25-30°C. Đây là một điểm du lịch
tiềm năng nhưng vẫn chưa được khai thác nhiều.
Hồ Lâm Ly (Hồ A Co): thuộc xã Phú Vinh, cách
thị trấn A Lưới 6km về phía nam, cạnh quốc lộ 14.
Diện tích hồ khoảng 0,5 ha nằm bên cạnh rừng
thông bạt ngàn, không khí trong lành, tạo cảm giác
thích thú cho du khách. Thiên nhiên hài hoà với sự
kết hợp của mặt nước - rừng cây - bầu trời. Ở đây
rất thích hợp với các dịch vụ câu cá, bơi thuyền,
cắm trại, các buổi dã ngoại cuối tuần.
275
Hình 1. Bản đồ tài nguyên du lịch huyện A Lưới [Viện Tài nguyên Môi trường và PTBV tại TP.Huế]
Khu bảo tồn, rừng nguyên sinh A Roàng -
Hương Nguyên: thuộc địa phận hai xã A Roàng và
Hương Nguyên, cách thị trấn A Lưới khoảng 29
km. Là một khu rừng già nguyên sinh có diện tích
3000ha, với nhiều hệ động, thực vật phong phú và
đa dạng. Rừng nguyên sinh A Roàng có nhiều loại
cây gỗ quý hiếm như: gội, chò nước, lim xanh, chò
đen, sến mật, cà ổi, thông nàng,... và nhiều loài
động vật quý hiếm nằm trong sách đỏ Việt Nam
như: mang lớn, mang Trường Sơn, sao la, hổ, vượn
và các loài linh trưởng. Khu rừng nguyên sinh kéo
dài từ A Lưới đến tận Quảng Nam với nhiều thác
cao, vực sâu rất hấp dẫn đối với loại hình DLST và
dành cho ai thích phiêu lưu, mạo hiểm, ưa cảm
giác mạnh.
Rừng Hương Phong: rừng Hương Phong rộng
khoảng 2100 ha, thuộc địa phận xã Hương Phong,
cách thị trấn A Lưới khoảng 21km, trong đó có
8km đường mòn đi từ đường Hồ Chí Minh vào
đến rừng;
Rừng Hồng Hạ: rừng Hồng Hạ rộng 2400 ha,
thuộc địa phận xã Hồng Hạ, cách thị trấn A Lưới
22km, trong đó có 3km đường mòn đi từ đường 49
vào đến rừng;
Rừng Hồng Trung: rừng Hồng Trung rộng
2150 ha, thuộc địa phận xã Hồng Trung, cách thị
trấn A Lưới 14km, trong đó có 7km đường mòn đi
từ đường Hồ Chí Minh vào đến rừng;
Rừng Hồng Thượng: rừng Hồng Thượng rộng
khoảng 450 ha, thuộc địa phận xã Hồng Thượng,
cách thị trấn A Lưới khoảng 15km, trong đó có
2km đường mòn đi từ đường Hồ Chí Minh vào
đến rừng.
Mặc dù các khu rừng này không đẹp và đa dạng
bằng Vườn quốc gia Bạch Mã, nhưng độ đa dạng
sinh học của các khu rừng này cũng tương đối cao,
sinh khối lớn và có nhiều loài động thực vật
quý hiếm.
276
Đèo Pê Ke: cách thị trấn A Lưới khoảng 19km
về phía bắc theo tuyến đường Hồ Chí Minh, đi qua
địa phận hai xã Hồng Vân, Hồng Thủy, đồng thời
giao cắt với đường đi đến cửa khẩu Hồng Vân - Cu
Tai và đường đi ra huyện Đắkrông tỉnh Quảng Trị.
Đèo dài 800m, có độ dốc 10%, nằm ở nơi chuyển
tiếp giữa Trường Sơn Tây với khu bảo tồn thiên
nhiên Phong Điền nên khu vực đèo có hệ động,
thực vật phong phú với mây trắng và sương mù.
2.3.2. Chọn tiêu chí đánh giá và hệ số của các tiêu chí
Các điểm du lịch ở huyện A Lưới được đánh
giá định lượng dựa trên phương pháp thang điểm
tổng hợp có trọng số của Viện Nghiên cứu phát
triển du lịch Việt Nam. Các tiêu chí được được lựa
chọn để đánh giá dựa vào thang điểm tổng hợp
được xây dựng bởi Viện Nghiên cứu phát triển du
lịch Việt Nam và các điều kiện tiên quyết phát triển
DLSTCĐ được xây dựng bởi Quỹ quốc tế bảo vệ
thiên nhiên [4, 9, 17]. Tuy nhiên, mục tiêu chính là
đánh giá tiềm năng đối với các điểm du lịch sinh
thái dựa vào cộng đồng nên tác giả đã đưa thêm
một số tiêu chí quan trọng như: mức độ hấp dẫn về
văn hóa cộng đồng, mức độ bền vững về văn hóa
cộng đồng; đồng thời bỏ đi một số một số tiêu chí
hướng đến hiệu quả khai thác như: cơ sở hạ tầng -
cơ sở kỹ thuật du lịch, hiệu quả kinh tế. Các trọng
số của các tiêu chí được thừa kế từ nghiên cứu của
Viện Nghiên cứu Phát triển du lịch, riêng tiêu chí
mức độ bền vững về tự nhiên được nâng thành hệ
số 2 (thay vì hệ số 1) vì bảo tồn tự nhiên là một
trong những tiêu chí rất được chú trọng trong
DLSTCĐ. Các tiêu chí và hệ số của các tiêu chí
được lựa chọn đánh giá được mô tả ở bảng 1.
Bảng 1. Các tiêu chí đánh giá tiềm năng DLSTCĐ
STT Tiêu chí đánh giá Hệ số
1 Độ hấp dẫn về cảnh quan 3
2 Mức độ hấp dẫn về văn hóa cộng đồng 3
3 Thời gian hoạt động du lịch 3
4 Sức chứa khách du lịch 2
5 Vị trí điểm du lịch 2
6 Tính liên kết 2
7 Khả năng tiếp cận điểm du lịch 2
8 Độ bền vững về tự nhiên 2
9 Mức độ bền vững về văn hóa cộng đồng 2
10 Mức độ an toàn về mặt xã hội 2
2.3.3. Chọn chỉ tiêu cho các cấp đánh giá
Có 4 cấp đánh giá ở mỗi tiêu chí, tương ứng với
các mức độ tốt, khá, trung bình và kém về tiềm năng
của các điểm du lịch (bảng 2). Việc xây dựng và lựa
chọn các chỉ tiêu của các cấp độ này dựa vào nghiên
cứu của Bùi Thị Hải Yến (2010) [2] và điều kiện
thực tế của khu vực nghiên cứu.
Bảng 2. Các chỉ tiêu của từng cấp đánh giá tiềm năng DLSTCĐ
STT Tiêu chí Cấp Chỉ tiêu
1 Độ hấp dẫn về cảnh quan
Rất hấp dẫn Phong cảnh đẹp, tự nhiên có độ đa dạng cao
Khá hấp dẫn Phong cảnh đẹp, tự nhiên có độ đa dạng tương đối
Trung bình Phong cảnh tương đối đẹp, tính đa dạng của tự nhiên không cao
Kém hấp dẫn Phong cảnh đơn điệu, tự nhiên kém đa dạng
2 Độ hấp dẫn về văn hóa
cộng đồng
Rất hấp dẫn Có cộng đồng bản địa, làng nghề truyền thống trong bán kính 5 km
Khá hấp dẫn Có cộng đồng bản địa và làng nghề truyền thống sinh sống
Trung bình Có cộng đồng bản địa trong bán kính 5 km, không có làng nghề truyền thống
Kém hấp dẫn Cộng đồng bản địa sinh sống ngoài bán kính 5 km
3 Thời gian hoạt động du lịch
Rất dài Có > 200 ngày trong năm có thể triển khai tốt hoạt động du lịch, có > 180
ngày có điều kiện khí hậu thích hợp đối với sức khỏe con người.
Khá dài Có 150 - 200 ngày trong năm có thể triển khai tốt hoạt động du lịch, có 120
- 180 ngày có điều kiện khí hậu thích hợp đối với sức khỏe con người.
Trung bình Có 100 - 150 ngày trong năm có thể triển khai tốt hoạt động du lịch, có 90 -119 ngày có điều kiện khí hậu thích hợp đối với sức khỏe con người.
Ngắn Có dưới 100 ngày trong năm có thể triển khai tốt hoạt động du lịch, có dưới 90 ngày có điều kiện khí hậu thích hợp đối với sức khỏe con người.
4 Sức chứa khách du lịch
Rất lớn > 300 người/ngày
Khá lớn > 200 - 300 người/ngày
Trung bình > 100 - 200 người/ngày
Nhỏ ≤ 100 người/ngày
5 Vị trí điểm du lịch
Rất gần Cách trung tâm thị trấn < 10 km
Khá gần Cách trung tâm thị trấn 10 - 20 km
Trung bình Cách trung tâm thị trấn 20 - 30 km
Xa Cách trung tâm thị trấn > 30 km
6 Tính liên kết
Rất tốt Có trên 3 điểm tài nguyên du lịch khác trong bán kính 10 km
Khá tốt Có 2-3 điểm tài nguyên du lịch khác trong bán kính 10 km
Trung bình Có 1 điểm tài nguyên du lịch khác trong bán kính 10 km
Kém Không có điểm tài nguyên du lịch khác trong bán kính 10 km
277
7 Khả năng tiếp cận với điểm du lịch
Dễ tiếp cận Có đường đi thuận tiện, dễ tìm đường, dễ dàng tiếp cận với điểm du lịch
Khá dễ tiếp cận Có đường đi khá thuận tiện, tìm đường tương đối
Trung bình Có đường đi khá thuận tiện, việc tìm đường đôi lúc dễ lạc, cần người
chỉ dẫn
Khó tiếp cận Chưa có đường đi thuận tiện, tìm đường khó khăn
8 Mức độ bền vững về tự
nhiên
Rất bền vững Trong 5 năm gần đây không có thành phần hoặc bộ phận tự nhiên nào bịtổn hại, hoặc tổn hại không đáng kể
Khá bền vững Trong 5 năm gần đây có 1 thành phần hay bộ phận tự nhiên bị tổn hại
nhưng ở mức độ nhẹ, có thể tự phục hồi
Trung bình Trong 5 năm gần đây có vài thành phần hoặc bộ phận tự nhiên bị tổn hại, và có thể phục hồi nhờ con người
Kém bền vững Trong 5 năm gần đây có thành phần hoặc bộ phận bị tổn hại, khó phục hồi và mất thời gian dài để phục hồi
9 Mức độ bền vững về văn hóa cộng đồng
Rất bền vững Nền văn hóa được cộng động giữ gìn và phát huy rất tốt
Khá bền vững Phần lớn nền văn hóa được cộng đồng được cộng đồng giữ vững
Trung bình Nền văn hóa hóa của cộng động có nguy cơ bị mai một
Kém bền vững Nhiều yếu tố văn hóa đã dần mất đi
10 Mức an toàn về mặt xã hội
Rất an toàn Không xảy ra trường hợp mất ổn định về an ninh, chính trị, trật tự xã hội; không có người bán hàng rong, ăn xin
Khá an toàn Không xảy ra trường hợp mất ổn định về an ninh, chính trị, trật tự xã hội;
có người bán hàng rong, ăn xin nhưng không đáng kể
Trung bình Không xảy ra trường hợp mất ổn định về an ninh, chính trị, trật tự xã hội;
có nhiều người bán hàng rong, ăn xin
Kém an toàn Có những biểu hiện mất ổn định về an ninh, trật tự xã hội: trộm cắp, trấn lột, chèn ép khách,
2.3.4. Cách tính điểm và phân hạng kết quả đánh
giá tổng hợp
Điểm số tương ứng với các cấp đánh giá tốt,
khá, trung bình, kém là 4, 3, 2, 1. Điểm đánh giá
một tiêu chí là tích của hệ số và điểm của cấp đánh
giá. Điểm đánh giá tổng hợp cho điểm du lịch được
tính bằng tổng số điểm đánh giá của các tiêu chí
thành phần. Kết quả đánh giá tổng hợp được phân
thành 4 hạng. Khoảng cách điểm giữa các hạng
bằng nhau và được tính bằng trung bình cộng giữa
điểm cao nhất và điểm thấp nhất trong thang điểm.
Dựa vào cách tính điểm và phân hạng kết quả đánh
giá tổng hợp ta có bảng điểm đánh giá tổng hợp
cao nhất và thấp nhất như bảng 3.
Bảng 3. Điểm đánh giá tổng hợp cao nhất và thấp nhất
Hệ số, cấp đánh giá
Yếu tố đánh giá Hệ số Tốt Khá
Trung
bình Kém
Độ hấp dẫn về cảnh quan 3 12 9 6 3
Độ hấp dẫn về văn hóa cộng đồng 3 12 9 6 3
Thời gian hoạt động du lịch 3 12 9 6 3
Sức chứa khách du lịch 2 8 6 4 2
Vị trí điểm du lịch 2 8 6 4 2
Tính liên kết 2 8 6 4 2
Khả năng tiếp cận với điểm du lịch 2 8 6 4 2
Độ bền vững về tự nhiên 2 8 6 4 2
Mức độ bền vững về văn hóa cộng đồng 2 8 6 4 2
Mức độ an toàn về mặt xã hội 2 8 6 4 2
Tổng 92 69 46 23
Áp dụng công thức tính điểm của Viện Nghiên
cứu Phát triển du lịch Việt Nam ta có:
Xo=
n
XX minmax −
Trong đó: Xo- Khoảng cách đều giữa các hạng;
Xmax- Điểm cao nhất = 92; Xmin- Điểm thấp nhất
= 23; n- Số cấp phân hạng = 4
Xo: = 13
Như vậy, điểm đánh giá tổng hợp về tiềm năng
của các điểm du lịch ở 4 hạng sẽ là: Tốt (Có tiềm
năng rất lớn) 75-92; Khá (có tiềm năng lớn) 58-74;
Trung bình (tiềm năng không lớn) 41-57; Kém
(tiềm năng không đáng kể) 23-40.
Kết quả đánh giá tổng hợp tiềm năng DLSTCĐ
huyện A Lưới được trình bày ở bảng 4.
278
Bảng 4. Kết quả đánh giá tổng hợp tiềm năng các điểm DLSTCĐ huyện A Lưới
STT
Tiêu chí
Điểm du lịch
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 Tổng
1 Thác A Nô 12 12 9 8 8 6 6 6 6 8 81
2 Thác Pông Chất 9 9 9 4 2 6 4 8 8 8 67
3 Suối nước nóng A Roàng 9 12 9 6 4 8 8 8 8 8 80
4 Suối nước nóng Pa Hy 6 6 9 4 6 4 4 8 6 8 61
5 Hồ Lâm Ly (A Co) 6 4 9 6 6 4 6 8 6 8 63
6 Khu bảo tồn, rừng nguyên sinh A Roàng -Hương Nguyên 12 9 9 8 4 4 4 6 8 8 72
7 Rừng Hương Phong 9 9 9 8 4 4 4 6 6 8 67
8 Rừng Hồng Hạ 9 9 9 8 4 4 4 6 6 8 67
9 Rừng Hồng Trung 9 9 9 8 6 4 4 6 6 8 69
10 Rừng Hồng Thượng 9 9 9 8 6 4 4 6 6 8 69
11 Đèo Pê Ke 12 9 9 8 6 4 8 8 6 8 78
Kết quả đánh giá tổng hợp tiềm năng các điểm
DLSTCĐ cho thấy, có 3 điểm du lịch được xếp
hạng có tiềm năng rất lớn cho hoạt động DLSTCĐ:
Thác A Nor, Suối nước nóng A Roàng và Đèo Pê
Ke và 8 điểm du lịch được xếp hạng có tiềm năng
đối với hoạt động DLSTCĐ: Thác Pông Chất, Suối
nước nóng Pa Hy, hồ Lâm Ly, Khu bảo tồn, rừng
nguyên sinh A Roàng - Hương Nguyên, rừng
Hương Phong, rừng Hồng Hạ, Rừng Hồng Trung,
rừng Hồng Thượng.
Thác A Nô và suối nước nóng A Roàng được
xếp hạng cao bởi vì hai điểm du lịch này có sự kết
hợp giữa cảnh quan thiên nhiên hấp dẫn và cộng
đồng bản địa với nền văn hóa đặc sắc sinh sống
xung quanh. Trong thời gian qua, hai điểm du lịch
này cũng đã được huyện khai thác khá mạnh.
Điểm du lịch khu bảo tồn, rừng nguyên sinh A
Roàng - Hương Nguyên đã được khai thác và được
biết đến nhiều nhưng kết quả đánh giá chưa thật sự
cao, nguyên nhân là do khoảng cách đến trung tâm
khá xa.
Nhìn chung, tài nguyên du lịch ở huyện A Lưới
rất có tiềm năng trong việc khai thác DLSTCĐ. So
với các vùng núi của các huyện khác trong tỉnh,
quy mô DLST ở A Lưới chưa ngang tầm với vườn
quốc gia Bạch Mã (Phú Lộc), thác Ka Giang (Nam
Đông), suối nước nóng Thanh Tân (Phong Điền).
Tuy nhiên, A Lưới có nhiều lợi thế khác như địa
hình đa dạng với nhiều cảnh đẹp tự nhiên như thác,
suối nước nóng, cảnh quan đèo, hầm đường bộ
cùng nhiều con suối thơ mộng, nhiều con sông
chảy quanh thung lũng và đổ vào A Lưới, Chạy
dọc theo đường Hồ Chí Minh còn có những cánh
rừng nguyên sinh đan xen với rừng tái sinh trồng
mới. Đặc biệt, sự có mặt của nhiều dân tộc anh em
sinh sống ở đây với những nét văn hóa độc đáo của
đồng bào dân tộc ít người đã tạo cho A Lưới những
nét riêng và tiềm năng to lớn trong việc phát triển
DLSTCĐ. Ngoài ra, sự phong phú của các chứng
tích lịch sử cùng với các dịch vụ giải trí, lưu trú,
ẩm thực, đã, đang và sẽ hỗ trợ rất lớn trong quá
trình phát triển DLSTCĐ A Lưới, phát triển ngang
tầm với các điểm du lịch khác trong và ngoài tỉnh,
góp phần tạo nên thành công của dự án Phát triển
Du lịch bền vững Tiểu vùng sông Mê Kông, góp
phần tạo nên hành lang kinh tế du lịch của tỉnh
3. Kết luận
Kết quả đánh giá định tính và định lượng tiềm
năng phát triển du lịch sinh thái huyện A Lưới cho
thấy, miền núi A Lưới có nhiều lợi thế và tiềm
năng để phát triển mạnh mẽ DLSTCĐ trong tương
lai gần như địa hình đa dạng, đã tạo ra nhiều thắng
cảnh tự nhiên đẹp như thác nước, hồ đầm, sông
suối uốn lượn, cộng thêm các khu rừng nguyên
sinh, các khu bảo tồn thiên nhiên, với hệ sinh thái
279
động thực vật phong phú, đa dạng. Ngoài ra, nơi
đây còn có những nét văn hóa độc đáo của cộng
đồng các dân tộc thiểu số, các chứng tích chiến
trường xưa,... cùng với các yếu tố phụ trợ như giao
thông vận tải, thông tin liên lạc, các dịch vụ lưu
trú, ẩm thực đang được đầu tư. Vì vậy, huyện A
Lưới có tiềm năng phát triển tốt các loại hình du
lịch khác nhau như: du lịch sinh thái, du lịch ẩm
thực, du lịch làng nghề, du lịch lễ hội, du lịch thăm
chiến trường xưa, đặc biệt là du lịch sinh thái
cộng đồng.
Kết quả đánh giá định lượng tiềm năng DLSTCĐ
của các điểm du lịch dựa vào thang điểm đánh giá
tổng hợp cho thấy, huyện A Lưới có tiềm năng rất lớn
trong việc phát triển loại hình DLSTCĐ, đã xác định
được 3 điểm du lịch có tiềm năng rất lớn và 8 điểm có
tiềm năng để phát triển DLSTCĐ. Các kết quả đánh
giá bước đầu này sẽ góp phần giúp các cấp chính
quyền huyện A Lưới xây dựng quy hoạch chi tiết phát
triển DLSTCĐ nói riêng và xây dựng định hướng,
chiến lược phát triển du lịch A Lưới nói chung.
TÀI LIỆU DẪN
[1] Agnes Kiss, 2004: Is community-based
ecotourism a good use of biodiversity conservation
funds?. Trends in Ecology and Evolution, Vol.19,
No.5.
[2] Fennell D., 2003: Ecotourism. New York:
Roultledge, 2nd edition.
[3] Hausler N. and Wolfang S., 2002: Training
manual for Community-based Tourism.
[4] Tran Thi Mai Hoa, Huan Nguyen Cao
Huan, Noma Haruo, 2010: Potential of Developing
Community-based Ecotourism in Van Don
District, Quang Ninh Province, VNU Journal of
Science, Earth Sciences 26, pp. 128-140
[5] Đỗ Thị Thanh Hoa, 2007: Báo cáo tổng kết
đề tài: Nghiên cứu đề xuất tiêu chí khu du lịch sinh
thái ở Việt Nam, Viện nghiên cứu Phát triển
du lịch.
[6] Lindberg K., Megan E.W., Engeldrum D.,
2002: Du lịch sinh thái: Hướng dẫn cho nhà lập kế
hoạch và quản lý, tập 2, Hiệp hội Du lịch sinh thái.
[7] Phạm Trung Lương, 2002: Du lịch sinh
thái: những vấn đề lý luận và thực tiễn tại Việt
Nam. Nxb. Giáo Dục, Hà Nội.
[8] Manu, Isaac, Kuuder, Conrad-J.Wuleka,
2012: Community-Based Ecotourism and
Livelihood Enhancement in Sirigu, Ghana.
International Journal of Humanities and Social
Science, Vol. 2, No. 18.
[9] Okazaki E., 2008: A Community-Based
Tourism Model: Its Conception and Use, Journal of
Sustainable Tourism, Vol. 16, No. 5.
[10] Trần Nguyễn Khánh Phong, 2012., Lễ hội
Ariêu piing của người Pacô, Tạp chí nghiên cứu và
phát triển, số 2, tập 91.
[11] Bùi Thị Hải Yến, 2010: Quy hoạch du
lịch, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam.
[12] UBND huyện A Lưới, 2012: Báo cáo tổng
kết công tác Quản lý bảo vệ rừng - Phòng cháy
chữa cháy rừng 2012, triển khai nhiệm vụ năm
2013.
[13] UBND huyện A Lưới, 2012: Sơ kết 03
năm (2010-2012) thực hiện Đề án Đào tạo nghề
cho lao động nông thôn và dự kiến kế hoạch 2013-
2015.
[14] UBND tỉnh Thừa Thiên Huế, 2005: Dư
địa chí Thừa Thiên Huế, Nxb. Khoa học và Xã hội.
[15] UNEP, 2002. Ecotourism: Principles,
Practices and Policies for Sustainability
[16] United Nations World Tourism
Organization & United Nations Environmental
Programme (UNWTO & UNEP), 2005: Making
Tourism Mote Sustainable. A Guide for Policy
Makers.
[17] WWF, 2001: Guidelines for Community-
based Ecotourism.
280
SUMMARY
Integrated potential assessment of community-based ecotourism in district A Luoi,
Thua Thien Hue province
A Luoi is a mountainous dictrict with great potential for tourism development. The survey shows that there are a lot of
good conditions for tourism development, especially community based ecotourism. However, the exploitation and using
of this tourism resources in general and community based ecotourism in particular have yet to be effect and matching to
available potential. Therefore, this paper conducted a qualitative and quantitative assessment of tourism potential in A
Luoi, especially community based ecotourism to serve for planning and development of sustainble tourism. The results
of qualitative assessment showed that tourism resources in Luoi district is rich and diverse, including natural beauty of
pristine forests with diversity of flora and fauna, the natural waterfalls, the mineral springs, ... Moreover, tourism
resources also include the ethnic community’s unique and rich cultures, such as traditional festival, traditional handicaft
productions, and many historical and cultural monuments in which peoples heroically againsted foreign invader’s war,
such as military caves and tunnels, Fomer U.S special Forces Bases, These tourism resources will help A Luoi district
to develop different types of tourism, for example ecotourism, historical tourism, cultural tourism, and specially,
community-based ecotourism. The paper has also synthetically assessed of 11 potential destinations for community-
based ecotourism, the quantitative results showed that 3 destinations were huge potential and 8 destinations were
potential for community based eco-tourism.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5910_21153_1_pb_6753_2100729.pdf