5. Tính kháng với 3TC thường xuất hiện sớm, chỉ cần một đột biến riêng lẻ đã dẫn đến tình
trạng kháng thuốc. Kết quả phân tích ở các thời điểm sau khi sinh, cho thấy tỷ lệ PCR dương tính tăng dần
lên 78,8% ở thời điểm hai tuần (P5) và 92% ở hai tháng (P6) sau khi ngưng uống thuốc dự phòng. Tỷ lệ có
đột biến kháng thuốc giảm còn 17,8% sau hai tuần và không phát hiện có đột biến kháng thuốc nào sau hai
tháng ngưng uống ARV dự phòng. Điều đó cho thấy sau khi ngưng uống ARV, các virút hoang dại không
mang đột biến kháng thuốc dần dần chiếm ưu thế, các chủng kháng thuốc giảm. Tuy nhiên theo một số
nghiên cứu, các chủng đột biến vẫn tồn tại trong cơ thể và lại tái xuất hiện một khi thuốc ARV được sử
dụng trong phác đồ điều trị cho người mẹ.[9]
6. Đột biến kháng thuốc không được phát hiện trên nhóm uống phối hợp 3 loại thuốc
AZT+3TC+NFV.Với các thai phụ chỉ được phát hiện nhiễm HIV khi đến sinh, đột biến kháng NVP chỉ được
phát hiện trên nhóm thai phụ dùng một liều NVP duy nhất. Ở thời điểm hai tuần sau khi sinh, tỷ lệ đột
biến kháng NVP là 22,7%. Tỷ lệ này cũng tương đồng với các nghiên cứu tại các quốc gia khác cho thấy tỷ
lệ kháng NVP trên thai phụ dùng phác đồ NVP một liều duy nhất là 20-69% [3,8,9]. Trong nghiên cứu được
thực hiện tại Uganda, tỷ lệ kháng thuốc NVP trong nhóm thai phụ uống dự phòng 1 liều NVP duy nhất
được phát hiện 4-6 tuần sau khi sinh là 25%[9]. Tỷ lệ này trong nghiên cứu tại Bờ Biển Ngà là 20,7% [5].
Người ta cũng ghi nhận tỷ lệ kháng NVP có thể phụ thuộc vào thứ type virút. Trong nghiên cứu HIVNET
012, đột biến kháng NVP thường gặp với virút HIV-1 thứ type C là 69,2%; thứ type D là 36,1% và thứ type
A là 19% [7]. Trong một nghiên cứu tại Nam Phi, nơi thứ type C thường lưu hành, tỷ lệ kháng NVP phát
hiện ở tuần thứ 4 sau khi sinh là 67%[9] trên nhóm thai phụ đã uống hai liều NVP. Trong nghiên cứu tại
Thái Lan, thai phụ đã dùng phác đồ dự phòng phối hợp AZT và 1 liều NVP có tỷ lệ đột biến kháng NVP ở
tuần thứ 4 sau khi sinh là 17% [9]. Tỷ lệ này là 33% trong nhóm thai phụ dùng cùng phác đồ ở Bờ Biển Ngà[9]
7. Một số nghiên cứu gần đây cho thấy, phác đồ bổ sung AZT+3TC sau khi sinh cho thai phụ
đã uống 1 liều NVP lúc sinh làm giảm đáng kể tỷ lệ kháng NVP [6]. Kết quả nghiên cứu này cũng cho thấy
trên 35 thai phụ dùng phác đồ NVP có uống bổ sung AZT+3TC một tuần, 26 thai phụ lấy được mẫu ở thời
điểm hai tuần sau khi sinh, đột biến kháng NVP đã không được phát hiện. Tỷ lệ virút kháng NVP sau hai
tháng là 8% giảm đáng kể so với mẫu lấy hai tuần sau sinh.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 27/01/2022 | Lượt xem: 171 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá tỷ lệ kháng thuốc ARV trong can thiệp điều trị dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con tại thành phố Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
137
ĐÁNH GIÁ TỶ LỆ KHÁNG THUỐC ARV TRONG CAN THIỆP ĐIỀU TRỊ DỰ
PHÒNG LÂY TRUYỀN HIV TỪ MẸ SANG CON TẠI TP HỒ CHÍ MINH
Vũ Thị Nhung*, Trương thị Xuân Liên
TÓM TẮT
1. Đặt vấn đề: Đ có nhiều Nghiên cứu đánh giá hiệu quả của khả năng phòng ngừa ly truyền HIV từ mẹ
sang con cùa các thuốc kháng Retrovirus. Tuy nhiên, một vấn đề cần quan tâm là sự xuất hiện những
chủng virus mang tính kháng thuốc. Sự lưu hành những chủng kháng thuốc cũng được tìm thấy ở những
phụ nữ chưa tùng sử dụng thuốc ARV tại một số nơi., Vì thế, việc phát hiện các chủng kháng thuốc l điều
cần thiết, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng thuốc trong điều trị dự phòng nhiễm HIV/AIDS.
2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu thực hiện trên 170 thai phụ có HIV (+) được điều trị
dự phòng ly truyền HIV từ mẹ sang con tại BV Hùng Vương TP HCM (3/2005-3/2006). Các thai phụ này
thuộc về 2 nhóm: nhóm I: uống ARV từ tuần thai 32 đến khi sanh, nhóm II uống ARV ngay tại phòng sanh.
Tỷ lệ virút kháng thuốc được phát hiện bằng kỹ thuật giải trình tự nucleotide trn các vng gen đích ở các
thời điểm trước khi sử dụng thuốc, hai tuần và hai tháng sau khi sinh
3. Kết quả: Tỷ lệ virút có đột biến liên quan đến tính kháng ARV trước khi uống ARV trên thai phụ nhiễm
HIV chung cho 2 nhóm (uống ARV từ tuần 32-34 và nhóm uống trước sanh) là 0,63%. Sau khi uống ARV
dự phòng, tỷ lệ virút mang đột biến kháng ARV ở thời điểm 2 tuần sau sanh là 17,53% và ở thời điểm 2
tháng là 3,06%. Thai phụ nhóm I có tỷ lệ kháng thuốc khi sanh l 26,32%, 17,86% hai tuần sau sanh và khơng
pht hiện kháng thuốc 2 tháng sau sanh. Đối với nhóm II: các tỷ lệ này lần lượt là 27,72% hai tuần sau sanh
và 8% sau sanh 2 tháng. Tỷ lệ con nhiễm HIV của mẹ nhóm I l 5,4% đối với nhóm uống AZT+3TC, là 0% ở
nhóm AZT+3TC+NFV. Đối với nhóm mẹ uống ARV lúc chuyển dạ liều duy nhất NVP thì tỷ lệ con nhiễm
HIV l 12% và nhóm uống NVP + AZT+3TC tỷ lệ con nhiễm thấp hơn (6,25%). Nghiên cứu không tìm thấy
sự liên quan giữa số lượng tế bào T CD4 và nồng độ virút trong máu với sự xuất hiện các đột biến mang
tính kháng thuốc.
4. Kết luận: Đã có sự xuất hiện các chủng virút mang đột biến kháng thuốc trên thai phụ chưa từng uống
ARV. Các đột biến liên quan đến tính kháng thuốc đối với 3TC không được phát hiện trong nhóm thai phụ
dùng kết hợp AZT+3TC+NFV Đột biến kháng NVP chỉ có ở thai phụ dùng một liều duy nhất NVP khi
chuyển dạ, không phát hiện đột biến ở người uống 1 liều NVP lúc sanh và uống thêm AZT+3TC một tuần
sau sanh.
Từ khóa: đột biến chủng HIV, kháng ARV
ABSTRACT
EVALUATING THE RATE OF ARV RESISTANT IN THE PROGRAMME OF
PREVENTION OF HIV/AIDS TRANSMISSION FROM MOTHERS TO CHILDREN
AT HO CHI MINH CITY
* PGS.TS Vũ Thị Nhung, Bệnh Viện Hùng Vương
** PGS.TS Trương thị Xuân Liên, Viện Pasteur TP HCM
Đề tài nghiên cứu cấp Bộ đã được nghiệm thu 2008
Introduction: Many studies have been done to evaluate the effectiveness of the ARV treatment in PTMTC.
However, an important problem could be met was the resistant HIV type to ARV presenting in the
pregnant women that had never taken ARV before. So, it is necessary to detect those types in order to
improve the effectiveness ARV treatment in this program.
Methodology: The study was done on 170 pregnant women affected with HIV who participated in the
program of prevention of HIV/AIDS transmission from mothers to children (3/2005-3/2006). It was divided
into 2 groups: group I: taking ARV from 32 weeks of gestation to labor; group II: taking ARV at delivery
room. The rate of virus resisted to ARV could be detected by DNA sequencing on the gens of target regions
before taking ARV, 2 weeks- postpartum and 2 months-postpartum.
Results: For both groups: The rate of mutant HPV related to resistant ARV drugs among HIV positive
pregnant women before taking ARV was 0,63%. After taking ARV, the rate changed as follow: 17.53% at
138
the time of 2 weeks previous to delivery and 3.06% at 2 months-postpartum. For group I: the rate of mutant
HPV was 26.32% (before labor), 17.86% (2 weeks- postpartum), no mutant HPV detected at 2 months-
postpartum. For group II: 27.72% (2 weeks- postpartum), 8% (2 months-postpartum). In group I: 5.4%
babies affected with HIV belonged to mothers taking AZT+3TC and no baby had HIV among mothers
taking AZT+3TC+NFV. In group II: 12% of babies affected with HIV belonged to mothers taking NVP and
6.25% of babies had HIV among mothers taking NVP+AZT+3TC.
4. Conclusion: There has been resistant HIV type to ARV drugs presenting in the pregnant women that had
never taken ARV. No mutant HPV related to resistant 3TC was detected among mothers taking
NVP+AZT+3TC. Mutant HPV related to resistant NVP has been detected among mothers taking NVP
single dose at labor but no mutant HPV has been found if the regimen of AZT+3TC was applied one week
postpartum besides single dose of NVP.
Key words: mutant HIV, Resistant ARV
I.ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo báo cáo của Tổ chức Y Tế Thế Giới[10], cho đến nay đại dịch AIDS đã lấy đi sinh mạng của gần 3 triệu
sinh mạng trẻ em trên thế giới và có khoảng 1 triệu trẻ em đang sống chung với HIV/AIDS. Ước tính mỗi
ngày có 1600 trẻ sơ sinh nhiễm HIV. Lây truyền từ mẹ sang con là nguyên nhân chính gây nhiễm HIV ở trẻ
em. Sự lây truyền này có thể xảy ra ở 3 giai đoạn của thai kỳ [1,2,7]: lây truyền qua tử cung thường gặp vào 3
tháng giữa thai kỳ chiếm khoảng 30-50%. Lây truyền cao nhất là trong giai đoạn chuyển dạ (60 – 65%). Lây
truyền sau khi sanh (trong giai đoạn cho con bú mẹ) là 10-15%. Trước khi đưa ARV vào chương trình điều
trị dự phòng, nguy cơ lây nhiễm HIVtừ mẹ sang con từ 15-25% ở các nước phát triển[4], có thể cao hơn ở
những nước đang phát triển (25-35%)[9]. Đã có nhiều nghiên cứu đánh giá hiệu quả của khả năng phòng
ngừa của các thuốc kháng Retrovirus. Nếu mẹ dùng thuốc từ tuần 32 hay 34 của thai kỳ và con được uống
trong 4-6 tuần đầu sau sanh thì tỷ lệ giảm còn 1,6-2,8%[9]. Riêng trường hợp mẹ đến khi có dấu chuyển dạ
thì theo phác đồ một liều duy nhất ngay lúc sanh và 1 tuần cho con sau sanh cũng giúp giảm tỷ lệ lây
truyền còn 9,5% - 12,5% [9]. Việc không cho con bú mẹ cũng góp phần giảm tỷ lệ nhiễm cho trẻ sau sanh.
Tuy nhiên, một vấn đề cần quan tâm là sự xuất hiện những chủng virus mang tính kháng thuốc. Sự xuất
hiện những chủng này ảnh hưởng đến những hiệu quả ngăn ngừa lây truyền từ mẹ sang con.và ảnh hưởng
đến việc điều trị bằng ARV cho mẹ và con, khó khăn cho việc ứng dụng phác đồ điều trị sau này.
Tỷ lệ kháng thuốc đối với NVP từ 20-60% (liều duy nhất) [3,6]. Sự lưu hành những chủng kháng thuốc cũng
được tìm thấy ở những phụ nữ chưa từng sử dụng thuốc ARV tại một số nơi. Vì thế, việc phát hiện các
chủng kháng thuốc là điều cần thiết, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng thuốc trong điều trị dự phòng
nhiễm HIV/AIDS.
Mục tiêu của đề tài: Ứng dụng các kỹ thuật sinh học phân tử để đánh giá tỷ lệ kháng thuốc ARV trên thai phụ tham
gia chương trình dự phòng lây truyền HIV/AIDS từ mẹ sang con ở Thành phố Hồ chí Minh vào các thời điểm trước
và sau khi sử dụng ARV.
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Thiết kế nghiên cứu: đoàn hệ tiền cứu
2. Đối tượng nghiên cứu: Phụ nữ mang thai nhiễm HIV đến khám thai và sanh tại BV Hùng
Vương.
3. Tiu chuẩn chọn bệnh:
Thai phụ được phát hiện nhiễm HIV trong thời gian khám thai hay khi chuyển dạ
và được cho uống thuốc ARV dự phòng lây truyền cho con.
Sanh con sống.
Đồng ý tham gia vào chương trình nghiên cứu
4. Tiêu chuẩn lọai trừ:
Thai phụ có biểu hiện lâm sàng ở giai đọan AIDS
Cao huyết áp không kiểm sóat được
Thiếu máu: Hemoglobin máu < 75g/l
Suy gan, thận.
139
5. Cỡ mẫu:
Số lượng đối tượng thu thập tùy thuộc tình hình nhập viện của bệnh nhân trong thời gian
nghiên cứu.
6. Thời gian:
7. 3/2005 – 3/2006.
8. Phương pháp tiến hành:
Thai phụ đến khám thai được làm xét nghiệm chẩn đóan nhiễm HIV theo chiến lược của
WHO bằng 2 test ELISA và 1 test nhanh có kết quả (+), sẽ được cho uống ARV từ tuần
thứ 32 hay 34 theo một trong 2 phác đồ (tùy theo thuốc do Bộ cấp phát): AZT+3TC hay
AZT + 3TC + Nelfinavir
Thai phụ chỉ phát hiện nhiễm HIV lúc đến sanh và được cho uống theo một trong 2 phác
đồ: Nevirapine một liều duy nhất hoặc NVP 1 liều lúc sanh và AZT + 3TC trong 1 tuần
sau sanh.
Trẻ sinh từ b mẹ nhiễm HIVnhóm P1 (mẹ biết nhiễm HIV khi đi khám thai) được cho uống
siro NVP trong vòng 72 giờ và uống Sirơ AZT trong 1 tuần. Đối với trẻ của mẹ nhóm
P2 (Mẹ biết nhiễm HIV khi đi sanh) thì thời gian uống AZT kéo dài đến 4 tuần sau
sanh.
Lấy mẫu xt nghiệm:
• Thai phụ đến vào giai đọan tiền sinh có HIV (nhóm P1) được lấy máu vào các thời
điểm: trước khi uống ARV (ký hiệu 1-P1) – Khi chuyển dạ (1-P4) – Sau sanh 2 tuần (1-
P5) – Sau sanh 2 tháng (1-P6)
• Thai phụ được phát hiện có HIV khi chuyển dạ (nhóm P2): trước khi uống NVP (2-P4)
- Sau sanh 2 tuần (2-P5) – Sau sanh 2 tháng (2-P6)
• Các lọai xét nghiệm: Công thức máu, Đếm số lượng tế bào TCD4/TCD8, XN chức năng
gan, thận, tìm đột biến kháng thuốc bằng kỹ thuật giải trình tự nucleotide trên các gen
đích prot,rt.; định type virus (tìm đột biến kháng thuốc thì phải lấy máu 3 lần)
• Qui trình phát hiện đột biến gen kháng thuốc: Các mẫu máu được lấy từ phòng khm
hay phòng sanh tại BVHV, sau đó được chuyển về Viện Pasteur TPHCM.Các mẫu máu
được tách huyết tương trong vòng 4 giờ sau khi lấy máu, chia vào các ống nhỏ và bảo
quản ở -800C cho đến khi tiến hành xét nghiệm tính kháng thuốc.
• Trẻ đượclàm XN PCR để phát hiện DNA của virus tại thời điểm 2-6-12 tháng. Kết quả
(+) khi kỹ thuật PCR thực hiện trên 2 mẫu máu lấy ở thời điểm khác nhau cho phản
ứng (+) với 2 trên 3 gen đích:gag, pol,env.
III. KẾT QUẢ
Tổng số thai phụ: 170 gồm 84 thai phụ nhóm P1 (Phòng khám) và 86 thai phụ nhóm P2 (Phòng sanh).
Bảng 1: Số mẫu được lấy vào nghiên cứu ở các giai đọan khác nhau của thai phụ
Phòng
khám
(P1)
Lúc
sanh
(P2)
2 tuần
sau
sanh
(P5)
2 tháng
sau sanh
(P6)
Nơi lấy
mẫu
N N % N % N %
Tổng
số
mẫu
Phòng
khám
84 54 64% 71 84% 63 75% 272
Phòng
sanh
86 55 63% 44 51% 185
Tổng số 457
Bảng 2: Kết quả phát hiện đột biến kháng thuốc
TỶ LỆ KHÁNG THUỐC CHUNG CHO 2 NHÓM
140
Trước uống
ARV
Sau sanh 2
tuần
Sau sanh 2
tháng
N PCR(+
)
ĐB N PCR(+
)
ĐB N PCR(+
)
ĐB
Tổng
số
(N)
170 160 1 125 97 17 105 98 3
%
95%
CI
94,14
89,45-
97,14
0,6
3
77,6
69,28-
84,57
17,5
3
93,33
86,75-
97,28
3,0
6
N: Số mẩu thu thập; PCR: Số mẫu có PCR và được phân tích; ĐB: Số mẫu có đột biến
Bảng 3: Kết quả phát hiện đột biến kháng thuốc theo thời điểm lấy mẫu
Nhóm thai phụ đến khám và sanh
Trước ARV Khi sanh Sau sanh 2
tuần
Sau sanh 2
tháng
N PCR+ĐB N PCR+ ĐB N PCR+ĐB N PCR+ĐB
PK(N) 84 80 0 54 19 5* 71 56 10* 63 58 0
% 95,24 0 35,19 26,32 78,87 17,86 92,06 0
Nhóm thai phụ đến sanh
PS(N) 86 80 1*** 54 41 7** 42 40 3**
% 93,02 1,25 75,92 17,07 95,24 7,5
5* và 10*: Kháng 3TC
7** : 5 kháng NVP, 1 kháng d4T, 1 kháng 3TC
3** : 2 kháng NVP, 1 kháng d4T
Bảng 4: Kết quả phát hiện các đột biến kháng thuốc theo phác đồ điều trị và thời điểm lấy mẫu trên thai
phụ phòng khám
Lúc sinh Sau sinh 2
tuần
Sau sinh 2
tháng
Phác đồ dự
phòng
N PCR+ĐB N PCR+ ĐB N PCR+ĐB
AZT + 3TC
(n=49)
%
95%CI
31 11
35,48
19,23-
54,63
5
45,45
16,75-
76,62
42 31
73,8
57,96-
80,14
10
32,26
16,68-
51,37
41 39
95,12
83,47-
99,4
0
0
0-9
AZT+
3TC+NFV
(n=35)
%
95%CI
23 8
34,78
16,38-
57,27
0
0
0-
36,94
29 25
86,21
68,34-
96,11
0
0
0-
13,71
29 19
65,52
45,67-
82,06
0
0
0-
17,65
Bảng 5: Kết quả phát hiện các đột biến kháng thuốc theo phác đồ điều trị và thời điểm lấy mẫu trên thai
phụ phòng sinh
Sau sinh 2 tuầnSau sinh 2 thángPhác đồ dự phòng
N PCR+ ĐB N PCR+ ĐB
NVP sd (n=49)
%
95%CI
28 22
78,57
59,05-
91,7
6*
27,72
8,97-
43,65
26 25
96,15
80,36-
99,9
3*
12
2,55-
31,22
141
NVP sd + (AZT+
3TC) n=32
%
95%CI
26 19
73,08
52,21-
88,43
1*
5,2
0,13-
26,03
16 15
93,75
69,77-
99,84
0
0
0-21,8
1*: đột biến kháng 3TC
3*: 1 đột biến kháng D4T và 2 đột biến kháng NVP
6*: 1 đột biến kháng D4T và 5 đột biến kháng NVP
Bảng 6: Tỷ lệ trẻ sơ sinh nhiễm HIV
Uống ARV từ
tuần 32-34
Uống ARV lúc
chuyển dạ
Tổng
số
Phác đồ
điều trị
AZT+3
TC
AZT+3TC
+NFV
NV
P
NVP+
(AZT+3TC)
Số ca
theo dõi
37 25 25 16 103
Con
nhiễm
HIV
2 0 3 1* 6
Tỷ lệ % 5,4 0 12 6,25 5.8
• Ghi nhận có cho con bú sữa mẹ.
IV. BÀN LUẬN
1. Điều trị dự phòng lây truyền từ mẹ sang con bằng thuốc kháng ARV đã làm giảm một
cách đáng kể tỷ lệ nhiễm HIV ở trẻ sơ sinh. Trên 103 trẻ sinh ra từ các thai phụ tham gia trong chương trình
nghiên cứu và có được số liệu theo dõi xét nghiệm phát hiện nhiễm HIV ở thời điểm 2 tháng, 6 tháng sau
khi sinh cho thấy 6/103 (5,8%) có kết quả PCR-HIV dương tính, trong đó 2 trẻ có mẹ uống dự phòng lúc
mang thai và 4 trẻ có mẹ chỉ được uống NVP lúc sinh. Tỷ lệ này cũng tương tự như các kết quả nghiên cứu
được thực hiện tại các nước khác trên thế giới. Trong chương trình Ditram plus 1.0, mẹ được điều trị dự
phòng với AZT từ tuần thai thứ 36 và NVP lúc sinh, con được uống NVP thì tỷ lệ trẻ nhiễm HIV là 6,5% [9].
Với chương trình Ditrame plus 1.1, mẹ được uống AZT+3TC từ tuần thai 32 và NVP lúc sinh, con uống NVP
1 tuần, tỷ lệ nhiễm ở trẻ còn 4,7% (DITRAME Plus) [9].
2. Một trong những vấn đề cần được quan tâm trong điều trị dự phòng bằng ARV là sự
xuất hiện những chủng virút mang tính kháng thuốc. Phác đồ điều trị dự phòng ngắn ngày, sử dụng một
hoặc hai thứ thuốc có thể góp phần chọn lọc các chủng virút kháng thuốc ảnh hưởng đến việc điều trị bằng
ARV cho người mẹ và trẻ sơ sinh sau này.Trong nghiên cứu này, tỷ lệ virút có đột biến kháng thuốc trước
khi uống ARV dự phòng là 0,63%. Tỷ lệ này tương đối thấp so với các nước đã tiếp cận với ARV sớm hơn
[9]. Tuy nhiên sự xuất hiện chủng kháng thuốc trên thai phụ chưa từng tiếp cận với ARV cảnh báo sự lan
truyền các chủng virút HIV-1 kháng thuốc trong cộng đồng.
3. Các đột biến liên quan đến tính kháng thuốc xuất hiện trong quá trình uống ARV dự
phòng theo các phác đồ một hoặc hai thứ thuốc trong thời gian ngắn. Tỷ lệ virút có đột biến kháng ARV
sau khi uống dự phòng là 17,53% trên các mẫu lấy ở thời điểm hai tuần sau khi sinh và giảm xuống còn
3,06 % hai tháng sau khi sinh. Trên thai phụ sử dụng phác đồ phối hợp hai hoặc ba thuốc ARV từ tuần thai
thứ 32 cho tới khi sinh, ở thời điểm chuyển dạ, tỷ lệ có kết quả PCR dương tính là 35,19% thấp hơn so với
mẫu lấy ở thời điểm trước khi uống ARV dự phòng (95,24%). Thời gian trung bình các thai phụ đã uống
thuốc dự phòng là 42,7 ngày. Kết quả này cho thấy, phác đồ dự phòng, phối hợp 2-3 loại thuốc có thể đã ức
chế một phần sự nhân lên của virút và làm giảm số lượng virút HIV tự do trong máu.
4. Đột biến kháng thuốc chung trên nhóm thai phụ đã uống thuốc dự phòng từ tuần 32 đến
lúc sinh là 26,3%. Các đột biến được phát hiện liên quan đến tính kháng thuốc đối với 3TC và chỉ được
142
phát hiện trong nhóm thai phụ dùng phác đồ hai thứ thuốc AZT+3TC. Không phát hiện được đột biến
kháng thuốc trong nhóm thai phụ dùng kết hợp 3 thứ thuốc AZT+3TC+NFV. Trong một nghiên cứu tại
Pháp, tỷ lệ kháng 3TC được phát hiện trong 50% thai phụ đã dùng 3TC trên hai tháng và 20% thai phụ đã
dùng thuốc từ một đến hai tháng [6]. Tỷ lệ này là 12% trong nghiên cứu Petra [9] thực hiện tại nhiều điểm với
phác đồ phối hợp AZT-3TC từ tuần thứ 36, trong lúc sinh và một tuần sau sinh.
5. Tính kháng với 3TC thường xuất hiện sớm, chỉ cần một đột biến riêng lẻ đã dẫn đến tình
trạng kháng thuốc. Kết quả phân tích ở các thời điểm sau khi sinh, cho thấy tỷ lệ PCR dương tính tăng dần
lên 78,8% ở thời điểm hai tuần (P5) và 92% ở hai tháng (P6) sau khi ngưng uống thuốc dự phòng. Tỷ lệ có
đột biến kháng thuốc giảm còn 17,8% sau hai tuần và không phát hiện có đột biến kháng thuốc nào sau hai
tháng ngưng uống ARV dự phòng. Điều đó cho thấy sau khi ngưng uống ARV, các virút hoang dại không
mang đột biến kháng thuốc dần dần chiếm ưu thế, các chủng kháng thuốc giảm. Tuy nhiên theo một số
nghiên cứu, các chủng đột biến vẫn tồn tại trong cơ thể và lại tái xuất hiện một khi thuốc ARV được sử
dụng trong phác đồ điều trị cho người mẹ.[9]
6. Đột biến kháng thuốc không được phát hiện trên nhóm uống phối hợp 3 loại thuốc
AZT+3TC+NFV.Với các thai phụ chỉ được phát hiện nhiễm HIV khi đến sinh, đột biến kháng NVP chỉ được
phát hiện trên nhóm thai phụ dùng một liều NVP duy nhất. Ở thời điểm hai tuần sau khi sinh, tỷ lệ đột
biến kháng NVP là 22,7%. Tỷ lệ này cũng tương đồng với các nghiên cứu tại các quốc gia khác cho thấy tỷ
lệ kháng NVP trên thai phụ dùng phác đồ NVP một liều duy nhất là 20-69% [3,8,9]. Trong nghiên cứu được
thực hiện tại Uganda, tỷ lệ kháng thuốc NVP trong nhóm thai phụ uống dự phòng 1 liều NVP duy nhất
được phát hiện 4-6 tuần sau khi sinh là 25%[9]. Tỷ lệ này trong nghiên cứu tại Bờ Biển Ngà là 20,7% [5].
Người ta cũng ghi nhận tỷ lệ kháng NVP có thể phụ thuộc vào thứ type virút. Trong nghiên cứu HIVNET
012, đột biến kháng NVP thường gặp với virút HIV-1 thứ type C là 69,2%; thứ type D là 36,1% và thứ type
A là 19% [7]. Trong một nghiên cứu tại Nam Phi, nơi thứ type C thường lưu hành, tỷ lệ kháng NVP phát
hiện ở tuần thứ 4 sau khi sinh là 67%[9] trên nhóm thai phụ đã uống hai liều NVP. Trong nghiên cứu tại
Thái Lan, thai phụ đã dùng phác đồ dự phòng phối hợp AZT và 1 liều NVP có tỷ lệ đột biến kháng NVP ở
tuần thứ 4 sau khi sinh là 17% [9]. Tỷ lệ này là 33% trong nhóm thai phụ dùng cùng phác đồ ở Bờ Biển Ngà[9]
7. Một số nghiên cứu gần đây cho thấy, phác đồ bổ sung AZT+3TC sau khi sinh cho thai phụ
đã uống 1 liều NVP lúc sinh làm giảm đáng kể tỷ lệ kháng NVP [6]. Kết quả nghiên cứu này cũng cho thấy
trên 35 thai phụ dùng phác đồ NVP có uống bổ sung AZT+3TC một tuần, 26 thai phụ lấy được mẫu ở thời
điểm hai tuần sau khi sinh, đột biến kháng NVP đã không được phát hiện. Tỷ lệ virút kháng NVP sau hai
tháng là 8% giảm đáng kể so với mẫu lấy hai tuần sau sinh.
VI. KẾT LUẬN
1. Tỷ lệ virút mang đột biến kháng thuốc trên thai phụ nhiễm HIV trước khi uống ARV dự phòng
tương đối thấp 0,6%.
2. Tỷ lệ virút mang đột biến kháng thuốc sau khi uống ARV dự phòng ở thời điểm sau khi sinh hai
tuần là 17, 53% và hai tháng là 3,06%.
3. Thai phụ được uống thuốc dự phòng từ tuần thai thứ 32 cho đến lúc sinh có tỷ kháng ARV là 26,32% tại
thời điểm sinh, 17,86% hai tuần sau sinh và không phát hiện trên các mẫu lấy 2 tháng sau sinh. Các đột biến kháng
3TC chỉ được phát hiện trên nhóm thai phụ uống AZT+3TC, không tìm thấy trong nhóm thai phụ uống kết hợp ba
loại thuốc AZT+3TC+NFV.
4. Thai phụ chỉ uống dự phòng khi đến sinh có tỷ lệ virút kháng ARV ở thời điểm hai tuần sau khi
sinh là 17,07%. Ở thời điểm hai tháng sau khi sinh tỷ lệ này còn 8%. Đột biến kháng NVP không được phát
hiện trên các thai phụ uống 1 liều NVP lúc sinh và AZT+3TC 1 tuần sau sinh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Hữu Chí (2000)”Ly truyền HIV từ mẹ sang con”, Nhiễm HIV/AIDS ở phụ nữ, trang 95-105.
2. Trương Thị Xuân Liên và cộng sự.”Nghiên cứu dịch tễ học phân tử nhiễm HIV tại Việt Nam”. Tạp chí Y
học dự phòng, Tập XIV, số 1 (64) 2004.
143
3. Cunningham CK, Chaix ML, Rekacewicz C, Britto P, Rouzioux C, Gelber RD, Dorenbaum A,
Delfraissy JF, Bazin B, Mofenson L, Sullivan JL.”Development of resistance mutations in women
receiving standard antiretroviral therapy who received intrapartum nevirapine to prevent perinatal human
immunodeficiency virus type 1 transmission”. Pediatric AIDS clinical trials group protocol, 316.
4. J. Acquir Immune Defic Syndrome 1995. Rates of mother to child transmission of HIV-1 in Africa, America
and Europe: results from 13 perinatal studies Hum Retrovirol 8: 506-510.
5. Lan NTH, Recordon-Pinson P, T.X. Lien, Barré-Sinoussi F. et al:”HIV Type 1 Isolated from 200
untreated individuals in Ho Chi Minh city (VietNam): and single dose NVP provide low rate of NVP
resistancce ANRS 1257 Study. Large Predominance of CRF01_AE and Presence of Major Resistance
Mutations to Antiretroviral Drugs”. AIDS research and human retroviruses, volumne 19, number 10,
2003, pp.925 – 928.
6. Chaix ML and col. Addition of 3 days of ZDV03TC pospartum to Short course of ZDV03TC Mutation
and high efficacy in preventing Peri-partum HIV-1 transmission.
7. Motenson L.M: ”Advance and research direction in the prevention of mother to child HIV-1 transmision”.
Lancet 355: 2237-2244
8. Scott M. Hammer.”Single dose Nevirapine and drug resistance: the more you look, the more you find”. JID
2005 1 July.
9. Recommendations on ARVs and MTCT Prevention 2004.PMTCT ARV Recs.7 Jan04.
Available from: ct 2004
10. One million children have HIV-AIDS.UN reports. Available from:
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_gia_ty_le_khang_thuoc_arv_trong_can_thiep_dieu_tri_du_p.pdf