Milrinone được sử dụng trong 48,9%
trường hợp với liều 0,43±0,11 µg/kg/phút.
Đây là mức liều trung bình, vì milrinone có
thể sử dụng với liều 0,25 - 0,75 µg/kg/phút.
Một cách truyền thống, các thuốc TCBCT
nhóm giao cảm như dopamine, dobutamine,
adrenaline và noradrenaline thường được sử
dụng sau mổ tim. Tuy nhiên các thuốc này
cũng gây ra nhiều tác dụng phụ như nhịp tim
nhanh, làm tăng tiêu thụ oxy cơ tim, gây ra
hiện tượng điều hòa xuống (down-regulation)
của các thụ thể giao cảm bêta, và tăng kháng
lực mạch máu hệ thống. Khác với các thuốc
TCBCT nhóm giao cảm, milrinone là một
thuốc TCBCT độc lập với sự kích thích của
các thụ thể giao cảm: giống như tiền chất của
nó là amrinone nhưng mạnh hơn amrinone
gấp 20 lần, milrinone là một dẫn xuất của
bipyridine, làm tăng co bóp cơ tim bằng cách
ức chế men phosphodiesterase III, dẫn đến
tăng nồng độ AMP vòng ở cơ tim và cơ trơn
mạch máu, làm tăng nồng độ canxi nội bào ở
cơ tim gây tăng sức co bóp cơ tim. Milrinone
cải thiện chức năng tâm thu và tâm trương,
làm tăng cung lượng tim, làm giảm kháng lực
mạch máu hệ thống và giảm kháng lực mạch
máu phổi(2,4). Milrinone có thể sử dụng riêng
một mình hoặc phối hợp với một thuốc
TCBCT nhóm giao cảm(4). Milrinone đã được
chứng minh là một thuốc TCBCT hiệu quả ở
trẻ em cũng như người lớn có bệnh lý tim(12,15).
Milrinone cũng được sử dụng phòng ngừa
khi cai THNCT cho các bệnh nhân có nguy cơ
cao bị hội chứng cung lượng tim thấp sau mổ
tim(9). Nghiên cứu PRIMACOPR(9) của
Hoffman và cộng sự đã chứng minh sự an
toàn và hiệu quả của milrinone trong phòng
ngừa hội chứng cung lượng tim thấp trên trẻ
sơ sinh và trẻ em sau phẫu thuật tim bẩm
sinh. Đây là một nghiên cứu tiền cứu, ngẫu
nhiên, mù đôi, có nhóm chứng thực hiện trên
238 bệnh nhân, kết quả cho thấy việc sử dụng
milrinone liều cao (0,75µg /kg/phút) giúp
giảm được đến 64% nguy cơ bị hội chứng
cung lượng tim thấp sau mổ tim bẩm sinh ở
trẻ em. Ngày nay điều trị hội chứng cung
lượng tim thấp sau mổ tim nhi bằng cách phối
hợp adrenaline liều thấp với milrinone là một
điều trị thường qui ở nhiều trung tâm mổ tim
lớn trên thế giới. Việc phối hợp một thuốc
TCBCT thuộc nhóm ức chế men
phosphodiesterase và một thuốc TCBCT
nhóm giao cảm giúp cải thiện huyết động
nhiều hơn, tránh được các tác dụng phụ của
từng loại thuốc khi dùng liều cao và đặc biệt
sự phối hợp hai thuốc TCBCT này có lợi trong
các suy thất phải nặng
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 26/01/2022 | Lượt xem: 301 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá và xử trí rối loạn huyết động trên các bệnh nhân tứ chứng fallot được phẫu thuật triệt để, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 87
ĐÁNH GIÁ VÀ XỬ TRÍ RỐI LOẠN HUYẾT ĐỘNG TRÊN CÁC BỆNH NHÂN
TỨ CHỨNG FALLOT ĐƯỢC PHẪU THUẬT TRIỆT ĐỂ
Hoàng Anh Khôi*, Nguyễn Thị Quý*, Hồ Thị Xuân Nga*, Nguyễn Tất Bình*
TÓM TẮT
Mục tiêu: đánh giá huyết động chu phẫu của bệnh nhân T4F được phẫu thuật triệt để và tần suất bệnh
nhân bị cung lượng tim thấp phải sử dụng thuốc tăng co bóp cơ tim (TCBCT) để cai tuần hoàn ngoài cơ thể
(THNCT) trong lúc mổ và giai đoạn hồi sức hậu phẫu.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiền cứu, phân tích. Các bệnh nhân T4F được phẫu
thuật triệt để tại Viện Tim từ 01.01.2010 đến 31.12.2010 được đưa vào nghiên cứu. Việc chẩn đoán hội chứng
cung lượng tim thấp và việc lựa chọn thuốc TCBCT được quyết định dựa trên sự quan sát trực tiếp khả năng co
bóp của tim trong lúc mổ cùng với các dữ kiện khách quan về huyết động học.
Kết quả: 92 bệnh nhân T4F đã được đưa vào nghiên cứu. Tại phòng mổ, 80 trường hợp (86,9%) cần phải
sử dụng thuốc TCBCT khi cai THNCT. Tại hồi sức, 82 trường hợp (89,1%) được sử dụng thuốc TCBCT. Hai
thuốc TCBCT được chọn lựa hàng đầu là adrenaline (73,9%) với liều 0,06±0,03µg/kg/phút và milrinone (48,9%)
với liều 0,43±0,11µg/kg/phút. Điều trị phối hợp adrenaline và milrinone được sử dụng trong 27 trường hợp
(32,9%). 15 trường hợp (16,3%) sử dụng noradrenaline.
Kết luận: Phẫu thuật triệt để T4F thường kèm theo rối loạn huyết động chu phẫu cần phải sử dụng thuốc
TCBCT. Adrenaline và milrinone là hai thuốc TCBCT được chọn lựa hàng đầu để xử trí hội chứng cung lượng
tim thấp sau phẫu thuật triệt để tứ chứng Fallot.
Từ khóa: tứ chứng Fallot, rối loạn huyết động, hội chứng cung lượng tim thấp, thuốc tăng co bóp cơ tim
(thuốc TCBCT), phẫu thuật triệt để, tuần hoàn ngoài cơ thể (THNCT).
ABSTRACT
EVALUATION AND MANAGEMENT OF HEMODYNAMIC DISTURBANCE IN PATIENTS WITH
TETRALOGY OF FALLOT AFTER COMPLETE REPAIR
Hoang Anh Khoi, Nguyen Thi Quy, Ho Thi Xuan Nga, Nguyen Tat Binh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 3 - 2011: 87 - 93
Objective: To evaluate perioperative hemodynamic in patients with Tetralogy of Fallot (TOF) after complete
repair and to determine the frequency of low cardiac output syndrome (LCOS) that have to use positive inotropic
agents support for weaning from cardio – pulmonary bypass (CBP) and during postoperative ICU.
Patients and methods: This is a prospective study. A total of patients with TOF requiring complete repair
from 01/01/2010 to 31/12/2010 at Heart Institute of Ho Chi Minh City were included. The diagnostic of LCOS
and the use of positive inotropic agents were based on clinical experience and evaluation of myocardial
contractility and hemodynamic parameters.
Results: 92 TOF patients were included in this study. 80 patients (86.9%) needed positive inotropic agents
to faciliate separation from CPB and 82 patients (89.1%) required positive inotropic agents in postoperative ICU.
Adrenalin (73.9% of patients) in a dose of 0.06±0.03 µg/kg/min and milrinone (48.9% of patients) in a dose of
* Khoa Gây Mê Viện Tim TP Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: ThS BS. Hoàng Anh Khôi, ĐT: 0918557590 Email: josephkhoi@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 88
0.43±0.11 µg/kg/min were the positive inotropic agents of choice for management of LCOS after complete repair
of TOF.
Conclusions: Complete repair of TOF was usually associated with hemodynamic disturbance that had to use
positive inotropic drugs. Adrenalin and milrinone were the first choice agents for management of LCOS after
complete repair of TOF.
Key words: Tetralogy of Fallot, hemodynamic disturbance, low cardiac output syndrome (LCOS), positive
inotropic drugs, complete repair, cardio – pulmonary bypass (CPB).
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tứ chứng Fallot (T4F) là một bệnh lý thường
gặp nhất trong các bệnh tim bẩm sinh tím. Phẫu
thuật triệt để tứ chứng Fallot thường kèm theo
nhiều rối loạn huyết động học ở giai đoạn chu
phẫu(7,11). Do đó chúng tôi làm nghiên cứu này
với mục tiêu: đánh giá tình trạng huyết động
của các bệnh nhân tứ chứng Fallot được phẫu
thuật triệt để và tần suất bệnh nhân bị cung
lượng tim thấp phải sử dụng thuốc tăng co bóp
cơ tim (TCBCT) để cai tuần hòan ngoài cơ thể
(THNCT) trong lúc mổ và ở giai đọan hồi sức
hậu phẫu.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu tiền cứu, phân tích.
Đối tượng nghiên cứu
Tất cả những bệnh nhân T4F được mổ
chương trình tại Viện Tim từ 01/01/2010 đến
31/12/2010 để làm phẫu thuật triệt để, có hay
không có kèm theo shunt Blalock trước mổ.
Loại trừ khỏi nghiên cứu những bệnh nhân
T4F có kèm theo hội chứng không van động
mạch phổi, thiểu sản động mạch phổi hoặc T4F
có kèm kênh nhĩ thất, hẹp van hai lá.
Phương pháp nghiên cứu
Chuẩn bị bệnh nhân
Trước mổ, tất cả bệnh nhân được khám tim
mạch, đo ECG, chụp Xquang tim phổi, làm siêu
âm tim để xác định chẩn đoán, và chụp mạch
máu bằng phương pháp thông tim khi có nghi
ngờ về bất thường mạch vành trên siêu âm.
Phương pháp gây mê hồi sức
Dẫn đầu gây mê bằng phương pháp gây mê
tĩnh mạch thường qui. Theo dõi trong lúc mổ
gồm có ECG, huyết áp động mạch xâm lấn, áp
lực tĩnh mạch trung tâm, nhiệt độ thực quản và
nhiệt độ hậu môn, độ bảo hòa oxy mạch nảy,
lượng nước tiểu mỗi giờ, khí máu động mạch,
điện giải đồ. Phẫu thuật được thực hiện dưới
tuần hòan ngoài cơ thể (THNCT) với máy Sarn,
bộ phận trao đổi oxy lọai màng (Metronic hoặc
Capiox). Heparine (3mg/kg) được tiêm mạch để
duy trì ACT lớn hơn 400 giây trước khi bắt đầu
chạy THNCT và heparine được trung hòa sau
khi ngưng THNCT bằng protamine sulfate.
Ngưng THNCT khi tình trạng huyết động ổn
định. Nếu huyết động không ổn định trong quá
trình cai THNCT, bệnh nhân sẽ được cho thuốc
hỗ trợ huyết động sau khi đã điều chỉnh nhịp
tim, thăng bằng kiềm toan và bù dịch đầy đủ với
áp lực tĩnh mạch trung tâm ≥10-12mmHg. Việc
lựa chọn thuốc TCBCT được quyết định bởi bác
sĩ gây mê dựa trên kinh nghiệm lâm sàng bằng
quan sát trực tiếp khả năng co bóp cơ tim trong
lúc mổ cùng với việc đánh giá tất cả các yếu tố
về huyết động học như tần số tim, huyết áp
động mạch, áp lực tĩnh mạch trung tâm, áp lực
nhĩ trái, tình trạng toan kiềm.
Hồi sức sau mổ
Sau mổ, bệnh nhân được chuyển sang
phòng hồi sức và được tiếp tục các thuốc
TCBCT đã cho từ phòng mổ. Bệnh nhân được
siêu âm tim kiểm tra để đánh giá kết quả phẫu
thuật và chức năng co bóp cơ tim. Nếu huyết
động không ổn định dưới thuốc TCBCT liều cao
và phối hợp nhiều loại thuốc TCBCT, áp lực
tĩnh mạch trung tâm cao>12mmHg, thiểu niệu
hoặc vô niệu, toan chuyển hóa nặng, bệnh nhân
sẽ được chuyển sang phòng mổ để mở xương
ức. Bệnh nhân sẽ được để mở xương ức cho đến
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 89
khi tình trạng huyết động học ổn định và có thể
giảm được đáng kể liều thuốc TCBCT, không
còn tình trạng toan chuyển hóa, lượng nước tiểu
mỗi giờ duy trì >1ml/kg/giờ dưới liều lợi tiểu
thấp, khi đó bệnh nhân sẽ được chuyển sang
phòng mổ để đóng xương ức lại. Bệnh nhân
được duy trì lượng nước tiểu bằng bù dịch và
thêm thuốc lợi tiểu tiêm mạch hoặc truyền tĩnh
mạch liên tục khi thiểu niệu. Nếu bệnh nhân vẫn
tiếp tục bị thiểu niệu hoặc vô niệu dưới lợi tiểu
truyền liên tục, bệnh nhân sẽ được làm thẩm
phân phúc mạc. Duy trì thẩm phân phúc mạc
cho đến khi bệnh nhân có nước tiểu trở lại
>1ml/kg/giờ trong hơn 24 giờ liên tiếp.
Thu thập số liệu
Tuổi, giới tính, cân nặng, đặc điểm lâm sàng
trước mổ, các đặc điểm sinh hóa trước mổ. Thời
gian mổ, thời gian THNCT, thời gian kẹp động
mạch chủ, kết quả sửa chữa hẹp van động mạch
phổi (tính độ chênh áp lực tâm thu giữa thất
phải và động mạch phổi, tỉ lệ giữa áp lực tâm
thu thất phải và áp lực tâm thu động mạch chủ),
các thuốc TCBCT sử dụng trong lúc mổ. Các
thông số huyết động học mỗi 6 giờ từ khi đến
hồi sức cho đến giờ thứ 48 sau mổ bao gồm
mạch, huyết áp, áp lực tĩnh mạch trung tâm,
lactate máu, khí máu động mạch, thời gian thở
máy, thời gian nằm tại hồi sức, các thuốc
TCBCT ở hồi sức, các biến chứng sau mổ, tử
vong trong vòng 30 ngày đầu sau phẫu thuật.
Phân tích và xử lý số liệu
Các biến liên tục được diễn tả dưới dạng các
trị số trung bình ± độ lệch chuẩn (nếu biến có
phân phối bình thường), hoặc trung vị (min,
max) nếu biến không có phân phối bình thường.
Tính tần suất và tỉ lệ phần trăm cho các biến
định tính. So sánh biến liên tục bằng phép kiểm
T (nếu biến có phân phối bình thường) hoặc
phép kiểm Mann-Whitney (nếu biến không có
phân phối bình thường). So sánh tỉ lệ bằng phép
kiểm Chi bình phương. Trị số p <0,05 được xem
là có ý nghĩa thống kê. Xử lý số liệu bằng
phương pháp thống kê với phần mềm SPSS 11.5.
KẾT QUẢ
Từ 01/1/2010 đến tháng 31/12/2010, 92 bệnh
nhân tứ chứng Fallot được phẫu thuật triệt để
tại Viện Tim đã được đưa vào nghiên cứu.
Đặc điểm bệnh nhân trước mổ
Tuổi bệnh nhân khi mổ: trung vị là 4 tuổi,
nhỏ nhất là 6 tháng tuổi, lớn nhất là 35 tuổi. 89%
bệnh nhân được mổ là trẻ em (nhỏ hơn 15 tuổi),
với 73,9% trường hợp là trẻ dưới 7 tuổi. Giới
tính: nam chiếm 58,7%, nữ chiếm 41,3%. Cân
nặng trung bình khi mổ là 17,6 ±13kg (5 - 65kg).
Các triệu chứng lâm sàng chính bao gồm mệt
(22,8%), khó thở (7,6%), ngón tay dùi trống
(27%), tím (81,5%), tiền căn bị ngất do cơn tím
thiếu oxy (8,7%).
Bảng 1: Đặc điểm huyết học và sinh hóa trước mổ
Đặc điểm huyết học
trước mổ
Trung bình Nhỏ
nhất
Lớn
nhất
Dung tích hồng cầu
trước mổ (%)
54,1±13,6 33 85,4
Tiểu cầu trước mổ
(103/ml)
254,5±102,2 20,6 553
Tỉ lệ prothrombine trước
mổ (%)
84,03±13,8 44,0 100
Độ bão hòa oxy (Sa02)
trước mổ (%)
81,8 ±18,9 20,3 99,9
pH trước mổ 7,33±0,06 7,19 7,50
Kiềm dư trước mổ -4,4±3,05 -12 2,6
Đặc điểm phẫu thuật
Đặc điểm phẫu thuật và kết quả sửa chữa hẹp
động mạch phổi (ĐMP)
Thời gian mổ trung bình là 206,2±49,8
phút, thời gian chạy THNCT trung bình là
87,8±23,4 phút và thời gian kẹp động mạch
chủ trung bình là 48,4 ± 15,2 phút.
Bảng 2: Kết quả sửa chữa hẹp động mạch phổi
Kết quả sửa chữa hẹp ĐMP Trung bình
Áp lực tâm thu thất phải (mmHg) 42,5±13,2
Áp lực tâm thu động mạch chủ (ĐMC)
(mmHg)
86,8±11,6
Tỉ lệ áp lực tâm thu thất phải / ĐMC 0,49±0,16
Độ chênh áp lực thất phải -ĐMP (mmHg) 15,9±11,6
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 90
Đặc điểm gây mê hồi sức
Bảng 3: Đặc điểm huyết động sau mổ:
1H sau
mổ
6H sau
mổ
12H sau
mổ
24H sau
mổ
36H sau
mổ
Mạch
(lần/phút)
129 ± 23 131 ± 21 125 ±
21*
123 ±
18*
133 ± 20
HATT
(mmHg)
101 ± 14 96 ± 13* 94 ± 12* 93 ± 12* 89 ± 11*
HATR
(mmHg)
60 ± 10 58 ± 9 58 ± 8 57 ± 8* 53 ± 8*
HATB
(mmHg)
76 ± 11 73 ± 10 72 ± 9* 71 ± 8* 67 ± 9*
ALTTTM
(mmHg)
10,2 ± 2,4 10,1 ±
2,8
10.7 ±
9.6
10,06 ±
2,2
10 ± 2,8
Lactate
(mmol/L)
2,7 ± 2 3,3 ± 1,5
*
3.4 ±
1.5*
2,5 ± 1,1 1,7 ± 0,7
HATT: huyết áp tâm thu, HATR: huyết áp tâm trương,
HATB: huyết áp trung bình, ALTMTT: áp lực tĩnh mạch
trung tâm
*: khác biệt có ý nghĩa thống kê so với giờ thứ 1 sau mổ
(p<0.05)
Bảng 3 cho thấy huyết áp trung bình ở giờ
thứ 12 và 24 sau mổ giảm có ý nghĩa thông kê so
với huyết áp trung bình khi mới đến phòng hồi
sức (p=0,05). Huyết áp tâm thu cũng giảm có ý
nghĩa thống kê từ sau giờ thứ 6 sau mổ (p<0,05).
Áp lực tĩnh mạch trung tâm thì khác biệt không
có ý nghĩa thống kê giữa các thời điểm sau mổ.
Lactate máu thì tăng lên có ý nghĩa thống kê ở
giờ thứ 6 và giờ thứ 12 sau mổ so với lactate
máu cuối mổ (p<0,05).
Tại phòng mổ, 80 trường hợp (86,9%) được
sử dụng thuốc TCBCT để hỗ trợ huyết động khi
cai THNCT với tần suất sử dụng từng loại thuốc
như sau: adrenaline (71,7%), milrinone (48,9%),
noradrenaline (8,7%). Trong đó, có 43 trường
hợp chỉ sử dụng một loại thuốc TCBCT như
adrenaline: 33 trường hợp (35,8%), milrinone: 9
trường hợp (9,7%), noradrenaline: 1 trường hợp.
36 trường hợp sử dụng hai loại thuốc TCBCT,
mà chủ yếu là adrenaline phối hợp với
milrinone: 31 trường hợp (33,6%). 1 trường hợp
sử dụng cả 3 loại thuốc TCBCT là adrenaline,
milrinone và noradrenaline. Không có trường
hợp nào sử dụng dobutamine hoặc dopamine
(bảng 4).
Bảng 4: Liều từng loại thuốc TCBCT sử dụng tại
phòng mổ
Thuốc TCBCT Số TH Liều (µg /kg/phút) Tỉ lệ (n=92)
Adrenaline 66 0,06±0,03 71,7%
Milrinone 45 0,43±0,11 48,9%
Noradrenaline 7 0,09±0,03 8,7%
Tại hồi sức, 82 trường hợp (89,1%) được sử
dụng thuốc TCBCT, trong đó 42 trường hợp sử
dụng 1 loại thuốc TCBCT là adrenaline (31 TH),
milrinone (8 TH) và noradrenaline (3TH), 33
trường hợp sử dụng 2 loại thuốc TCBCT:
adrenaline phối hợp milrinone (27 TH),
adrenaline phối hợp noradrenaline (3TH),
milrinone phối hợp noradrenaline (3TH), 7
trường hợp sử dụng cả 3 loại thuốc TCBCT là
adrenaline, milrinone va noradrenaline (bảng 5).
Bảng 5: Liều và thời gian sử dụng từng loại thuốc
TCBCT tại hồi sức
Thuốc
TCBCT
Số
TH
Liều (µg
/kg/phút)
Thời gian sử
dụng (giờ)
Tỉ lệ
(n=92)
Adrenaline 68 0,07±0,04 51,9 (2-240) 73,9%
Milrinone 45 0,43±0,11 43 (10-216) 48,9%
Noradrenaline 15 0,11±0,04 85 (12-216) 16,3%
Thời gian thở máy, thời gian nằm hồi sức, thời
gian nằm viện
Trung vị thời gian thở máy là 10 giờ (3-240
giờ), trung vị thời gian nằm hồi sức là 2 ngày (1-
15 ngày), trung vị thời gian nằm viện là 9 ngày
(5-32 ngày).
Biến chứng và tử vong sau mổ
Biến chứng
Các biến chứng sau mổ bao gồm:
Suy chức năng thận ở 2 trường hợp (2,1%):
được xử trí bằng thẩm phân phúc mạc. Bệnh
nhân thứ nhất được làm thẩm phân phúc mạc từ
ngày thứ 1 hậu phẫu cho đến ngày thứ 6 hậu
phẫu. Bệnh nhân thứ hai được làm thẩm phân
phúc mạc vào giờ thứ 6 hậu phẫu sau khi cấp
cứu ngưng tim do tai biến chảy máu cấp tính
lượng nhiều vào giờ thứ 3 hậu phẫu. Thẩm
phân phúc mạc cho đến ngày thứ 3 hậu phẫu thì
chức năng thận phục hồi, ngưng thẩm phân
phúc mạc. Tuy nhiên bệnh nhân này tử vong
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 91
vào ngày 11 hậu phẫu do mất não sau di chứng
của quá trình ngưng tim khi chảy máu lượng
nhiều.
Tràn dịch màng phổi lượng nhiều cần phải
dẫn lưu màng phổi trong 8 trường hợp (8,7%),
trong đó có 3 trường hợp bị tràn dịch màng phổi
do dưỡng chấp. Ngoài ra, các biến chứng khác
là: chảy máu nhiều phải mổ lại để cầm máu ở 2
trường hợp, 2 trường hợp bị tràn dịch màng
ngoài tim phải mổ dẫn lưu dịch và 2 trường hợp
phải mở xương ức sau mổ để hỗ trợ huyết động,
Nhiễm trùng hậu phẫu phải sử dụng kháng sinh
trong 12 trường hợp, liệt cơ hoành: 1 trường
hợp, tổn thương thần kinh với biểu hiện gồng
cứng tay chân, tiếp xúc chậm: 1 trường hợp.
Tử vong
Có 1 trường hợp (1,1%) bị tử vong do tai
biến chảy máu cấp tính lượng nhiều sau mổ gây
ngưng tim. Sau khi được hồi sức cấp cứu và mổ
lại cầm máu, bệnh nhân phục hồi lại mạch và
huyết áp, tuy nhiên do thời gian ngưng tim kéo
dài gây ra di chứng mất não, bệnh nhân tử vong
ngày thứ 11 sau mổ.
BÀN LUẬN
Biến chứng thường gặp nhất sau mổ tim
bẩm sinh là hội chứng cung lượng tim thấp,
được xác định bởi chỉ số tim nhỏ hơn
2L/phút/m2(14). Nghiên cứu của chúng tôi cho
thấy số bệnh nhân cần phải sử dụng thuốc
TCBCT trong mổ (86,9%) và sau mổ (89,1%)
chiếm tỉ lệ khá cao do huyết động không ổn
định ở giai đọan cai THNCT cũng như ở giai
đọan hồi sức sau mổ. Nghiên cứu của
Dyamenahalli và cộng sự(6) trên 89 trẻ em dưới
18 tháng tuổi sau phẫu thuật triệt để T4F cho
thấy tỉ lệ bệnh nhân có cung lượng tim thấp và
phải dùng thuốc TCBCT sau mổ là 84%. Nghiên
cứu của Van Dongen và cộng sự(13) cho thấy tỉ lệ
bệnh nhân T4F sau phẫu thuật triệt để phải
dùng thuốc TCBCT là 83%. Tỉ lệ bệnh nhân bị
rối lọan huyết động chu phẫu và cần hỗ trợ
thuốc TCBCT trong nghiên cứu của chúng tôi
tương đương với các tác giả trên.
Wernovsky và cộng sự(14) cho thấy rằng rối
lọan chức năng tim xảy ra nhiều nhất trong
khoảng 4-12 giờ sau khi ngưng THNCT. André
và cộng sự(1) cho thấy rằng 6-8 giờ đầu tiên ở
phòng săn sóc tích cực sau mổ tim là giai đọan
rất quan trọng vì dễ xảy ra tình trạng huyết
động không ổn định. Các thông số huyết động
trong nghiên cứu của chúng tôi cũng cho thấy
sự thay đổi có ý nghĩa thống kê về mạch, huyết
áp từ sau giờ thứ 6 đến giờ thứ 12 sau mổ. Nồng
độ lactate máu cũng tăng lên có ý nghĩa thống
kê từ giờ thứ 6 đến giờ thứ 12 sau mổ, sau đó
giảm dần về bình thường ở giờ thứ 36-48. Việc
theo dõi nồng độ lactate máu sau mổ tim rất có
giá trị, giúp tiên lượng tỉ lệ biến chứng và tử
vong sau mổ tim(5). Nghiên cứu của Cheifetz và
cs(5) cho thấy những bệnh nhân dưới 1 tuổi sau
phẫu thuật tim phức tạp nếu có lactate máu cuối
mổ lớn hơn 7mmol/L, hoặc lactate máu vào giờ
4-6 sau mổ >4 mmol/L hoặc nồng độ lactate máu
cao nhất > 9 mmol/L thì có nguy cơ cao bị tử
vong sau mổ. Lactate máu trong nghiên cứu của
chúng tôi đều trong giới hạn chấp nhận được,
mức cao nhất là 3,4±1,5 mmol/L vào giờ thứ 12
sau mổ.
Thuốc TCBCT được chọn lựa hàng đầu để
hỗ trợ huyết động trong nghiên cứu của
chúng tôi là adrenaline (73,9%), kế đến là
milrinone (48,9%). Noradrenaline chỉ được sử
dụng trong những trường hợp dãn mạch quá
nhiều gây tụt huyết áp dù đã bù dịch đầy đủ.
Adrenaline là một thuốc TCBCT mạnh hơn
dopamine do tác dụng kích thích của nó lên
thụ thể 1 và 1 trên tim mạnh hơn dopamine.
Bệnh nhân tứ chứng Fallot thường có hiện
tượng liệt mạch sau mổ với các biểu hiện như
tay chân ấm, nhịp tim nhanh, huyết áp
thấp(10). Hiện tượng này thường xảy ra ở bệnh
nhân có dung tích hồng cầu cao trước mổ.
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy có đến
40% bệnh nhân có dung tích hồng cầu trước
mổ lớn hơn 55%, và 81,5% trường hợp có dấu
hiệu tím trước mổ. Điều này giải thích tỉ lệ
cao bệnh nhân được sử dụng adrenaline làm
thuốc TCBCT chọn lựa đầu tiên để hỗ trợ
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 92
huyết động: trong số 82 bệnh nhân cần sử
dụng thuốc TCBCT chu phẫu, có đến 68 bệnh
nhân được cho adrenaline như là thuốc
TCBCT chọn lựa đầu tiên. Adrenaline là một
thuốc TCBCT thuộc nhóm kích thích giao
cảm, có tác dụng đồng vận trên nhiều loại thụ
thể giao cảm khác nhau tùy theo liều lượng.
Liều adrenaline sử dụng trong nghiên cứu của
chúng tôi là 0,06±0,03µg /kg/phút, đây là liều
thấp, vừa có tác dụng kích thích 1 làm tăng co
bóp cơ tim, vừa có tác dụng kích thích 1 làm
tăng kháng lực mạch máu hệ thống.
Milrinone được sử dụng trong 48,9%
trường hợp với liều 0,43±0,11 µg/kg/phút.
Đây là mức liều trung bình, vì milrinone có
thể sử dụng với liều 0,25 - 0,75 µg/kg/phút.
Một cách truyền thống, các thuốc TCBCT
nhóm giao cảm như dopamine, dobutamine,
adrenaline và noradrenaline thường được sử
dụng sau mổ tim. Tuy nhiên các thuốc này
cũng gây ra nhiều tác dụng phụ như nhịp tim
nhanh, làm tăng tiêu thụ oxy cơ tim, gây ra
hiện tượng điều hòa xuống (down-regulation)
của các thụ thể giao cảm bêta, và tăng kháng
lực mạch máu hệ thống. Khác với các thuốc
TCBCT nhóm giao cảm, milrinone là một
thuốc TCBCT độc lập với sự kích thích của
các thụ thể giao cảm: giống như tiền chất của
nó là amrinone nhưng mạnh hơn amrinone
gấp 20 lần, milrinone là một dẫn xuất của
bipyridine, làm tăng co bóp cơ tim bằng cách
ức chế men phosphodiesterase III, dẫn đến
tăng nồng độ AMP vòng ở cơ tim và cơ trơn
mạch máu, làm tăng nồng độ canxi nội bào ở
cơ tim gây tăng sức co bóp cơ tim. Milrinone
cải thiện chức năng tâm thu và tâm trương,
làm tăng cung lượng tim, làm giảm kháng lực
mạch máu hệ thống và giảm kháng lực mạch
máu phổi(2,4). Milrinone có thể sử dụng riêng
một mình hoặc phối hợp với một thuốc
TCBCT nhóm giao cảm(4). Milrinone đã được
chứng minh là một thuốc TCBCT hiệu quả ở
trẻ em cũng như người lớn có bệnh lý tim(12,15).
Milrinone cũng được sử dụng phòng ngừa
khi cai THNCT cho các bệnh nhân có nguy cơ
cao bị hội chứng cung lượng tim thấp sau mổ
tim(9). Nghiên cứu PRIMACOPR(9) của
Hoffman và cộng sự đã chứng minh sự an
toàn và hiệu quả của milrinone trong phòng
ngừa hội chứng cung lượng tim thấp trên trẻ
sơ sinh và trẻ em sau phẫu thuật tim bẩm
sinh. Đây là một nghiên cứu tiền cứu, ngẫu
nhiên, mù đôi, có nhóm chứng thực hiện trên
238 bệnh nhân, kết quả cho thấy việc sử dụng
milrinone liều cao (0,75µg /kg/phút) giúp
giảm được đến 64% nguy cơ bị hội chứng
cung lượng tim thấp sau mổ tim bẩm sinh ở
trẻ em. Ngày nay điều trị hội chứng cung
lượng tim thấp sau mổ tim nhi bằng cách phối
hợp adrenaline liều thấp với milrinone là một
điều trị thường qui ở nhiều trung tâm mổ tim
lớn trên thế giới. Việc phối hợp một thuốc
TCBCT thuộc nhóm ức chế men
phosphodiesterase và một thuốc TCBCT
nhóm giao cảm giúp cải thiện huyết động
nhiều hơn, tránh được các tác dụng phụ của
từng loại thuốc khi dùng liều cao và đặc biệt
sự phối hợp hai thuốc TCBCT này có lợi trong
các suy thất phải nặng(3).
Các bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng
tôi đều phục hồi chức năng tim tốt với trung vị
thời gian thở máy (10 giờ), trung vị thời gian
nằm hồi sức (2 ngày) và trung vị thời gian nằm
viện (9 ngày) đều khá ngắn. Chỉ có một trường
hợp tử vong sớm sau mổ (1,1%) do tai biến chảy
máu cấp tính lượng nhiều. Kết quả phẫu thuật
này là rất tốt và có thể so sánh được với kết quả
phẫu thuật của các trung tâm mổ tim lớn trên
thế giới hiện nay(8).
KẾT LUẬN
Phẫu thuật triệt để T4F thường kèm theo
tình trạng huyết động không ổn định sau mổ
dẫn đến việc phải sử dụng một hoặc nhiều loại
thuốc TCBCT. Tuy nhiên hầu hết bệnh nhân đều
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 93
phục hồi chức năng tim tốt. Các thuốc TCBCT
thường được chọn lựa để điều trị tình trạng
cung lượng tim thấp là adrenaline, milrinone và
noradrenaline, trong đó adrenaline liều thấp
phối hợp với milrinone liều trung bình là những
thuốc TCBCT được chọn lựa hàng đầu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. André AC, Delrossi A, (2005), Hemodynamic management of
patients in the first 24 hours after cardiac surgery, Crit Care Med,
33: 2082-2093.
2. Bailey JM, Miller BE, Lu W et al, (1999), The pharmacokinetics of
milrinone in pediatric patients after cardiac surgery,
Anaesthesiology, 90: 1012-1018.
3. Bondy R, Ramsay JG, (1991): Reversal of refractory right
ventricular failure with amrinone, J Cardiothorac Anesth, 5: 255.
4. Chang AC, Atz AM, Wernovsky G et al, (1995), Milrinone:
systemic and pulmonary hemodynamic effects in neonates after
cardiac surgery, Crit Care Med 1995;23: 1907-14.
5. Cheifetz IM, Kern FH, Schulman SR, Greeley WJ et al, (1997),
Serum lactate correlate with mortality after operations for
complex congenital heart disease, Ann Thorac Surg, 64(3): 735-
738.
6. Dyamenahalli U, C,B,, Barker GA, et al, (2000), Influence of
perioperative factors on outcomes in children younger than 18
months after repair of tetralogy of Fallot, Ann Thorac Surg, 69:
1236-1242.
7. Greeley WJ, et al (2005), Anesthesia for pediatric cardiac surgery,
In: Ronald D, Miller (eds), Miller's anesthesia, Vol,2, sixth edition,
pp 2032-2033, Elsevier, Churchill Livingstone, Philadelphia.
8. Hirsch JC, et al (2000), Complete repair of tetralogy of Fallot in
the neonate, Results in the modern era, Ann Surg, 232: 508-514.
9. Hoffman TM, et al (2003), Efficacy and safety of milrinone in
preventing low cardiac output syndrome in infants and children
after corrective surgery for congenital heart disease, Circulation,
107: 996-1002.
10. Kirklin JW, et al (2003),Ventricular septal defect and pulmonary
stenosis or atresia, In: B,E, Kouchoukos NT, Doty DB, Hanly FL,
Karp RB (eds), Cardiac Surgery, Third edition, Chirchill
Livingstone, Philadelphia.
11. Parr GVS, Blackstone EH, Kirlin JW, (1975), Cardiac
performance and mortality early after intracardiac surgery in
infants and young children, Circulation, 51: 867-874.
12. Ramamoorthy C, Anderson GD, Williams GD et al, (1998),
Pharmacokinetics and side effects of milrinone in infants and
children after open heart surgery, Anesth Analg, 86: 283-289.
13. Van Dongen EI, et al, (2003), The influence of perioperative
factors on outcomes in children aged less than 18 months after
repair of tetralogy of Fallot, J, Thorac Cardiovasc Surg, 126: 703-
710.
14. Wernovsky G, Wypij D, Jonas R, et al, (1995), Postoperative
course and hemodynamic profile after the arterial switch
operation in neonate and infants, Circulation, 92: 2226-2235.
15. Wright E, Skoyles J, Sherry M, (1992) Milrinone in the treatment
of low cardiac output states following cardiac surgery, Eur J
Anaesthesiol, 515 (Suppl): 21-26.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_gia_va_xu_tri_roi_loan_huyet_dong_tren_cac_benh_nhan_tu.pdf