Nghiên cứu văn hoá ứng xử là vấn đề
không đơn giản, đòi hỏi tầm nhìn nhiều chiều
và nhiều phương pháp, bởi du lịch là một hoạt
động tổng hợp có liên hệ với nhiều lĩnh vực
khác. Sử dụng định lượng, tức là phận định rạch
ròi các tiêu chí đánh giá và cố gắng lượng hoá
chúng bằng điểm số trong đánh giá văn hoá ứng
xử du lịch không phải là pháp pháp toàn diện.
Bởi dù có đa dạng đến đâu, các tiêu chí ấy vẫn
xuất phát từ con mắt chủ quan của người nghiên
cứu. Tuy nhiên, bài nghiên cứu muốn thông qua
các con số để thể hiện một cách nhìn toàn cảnh
về sự yếu kém trong văn hoá ứng xử du lịch tại
một số điểm du lịch đặc biệt quan trọng có thể
đại diện cho hình ảnh của cả đất nước Việt
Nam, một đất nước tự hào giàu truyền thống
văn hoá. Thông qua đó, bài nghiên cứu cũng thể
hiện tham vọng phương pháp được sử dụng như
là một công cụ đánh giá, có thể được kết hợp
với các phương pháp khác trong quá trình
nghiên cứu, đánh giá và đề xuất các giải pháp
cải thiện môi trường du lịch Việt Nam hoàn
thiện hơn.
8 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 745 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá văn hóa ứng xử trong du lịch bằng phương pháp định lượng: Nghiên cứu các điểm du lịch vùng Bắc bộ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 28 (2012) 158‐165
158
Đánh giá văn hóa ứng xử trong du lịch bằng phương pháp
định lượng: Nghiên cứu các điểm du lịch vùng Bắc bộ
Cao Hoàng Hà*
Khoa Việt Nam học - Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội,
101 nhà D3, 136 Xuân Thuỷ, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 12 tháng 7 năm 2012
Tóm tắt: Bài nghiên cứu tiến hành lựa chọn các đối tượng và nhóm tiêu chí tương ứng. Trong mỗi
tiêu chí, tác giả chia thành các tiêu chí chi tiết, sau đó thiết lập hệ số và lên thang điểm cho chúng.
Nhóm phương pháp điều tra xã hội học được sử dụng để thu thập thông tin và đánh giá điểm số về
văn hoá ứng xử tại 25 điểm du lịch tại vùng du lịch Bắc Bộ.
1. Khái quát chung*
Du lịch là một hoạt động tổng thể của nhiều
thành phần và đối tượng. Trong du lịch, khách
du lịch là chủ thể với nhu cầu tìm hiểu và giao
lưu tại điểm đến, tài nguyên du lịch là khách thể
và các cơ sở cung ứng là đơn vị trung gian kết
nối giữa chủ thể và khách thể. Tuy nhiên, hoạt
động du lịch không chỉ dừng lại trong mô tả
đơn giản như vậy, bởi có một mối quan hệ
tương tác phức tạp của các thành phần tham
gia, trong đó, tổng thể các mối quan hệ và ứng
xử của người phục vụ và dân cư tại điểm đến
góp một vai trò tiên quyết cho sự hài lòng của
du khách. Văn hoá vừa là mục tiêu mang tính
định hướng vừa là bản chất đích thực của du
lịch Việt Nam(1), tuy nhiên văn hoá ứng xử đối
với khách du lịch ở Việt Nam đang có những
vấn đề bất cập. Rất nhiều điểm du lịch đang ở
trong tình trạng “văn hoá ứng xử” kém, diễn
biến ngày càng trầm trọng hơn.
______
* ĐT: 84-904833289.
E-mail: havns.edu@gmail.com
(1) Bùi Thanh Thủy, trong chuyên mục Trao đổi - Web Đại
học Văn hóa Hà Nội.
Vùng du lịch Bắc Bộ nước ta bao gồm 28
tỉnh - thành phố kéo dài từ Hà Giang ở phía Bắc
đến Hà Tĩnh ở phía Nam, Điện Biên ở phía Tây
và Quảng Ninh ở phía Đông. Toàn vùng có iện
tích 150.066,8 km2 và dân số 39,01 triệu người
(2008), chiếm 45,3% diện tích tự nhiên và
45,2% dân số cả nước [1]. Với điều kiện tự
nhiên và nhân văn phong phú và đang dạng,
vùng có nhiều điểm du lịch hấp dẫn, nổi tiếng
trong cả nước. Tuy nhiên, với khả năng hạn chế
về quản lý, tư duy và tác phong nghề còn manh
mún đem lại một hệ thống các hệ quả tiêu cực.
Văn hóa giao tiếp và ứng xử trong khu vực là
vấn đề cần chấn chỉnh. Vì vậy, tìm hiểu và đánh
giá văn hoá ứng xử trong du lịch, từ đó có
những giải pháp chấn chỉnh kịp thời và hữu
hiệu không chỉ là trách nhiệm của riêng ai. Ở
phạm vi bài nghiên cứu, chúng tôi chú trọng
đến việc đánh giá văn hoá ứng xử du lịch tại
vùng du lịch Bắc Bộ - một khu vực điển hình
bằng định lượng hoá, tức là cụ thể hoá các tiêu
chí, lên thang điểm và chấm điểm cho các tiêu
chí đó với hy vọng ở bất kì đâu cũng có thể áp
dụng cách đánh giá này. Để đảm bảo sự chính
xác về mặt định lượng, phương pháp điều tra xã
C.H. Hà / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 28 (2012) 158‐165 159
hội học với tính đa dạng, khách quan và nhiều
chiều trong điều tra là yếu tố quyết định.
2. Kết quả nghiên cứu
2.1. Các tiêu chí đánh giá văn hoá ứng xử du lịch
Tại một điểm đến du khách có thể hài lòng
ở các yếu tố như vẻ đẹp và hấp dẫn của tài
nguyên; tính chuyên nghiệp, uy tín trong phục
vụ của các đơn vị cung ứng và thái độ, sự cởi
mở, thân thiện của dân cư. Muốn đánh giá được
ứng xử tại điểm nói chung đến đã hài lòng du
khách hay chưa phải điều tra trực tiếp vào thái
độ của du khách sau chuyến đi bằng các câu hỏi
thực tế. Vấn đề quan trọng nằm ở chỗ các tiêu
chí và câu hỏi thay vì mang cảm tính đánh giá
chủ quan nên tập trung vào mô tả thực tế các
hiện tượng - dấu hiệu, từ đó quy định thang
điểm phân loại cho các hiện tượng. Do đó, câu
hỏi phải nhắm vào mức độ an toàn và tiện nghi
dành cho du khách; tình trang khai tác tài
nguyên, ô nhiễm môi trường, cách cư xử, phục
vụ, tập quán sinh hoạt và giao tiếp của địa
phương thông qua quan sát từ chính du khách.
Các tiêu chí đánh giá văn hoá ứng xử địa
phương tập trung vào ba đối tượng sau: Hệ
thống quản lý địa phương, Các đơn vị cung ứng
dịch vụ và Dân cư. Ba đối tượng trên đều có
những tiêu chí tương ứng khi đánh giá và mỗi
tiêu chí có tầm quan trọng riêng.
- Đối với đối tượng là Hệ thống quản lý địa
phương, có 9 nhóm tiêu chí, mối nhóm tiêu chí
có một hệ số riêng như sau:
+ Ban Quản lý và mức độ phản ứng khi du
khách gặp bất lợi (hệ số 2): Những vấn đề bất
cập nảy sinh đối với khách phải được giải quyết
nhanh chóng, kịp thời và hiệu quả. Bởi vậy, tại
mỗi điểm du lịch phải có Ban Quản lý và dấu
hiệu đánh giá Ban Quản lý có làm việc hiệu quả
hay không là từ những vấn đề du khách gặp
phải (thất lạc đồ đạc, mất trộm, mất cắp, lạc
người) được trợ giúp nhanh chóng.
+ Mật độ và cách bố trí các cơ sở buôn bán,
kinh doanh nhỏ lẻ (hàng lưu niệm, giải khát, và
một vài cơ sở phục vụ tự do) (hệ số 2): Các cơ
sở buôn bán kinh doanh nếu không được quy
hoạch chi tiết và hợp lý sẽ dẫn đến tình trạng
lôn xộn, lấn chiếm khu du lịch và công cộng,
gây phiền toái cho du khách.
+ Bảng chỉ dẫn, biển báo và trung tâm cung
cấp thông tin tại điểm du lịch (hệ số 1): đối với
khách du lịch nước ngoài đã đi du lịch chuyên
nghiệp thì biển báo, biển chỉ dẫn hoặc trung
tâm cung cấp thông tin có vai trò khá quan
trọng. Du khách có thể tự do tham quan tìm
hiểu mà không gặp rắc rối hoặc phiền toái do
những rào cản về ngôn ngữ và phong tục.
+ Mức độ tiện nghi và khả năng sử dụng
của các dịch vụ công cộng: giao thông, thông
tin, y tế (hệ số 1): các dịch vụ công cộng góp
phần tăng tiện nghi và chất lượng phục vụ trong
chuyến du lịch. Du khách cảm thấy được đối xử
công bằng và không bị cản trở các thói quen
sinh hoạt hàng ngày.
+ Bố trí nơi chứa rác thải và tính hợp lý
trong cách bố trí (hệ số 2): Không thể nói một
điểm du lịch có trình độ văn hoá phát triển, ứng
xử lịch sự với du khách khi rác thải bừa bãi, xử
lí không triệt để. Điểm số của các điểm du lịch
trong tiêu chí này thường thấp bởi vấn đề xử lí
xả rác và xử lí tại Việt Nam thường được du
khách đánh giá thấp.
+ Mức độ ô nhiễm môi trường và cảnh quan
(hệ số 2): Môi trường bị ô nhiễm không thể tạo
ra một điều kiện thuận lợi cho chuyến du lịch
thành công. Tâm lý du khách sẽ thoải mái hơn
khi điều kiên môi trường trong sạch và cảnh
quan hài hoà.
+ Mật độ các hòm công đức tại các điểm du
lịch tâm linh (hệ số 1): Hòm công đức là hình
thức ghi nhận tiền ủng hộ của du khách góp
phần tôn tạo và bảo vệ chính khu du lịch tâm
linh. Tuy nhiên, sự yếu kém trong quản lý và
nạn tham ô khiến cho tiền công đức của du
khách không được sử dụng đúng mục đính. Số
lượng hòm công đức ngày càng tăng thể hiện
tính thương mại trong du lịch tâm linh có xu
hướng tăng lên.
+ Tần suất khai thác điểm du lịch và mức
độ can thiệp vào cảnh quan tự nhiên tại điểm du
C.H. Hà / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 28 (2012) 158‐165 160
lịch (hệ số 1) [2]: tần suất và số lượng du khách
vượt quá sức chứa của điểm du lịch gây nên
những tác động phức tạp về tự nhiên và xã hội,
một loạt hệ quả về khả năng phục vụ, thái độ
phục và sự tiện nghi trong chuyến tham quan;
ngoài ra còn phải kể đến lực đẩy của địa
phương, nhất là dân cư không tham gia vào
hoạt động du lịch gây ra xung đột do cuộc sống
hàng ngày bị ảnh hưởng. Tài nguyên và cảnh
quan tự nhiên vốn có bị thay đổi bằng các công
trình nhân tạo hoặc các kiến trúc mới không
phù hợp làm cho chất lượng bị xuống cấp.
- Đối với các đơn vị cung ứng dịch vụ, có 5
nhóm tiêu chí, bao gồm:
+ Trang phục của nhân viên, người phục vụ
hoặc người bán hàng (hệ số 1): trang phục gọn
gàng, lịch sự, ưa nhìn và được đồng phục tạo ra
ấn tượng ban đầu với du khách; cảm giác được
tôn trọng trong du khách là thành công của
doanh nghiệp.
+ Khả năng sử dụng ngoại ngữ (hệ số 1):
nhân viên hoặc hướng dẫn viên sử dụng ngoại
ngữ một cách lưu loát và chính xác tạo nên tính
chuyên nghiệp trong phục vụ. Dịch vụ và phong
cách phục vụ càng chuyên nghiệp, khả năng phục
vụ và mức độ hài lòng của du khách càng cao.
+ Thái độ phục vụ của nhân viên, người
phục vụ hoặc người bán hàng (hệ số 3): nhóm
tiêu chí này đóng vai trò cực kì quan trọng
trong việc quyết định thành công hay thất bại
của chương trình du lịch. Nhận xét, đánh giá
của du khách về cả đất nước Việt Nam hay cả
một vùng có thể xuất phát từ chính giao tiếp với
nhân viên hoặc người phục vụ.
+ Chất lượng dịch vụ du khách của các đơn
vị cung ứng (hệ số 3): đây là nhóm chỉ tiêu thứ
2 được đánh hệ số 3, bởi không thể nói chương
trình du lịch là thành công và để lại ấn tượng tốt
với du khách khi chất lượng phục vụ thấp, công
ty áp đặt tăng chi phí phát sinh hoặc nhân viên
trễ giờ
+ Sự tư vấn, độ chính xác và hiệu quả của
tư vấn từ nhân viên phục vụ (hệ số 2): Khách
du lịch sẽ đánh giá cao sự nhiệt tình và uy tín
của nhân viên khi chương trình du lịch của họ
thành công do có sự tư vấn nhiệt tình và hiệu
quả. Lòng tin của du khách đối với các cơ sở
cung ứng dịch vụ là yếu tố quan trọng trong
quyết định quay lại Việt Nam lần sau.
- Dân cư địa phương: Bản chất và quy luật
của hoạt động du lịch là giao lưu và tương tác
về con người và văn hoá. Văn hoá bản địa càng
độc đáo, xa lạ với khách du lịch càng hấp dẫn
bởi tính mới lạ. Dân cư địa phương dù trực tiếp,
gián tiếp hay không tham gia hoạt động du lịch
cũng đều là đối tượng tham quan của khách du
lịch. Do vậy, nhóm đối tượng này có một vai
trò quan trọng trong bảng điểm định lượng hoá
văn hoá ứng xử. Các tiêu chí đánh giá dân cư
địa phương bao gồm:
+ Khách tham quan nhưng không mua hàng
và phản ứng của người phục vụ (hệ số 3): một
hành động nhỏ của dân cư dù tiêu cực hay tích
cực lúc này để lại cho khách du lịch một ấn
tượng sâu sắc. Đối với du khách nước ngoài, có
thể đem lại một tầm nhìn gán cho dân cư của cả
đất nước Việt Nam.
+ Công khai bảng giá dịch vụ, sự chênh
lệch mức giá thoả thuận ban đầu (hoặc giá niêm
yết) với giá khi thanh toán (hệ số 3).
+ Mức độ đa dạng và tính bản địa của hàng
lưu niệm và đặc sản địa phương (hệ số): giảm
bớt sự nhàm chán đơn điệu, kích thích nhu cầu
tiêu dùng của du khách.
+ Việc buôn bán các loại mặt hàng cấm cho
khách du lịch (hệ số 2): phát hiện ra việc dân cư
địa phương đã khai thác các mặt hàng cấm và bán
cho mình có thể khiến du khách mất lòng tin.
+ Sự tương đồng về hàng hoá và sản phẩm
dịch vụ (hệ số 1): ở đâu đâu du khách cũng có
thể mua đồ gốm, ngọc trai hoặc vỏ sò làm giảm
giá trị của hàng lưu niệm Việt Nam.
+ Hiện tượng đeo bám, tranh giành, ép và
doạ dẫm khách (hệ số 3) [2]: đây là nguyên
nhân mấu chốt gây nên xu hướng quyết định
không quay lại Việt Nam của du khách.
+ Hiện tượng ăn xin, móc túi, cướp giật và
các tệ nạn xã hội khác (hệ số 3): tuy không còn
quá phổ biến, nhưng bất kì điểm du lịch nào còn
C.H. Hà / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 28 (2012) 158‐165 161
tồn tại hiện tượng này là đang tự huỷ hoại giá trị
và sụt giảm số lượng khách trong tương lai.
+ Thói quen sinh hoạt của dân cư địa
phương (hệ số 3): nhiều bộ phận dân cư không
liên quan tới du lịch và khách du lịch nhưng họ
là đối tượng tham quan của du khách. Theo
nhiều du khách, bản chất văn hoá của Việt Nam
được thể hiện qua hành vi thường ngày trong
dân cư.
2.2. Các điểm du lịch được đánh giá
Căn cứ vào những giới hạn về không gian và
thời gian, điều kiện khách quan và chủ quan, bài
nghiên cứu chỉ tập trung vào các điểm du lịch có ý
nghĩa quốc gia và vùng tại vùng du lịch Bắc Bộ
với 28 tỉnh [1]. Các điểm du lịch được đánh giá ở
đây được tính đến cấp độ lãnh thổ nhỏ nhất có thể,
bao gồm phần khuc vực phục vụ cho du lịch và
khu vực phi du lịch nhưng chứa các đối tượng liên
quan gián tiếp tới du lịch
Bảng 1. Các điểm du lịch được lựa chọn
Stt Điểm du lịch Tỉnh - Thành phố Tiểu vùng
1. Phố cổ Hà Nội và phụ cận Hà Nội Trung tâm
2. Chùa Hương Hà Nội Trung tâm
3. Khu di tích Phủ chủ tịch Hà Nội Trung tâm
4. Vịnh Hạ Long Quảng Ninh Duyên hải Đông Bắc
5. Yên Tử Quảng Ninh Duyên hải Đông Bắc
6. Cát Bà Hải Phòng Duyên hải Đông Bắc
7. Đồ Sơn Hải Phòng Duyên hải Đông Bắc
8. Đền Hùng Phú Thọ Trung tâm
9. Khu di tích Điện Biên Phủ Điện Biên Miền núi Tây Bắc
10. Mai Châu Hoà Bình Miền núi Tây Bắc
11. Sa Pa Lào Cai Miền núi Đông Bắc
12. Tân Trào Tuyên Quang Miền núi Đông Bắc
13. Hồ Núi Cốc Thái Nguyên Miền núi Đông Bắc
14. Hồ Ba Bể Bắc Kạn Miền núi Đông Bắc
15. Pắc Pó Cao Bằng Miền núi Đông Bắc
16. Nhất - Nhị - Tam Thanh Lạng Sơn Miền núi Đông Bắc
17. Côn Sơn - Kiếp Bạc Hải Dương Trung tâm
18. Đền Trần Nam Định Trung tâm
19. Tam Cốc - Bích Động Ninh Bình Trung tâm
20. Bái Đính Ninh Bình Trung tâm
21. VQG Cúc Phương Ninh Bình Trung tâm
22. Sầm Sơn Thanh Hoá Phía Nam
23. Cửa Lò Nghệ An Phía Nam
24. Khu di tích quê Bác Nghệ An Phía Nam
25. Ngã ba đồng Lộc Hà Tĩnh Phía Nam
U
Thực tế nghiên cứu tại các điểm du lịch
được lựa chọn, một vấn đề nhận thấy khá rõ nét
là mức độ quan trọng và ý nghĩa của từng đối
tượng đánh giá có sự khác nhau. Tuy được lựa
chọn là đối tượng quan trọng nhất và các tiêu
chí thường có hệ số 3 nhưng văn hoá ứng xử
của dân cư địa phương không hoàn toàn đồng
nhất tại các điểm du lịch. Tại điểm các du lịch
mang ý nghĩa trọng điểm quốc gia như khu dich
tích Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngã ba Đồng Lộc
được quy hoạch và quản lý nghiêm ngặt thì vai
trò của các cấp quản lý cao hơn so với dân cư địa
phương bởi trong quy hoạch của khu di tích đã
tách xa khu dân cư.
2.3. Phương pháp định lượng hoá văn hoá ứng
xử trong du lịch
Với đặc thù phức tạp và khó phân biệt của
văn hoá ứng xử nói chung, cần cố gắng lượng hoá
tối đa các nhóm tiêu chí thông qua các tiêu chí cụ
C.H. Hà / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 28 (2012) 158‐165 162
thể. Mỗi tiêu chí sẽ có vai trò, ý nghĩa khác nhau,
với hệ thống điểm là 3, 1, 0 căn cứ vào 3 mức độ
khác nhau từ cao đến thấp. Dựa vào tầm quan
trọng của các nhóm tiêu chí, phân chia các hệ số
và mức điểm thích hợp: nhóm tiêu chí có ý nghĩa
rất quan trọng - hệ số 3; nhóm tiêu chí có ý nghĩa
quan trọng - hệ số 2 và nhóm tiêu chí có ý nghĩa -
hệ số 1 [3]. Tổng điểm theo mức độ quan trọng
của tiêu chí sẽ có các mức điểm là:
+ Những tiêu chí rất quan trọng (hệ số 3) sẽ
có thang điểm là: 9, 6, 0.
+ Những tiêu chí quan trọng (hệ số 2) sẽ có
thang điểm là: 6, 4, 0.
+ Những tiêu chí có ý nghĩa (hệ số 1) sẽ có
thang điểm là: 3, 1, 0.
Các nhóm tiêu chí có vai trò quan trọng, ảnh
hưởng tiếp đến nhận xét của du khách về địa
phương được xếp hệ số cao (hệ số 3), các nhóm tiêu
chí có vai trò thứ yếu hơn được xếp hệ số tương ứng
là 2 hoặc 1. Tương tự vậy, trong từng nhóm tiêu chí,
phải phân rõ thành các tiêu chí cụ thể nhằm dễ dàng
định lượng hoá bằng điểm số. Các tiêu chí có điểm
số càng cao (điểm số 3), càng dễ đạt tiêu chuẩn đáp
ứng thoả mãn nhu cầu của du khách. Tương ứng với
đó, tiêu chí có điểm số 1 hoặc đáp ứng một phần
mong muốn và nhu cầu của du khách; hoặc gây
phiền toái cho du khách nhưng ở mức độ chưa
nghiêm trọng. Tiêu chí đạt điểm 0 gây ảnh hưởng
nghiêm trọng đến chất lượng du lịch.
Bảng 2. Ma trận điểm đánh giá văn hoá ứng xử tại các điểm du lịch
STT Đối tượng Nhóm tiêu chí Hệ số (*) Tiêu chí Biểu hiện của tiêu chí Điểm Tổng điểm
Lý tưởng 3 N x 3
Tốt 1 N x 1
Tiêu chí 1
Tồi 0 0
Lý tưởng 3 N x 3
Tốt 1 N x 1
Tiêu chí 2
Tồi 0 0
Lý tưởng 3 N x 3
Tốt 1 N x 1
Nhóm tiêu
chí 1
N
Tiêu chí n
Tồi 0 0
Lý tưởng 3 N x 3
Tốt 1 N x 1
Tiêu chí 1
Tồi 0 0
Lý tưởng 3 N x 3
Tốt 1 N x 1
Tiêu chí 2
Tồi 0 0
Lý tưởng 3 N x 3
Tốt 1 N x 1
1. Đối tượng
Nhóm tiêu
chí n
N
Tiêu chí n
Tồi 0 0
2. Z Điểm
tổng
(*: Hệ số N của các nhóm tiêu chí là không đồng nhất, tùy thuộc vào tầm quan trọng của từng nhóm tiêu
chí đó)
Công thức cơ sở cho việc đánh giá điểm du lịch:
H1 = N x A, H2 = N x A, HN = N x A
H = H1 + H2 + HN
Trong đó: N Hệ số điểm quy định của từng nhóm tiêu chí
A Điểm quy định cho biểu hiện chi tiết của từng tiêu chí
H1, H2,... HN Điểm đánh giá cho từng tiêu chí
H Điểm đánh giá văn hóa tổng hợp các tiêu chí
C.H. Hà / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 28 (2012) 158‐165 163
Ví dụ: Với đối tượng đánh giá là Quản lý
địa phương, có một số nhóm tiêu chí với các hệ
số khác nhau, trong đó có nhóm tiêu chí Ban
quản lý và mức độ phản ứng khi du khách gặp
bất lợi. Điểm số đánh giá được tính như sau:
+ Có Ban quản lý tại điểm du lịch: Ban
Quản lý tích cực và giải quyết có hiệu quả các
vấn đề phát sinh khi du khách gặp phải: thất lạc
đồ đạc; bị chộm, cướp; các tranh chấp được 3
điểm x hệ số 2 = 6 điểm.
+ Có Ban quản lý tại điểm du lịch: Ban
Quản lý ít hoạt động hoặc không tích cực giải
quyết các vấn đề phát sinh cho du khách, được
1 điểm x hệ số 2 = 2 điểm.
+ Không có Ban Quản lý: 0 điểm.
Qua số điểm, có thể đánh giá cấp độ văn hoá
ứng xử tại các điểm du lịch theo thang điểm:
Bảng 3. Cấp độ văn hoá hoá ứng xử tại các điểm du lịch
STT Cấp độ ứng xử Điểm đánh giá Tỉ lệ phần trăm so với số điểm tối đa
1. Cao (lí tưởng) 129 100%
2. Khá cao (khá lí tưởng) 111 - dưới 129 86 - dưới 100%
3. Trung bình 32 - dưới 111 24.8 - dưới 86%
4. Thấp (kém) 0 - dưới 32 0 - dưới 24.8%
Ip
Theo thang tính trên, số điểm tối đa trong
văn hoá ứng xử du lịch một điểm du lịch đạt
được là 129, tức 100% - cấp độ ứng xử lí tưởng.
Điểm số tù 32 đến dưới 111 (tức là chiếm từ
24.8 đến dưới 86% số điểm), đạt cấp độ khá
cao. Còn lại là cấp độ ứng xử trung bình (32
đến dưới 111 điểm) và thấp có số điểm dao
động từ 0 đến dưới 32 (dưới 24.8% tổng số
điểm). Tuy nhiên, cần thấy rằng các điểm du
lịch có cấp độ ứng xử văn hoá trung bình cũng
có sự dao động rất lớn về chất lượng, căn cứ
vào số điểm mà chúng đạt được. Ví dụ, cùng là
cấp độ ứng xử trung bình, nhưng với 110 điểm
thì điểm du lịch A sẽ có chất lượng cao hơn rất
nhiều so với 33 điểm của điểm du lịch B.
2.4. Kết quả đánh giá ban đầu
Sau khi lựa chọn các điểm du lịch được đánh
giá, nhiệm vụ tiếp theo là thu thập, tổng hợp và
phân tích các tài liệu liên quan. Để đánh giá được
chính xác chất lượng văn hoá ứng xử cần phải tiến
hành nghiên cứu, điều tra và quan sát thực tế.
Phương pháp điều tra xã hội học thông qua bảng
hỏi giải pháp tối ưu cho vấn đề này.
Thực hiện điều tra thông tin xã hội học
thông qua bảng hỏi đòi hỏi phải chú ý đến
nhiều vấn đề nhằm đảm bảo việc thu thập thông
tin từ bảng hỏi phải chính xác. Căn cứ vào các
kết quả điều tra từ bảng hỏi, định lượng hoá tức
cho điểm đánh giá các tiêu chí đã được định ra
từ trước. Tiếp thu kinh nghiệm thiết kế bảng
hỏi, đề tài sử dụng 4 thang đo trong kỹ thuật đặt
câu hỏi [4], bao gồm:
- Thang đo định danh: Các con số hoặc đối
tượng đưa ra không có quan hệ hơn kém mà chỉ
có tác dụng phân biệt các phạm trù, khái niệm.
- Thang đo thứ bậc: mỗi biểu hiện của tiêu
thức phản ánh sẽ được gắn cho 1 con số để có
thể phân biệt với nhau. Chúng được so sánh với
nhau để thấy được sự cao thấp, hơn kém, lớn
nhỏ, ít nhiều
- Thang đo khoảng: bằng thang đo thứ bậc
cộng với điều kiện về khoảng cách bằng nhau
giữa các bậc của thang đo.
- Thang đo tỷ lệ: có đầy đủ đặc trưng của
thang đo khoảng nhưng được xác định với một
điểm gốc 0 tuyệt đối để có thể so sánh được tỷ
lệ giữa các trị số đo.
Căn cứ vào các kết quả điều tra và tính
toán, sơ bộ đánh giá điểm số của các điểm du
lịch như sau:
- Không có điểm du lịch nào đạt điểm ứng
xử du lịch cao (lí tưởng).
- Các điểm du lịch có văn hoá ứng xử du lịch
đạt điểm số khá cao bao gồm: khu di tích Phủ chủ
tịch (115 điểm), Mai Châu (111), khu di tích quê
Bác (111) và ngã ba Đồng Lộc (112). Hầu hết các
C.H. Hà / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 28 (2012) 158‐165 164
điểm du lịch trên đều mang cấp trong điểm quốc
gia, có ý nghĩa lịch sử - văn hoá đặc biệt quan
trọng nên được quản lý tốt.
- Còn lại là các điểm du lịch đạt điểm trung
bình: Tân Trào (93), Pắc Pó (89), Sa Pa (87),
Đền Trần (85), Tam Cốc - Bích Động (83), Hồ
Ba Bể (83), Hồ Núi Cốc (79), Khu di tích Điện
Biên Phủ (92), Yên Tử (83), Côn Sơn - Kiếp
Bạc (81), Bái Đính (79), vườn quốc gia Cúc
Phương (78), Nhất - Nhị - Tam Thanh (72)
Trong đó, đang chú ý là vịnh Hạ Long (102 - di
sản thiên nhiên thế giới ở Việt Nam được đặc
biệt đầu tư và quan tâm), phố cổ Hà Nội và phụ
cận (90), đền Hùng (89), chùa Hương (85), là
các điểm du lịch cũng có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng nhưng điểm ứng xử chưa tương xứng. Đây
tình trạng đáng báo động về văn hoá ứng xử du
lịch tại khu vực vùng du lịch Bắc Bộ.
- Các điểm du lịch nghỉ dưỡng biển có điểm
đánh giá cấp độ văn hoá ứng xử thấp, không có
điểm du lịch nào vượt quá được 75 điểm: Cát
Bà (75), Đồ Sơn (71), Sầm Sơn (68), Cửa Lò
(72), Thiên Cầm (75). Hiện tượng này xuất phát
từ khá nhiều nguyên nhân, tuy nhiên tác động
trực tiếp và gián tiếp của tính mùa trong khí hậu
là 1 vấn đề có trọng số lớn và chưa được giải
quyết triệt để.
3. Kết luận
Nghiên cứu văn hoá ứng xử là vấn đề
không đơn giản, đòi hỏi tầm nhìn nhiều chiều
và nhiều phương pháp, bởi du lịch là một hoạt
động tổng hợp có liên hệ với nhiều lĩnh vực
khác. Sử dụng định lượng, tức là phận định rạch
ròi các tiêu chí đánh giá và cố gắng lượng hoá
chúng bằng điểm số trong đánh giá văn hoá ứng
xử du lịch không phải là pháp pháp toàn diện.
Bởi dù có đa dạng đến đâu, các tiêu chí ấy vẫn
xuất phát từ con mắt chủ quan của người nghiên
cứu. Tuy nhiên, bài nghiên cứu muốn thông qua
các con số để thể hiện một cách nhìn toàn cảnh
về sự yếu kém trong văn hoá ứng xử du lịch tại
một số điểm du lịch đặc biệt quan trọng có thể
đại diện cho hình ảnh của cả đất nước Việt
Nam, một đất nước tự hào giàu truyền thống
văn hoá. Thông qua đó, bài nghiên cứu cũng thể
hiện tham vọng phương pháp được sử dụng như
là một công cụ đánh giá, có thể được kết hợp
với các phương pháp khác trong quá trình
nghiên cứu, đánh giá và đề xuất các giải pháp
cải thiện môi trường du lịch Việt Nam hoàn
thiện hơn.
Tài liệu tham khảo
[1] Nguyễn Minh Tuệ và nnk, Địa lí du lịch Việt Nam,
NXB Giáo dục, Hà Nội, 2010.
[2] Trần Thuý Anh, Ứng xử văn hoá trong du lịch, NXB
Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2012.
[3] Hồ Công Dũng, Cơ sở khoa học cho việc xây dựng các
tuyến, điểm du lịch vùng Bắc Trung Bộ, Luận án Phó
tiến sĩ khoa học Địa lí - Địa chất, Đại học Sư phạm Hà
Nội, Hà Nội, 1996.
[4] Trần Thị Kim Thu, Giáo trình điều tra xã hội học, NXB
Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội, 2011.
C.H. Hà / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 28 (2012) 158‐165 165
Assessing Behaviour Culture in Tourism
by Quantitative Methods: Research into Destinations
in Northern Tourism Region
Cao Hoàng Hà
Faculty of Vietnamese Studies, Ha Noi University of Education,
136 Xuân Thủy, Hanoi, Vietnam
This research paper selects some subjects and their corresponding groups of criteria. In each
criterion, the researcher divides groups of criteria into several minute criteria and establishes
coefficient and rating marks for all criteria afterwards. Group methods of sociological investigation are
used to gather information and rate marks in behaviour culture for 25 tourist destinations in Northern
Tourism Region.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3_8_0498.pdf