Đánh giá về cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại của WTO dưới góc độ nước đang phát triển

Thứ tư, cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO có xu hướng thiên về các yếu tố kỹ thuật, pháp lý đòi hỏi các bên tham gia phải có một đội ngũ chuyên gia kinh tế, pháp lý giàu kinh nghiệm. Đối với các nước đang phát triển, đây thực sự là một thách thức không nhỏ. Kinh nghiệm cho thấy các nước đang phát triển khi tham gia tố tụng giải quyết tranh chấp thương mại trong khuôn khổ WTO đều phải thuê các luật sư, chuyên gia tư vấn pháp lý và chuyên môn của nước ngoài với những mức chi phí mà không phải nước nhào cũng chấp nhận được. Hơn nữa, với tư cách là Nguyên đơn, các nước đang phát triển luôn có tâm lý e dè “nếu đi kiện cáo các nước phát triển thì sẽ không thể đối chọi được thế lực kinh tế của họ” kéo theo đó là sự giải quyết tranh chấp vẫn mang tính nhượng bộ nhiều hơn. Lợi dụng những nhược điểm trên mà vẫn có trường hợp các thành viên cố tình áp dụng các biện pháp tự vệ không hợp pháp để thực hiện những mục đích riêng của mình, đặc biệt là các nước phát triển. Tuy nhiên cho đến nay các nhược điểm này vẫn tồn tại và lợi dụng những tồn tại này mà các nước phát triển gây rất nhiều khó khăn cho thành viên khác trong WTO là nước phát triển với tư tưởng “ cá lớn nuốt cá bé”. Mặc dù vậy, việc sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO hiện nay vẫn là cách thức có hiệu quả nhất để các quốc gia thành viên giải quyết tranh chấp thương mại trong khuôn khổ tổ chức này, đảm bảo các quyền lợi pháp lý và kinh tế của mình. Khi đã gia nhập WTO, Việt Nam cũng phải dựa vào cơ chế này để bảo vệ các quyền lợi chính đáng của mình. Vì vậy, việc nghiên cứu thủ tục giải quyết tranh chấp trong WTO và các án lệ của tổ chức này là điều cần thiết đối với chúng ta

pdf7 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 12/01/2022 | Lượt xem: 381 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá về cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại của WTO dưới góc độ nước đang phát triển, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI Kinh tế - Quản lý 48Tạp chí Kinh doanh và Công nghệ Số 04/2019 Để đảm bảo việc thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các quy định, ngăn chặn các vi phạm, góp phần thực hiện các mục tiêu to lớn của WTO, đòi hỏi cơ chế giải quyết các tranh chấp trong khuôn khổ tổ chức này phải được thiết lập. Cơ chế này là sự hiện thực hoá xu thế, pháp lý hoá quá trình giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế ngày nay, dần dần thay thế các phương thức giải quyết tranh chấp mang tính chính trị, ngoại giao. Cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO là sự kế thừa các quy định về giải quyết tranh chấp của Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT 1947). Rút kinh nghiệm từ những bất cập trong cơ chế cũ, một số cải tiến căn bản về thủ tục đã được đưa vào cơ chế mới, góp phần không nhỏ trong việc nâng cao tính chất xét xử của thủ tục này cũng như tăng cường tính ràng buộc của các quyết định giải quyết tranh chấp. Mục tiêu căn bản của cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO là “đạt được một giải pháp tích cực cho tranh chấp”, ưu tiên những “giải pháp được các bên tranh chấp cùng chấp thuận và phù hợp với các Hiệp định liên quan”. Xét ở mức độ rộng hơn, cơ chế này nhằm cung cấp các thủ tục đa phương giải quyết tranh chấp thay thế cho các hành động đơn phương của các quốc gia thành viên vốn tồn tại nhiều nguy cơ bất công, gây trì trệ và xáo trộn sự vận hành chung của các qui tắc thương mại quốc tế. 1. Một số khái niệm liên quan Tranh chấp thương mại (TCTM) là các tranh chấp diễn ra giữa các thương nhân, chủ thể tham gia kinh doanh. Cụ thể, đó là những tranh chấp phát sinh trong quá trình ĐÁNH GIÁ VỀ CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI CỦA WTO DƯỚI GÓC ĐỘ NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN NCS. ThS. Nguyễn Thị Thu Hằng *, NCS. ThS. Cao Anh Thịnh** Tóm tắt: Nền kinh tế thế giới không ngừng phát triển, tạo ra rất nhiều “cuộc chiến thương mại” giữa các quốc gia nhằm mục đích giành lợi nhuận kinh tế. Khi các quan hệ kinh tế quốc tế càng được mở rộng, thì các cuộc chiến này càng khốc liệt hơn, các tranh chấp càng trở nên phức tạp hơn. Điều đó đòi hỏi mỗi quốc gia, mối chủ thể kinh tế phải có đủ hiểu biết về cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại theo quy định của WTO để bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình. Từ khóa: Tranh chấp thương mại, giải quyết tranh chấp, lợi ích, cơ chế kinh tế. Abstract: Nowadays, the development of the world economy creates many “trade wars” among countries. When the world economy grows, the more international economic relations are expanded, the more “trade war” becomes fiercer. This motivates countries, to have sufficient understanding of the trade dispute settlement, mechanism in accordance with WTO to protect their legitimate interests. Key words: Trade dispute, dispute resolution, interests, economic mechanism * Giảng viên Trường Đại học Nội vụ; ** Cán bộ nghiên cứu Trường Đại học Nội vụ. Kinh tế - Quản lý NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI 49Tạp chí Kinh doanh và Công nghệ Số 04/2019 các thương nhân thực hiện các hoạt động thương mại nhằm mục đích lợi nhuận. Giải quyết tranh chấp thương mại, theo nghĩa chung nhất, được hiểu là cách thức, phương pháp hay các hoạt động để điều chỉnh các bất đồng, các xung đột nhằm khắc phục và loại trừ các tranh chấp đã phát sinh, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các thương nhân và các chủ thể kinh doanh khác, bảo vệ trật tự kỷ cương của xã hội. Cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại là một hệ thống giải quyết tranh chấp có trình tự, thủ tục rất chặt chẽ và có vai trò quan trọng trong việc giải quyết các tranh chấp phát sinh trong thương mại quốc tế. Nhờ cơ chế này, các thành viên WTO được đảm bảo rằng các quyền của mình theo Hiệp định WTO sẽ được thực hiện và các tranh chấp (nếu có) sẽ được giải quyết trên cơ sở pháp luật quốc tế. Đối với những tranh chấp, khi cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO đã đưa ra phán quyết, thì thành viên thua kiện có nghĩa vụ buộc phải thi hành. Nếu không thực thi phán quyết, thành viên thua kiện có thể bị trừng phạt thương mại. Biện pháp tự vệ (BPTV) là việc tạm thời hạn chế nhập khẩu đối với một hoặc một số loại hàng hoá khi việc nhập khẩu chúng tăng nhanh gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong nước. BPTV chỉ được áp dụng đối với hàng hoá, không áp dụng đối với dịch vụ, đầu tư hay sở hữu trí tuệ. Mỗi nước thành viên WTO đều có quyền áp dụng BPTV, nhưng khi áp dụng thì họ phải bảo đảm tuân theo các quy định của WTO (về điều kiện, thủ tục, cách thức áp dụng, biện pháp tự vệ). 2. Các nội dung trong giải quyết tranh chấp thương mại của WTO a) Các cơ quan giải quyết tranh chấp thương mại của WTO - Cơ quan giải quyết tranh chấp (DSB) DSB chính là Đại hội đồng WTO, bao gồm đại diện của tất cả các quốc gia thành viên. DSB có quyền thành lập Ban hội thẩm, thông qua các báo cáo của Ban hội thẩm và của Cơ quan phúc thẩm, giám sát việc thi hành các quyết định, khuyến nghị giải quyết tranh chấp, cho phép đình chỉ thực hiện các nghĩa vụ và nhượng bộ (trả đũa). Tuy nhiên, DSB chỉ là cơ quan thông qua quyết định, chứ không trực tiếp thực hiện việc xem xét giải quyết tranh chấp. Các quyết định của DSB được thông qua theo nguyên tắc đồng thuận phủ quyết. Đây là một nguyên tắc theo đó một quyết định chỉ không được thông qua khi tất cả thành viên DSB bỏ phiếu không thông qua nghĩa là các quyết định của DSB hầu như được thông qua một cách tự động. Nguyên tắc này khắc phục được nhược điểm cơ bản của cơ chế giải quyết tranh chấp trong GATT 1947 nơi áp dụng nguyên tắc đồng thuận truyền thống - mọi quyết định chỉ được thông qua khi tất cả các thành viên bỏ phiếu thông qua (mỗi thành viên đều có quyền phủ quyết quyết định) – một rào cản trong việc thông qua các quyết định của cơ quan giải quyết tranh chấp. - Ban hội thẩm (Panel) Ban Hội thẩm bao gồm 3-5 thành viên, có nhiệm vụ xem xét một vấn đề tranh chấp cụ thể trên cơ sở các quy định WTO được quốc gia Nguyên đơn viện dẫn. Ban hội thẩm có chức năng xem xét vấn đề tranh chấp dựa trên các quy định trong các Hiệp định của WTO mà Bên nguyên đơn viện dẫn làm căn cứ cho đơn kiện để giúp DSB đưa ra khuyến nghị, quyết nghị thích hợp cho các bên tranh chấp. Kết quả công việc của Ban hội thẩm là một báo cáo trình DSB thông qua, giúp DSB đưa ra các khuyến nghị đối với các Bên tranh chấp. Trên thực tế, đây là cơ quan trực tiếp giải quyết tranh chấp, mặc dù không nắm quyền quyết định. NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI Kinh tế - Quản lý 50Tạp chí Kinh doanh và Công nghệ Số 04/2019 Các thành viên Ban hội thẩm được lựa chọn trong số các quan chức chính phủ hoặc các chuyên gia phi chính phủ không có quốc tịch của một Bên tranh chấp hoặc của một nước cùng là thành viên trong một Liên minh thuế quan hoặc Thị trường chung với một trong các nước tranh chấp (ví dụ: Liên minh Châu Âu). Ban này hoạt động độc lập, không chịu sự giám sát của bất kỳ quốc gia nào. - Cơ quan Phúc thẩm (AB) Cơ quan Phúc thẩm là một thiết chế mới trong cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO, cho phép báo cáo của Ban hội thẩm được xem xét lại khi có yêu cầu, đảm bảo tính đúng đắn của báo cáo giải quyết tranh chấp. Sự ra đời của cơ quan này cũng cho thấy rõ hơn tính chất xét xử của thủ tục giải quyết tranh chấp mới. Cơ quan Phúc thẩm gồm 7 thành viên do DSB bổ nhiệm với nhiệm kỳ 4 năm. Các thành viên Cơ quan Phúc thẩm được lựa chọn trong số những nhân vật có uy tín và có chuyên môn được công nhận trong lĩnh vực luật pháp, thương mại quốc tế và trong những vấn đề thuộc phạm vi điều chỉnh của các hiệp định liên quan. Tuy nhiên, việc xét xử phúc thẩm trong từng vụ việc chỉ do 3 thành viên AB thực hiện một cách độc lập. Khi giải quyết vấn đề tranh chấp, AB chỉ xem xét lại các khía cạnh pháp lý và giải thích pháp luật trong Báo cáo của Ban hội thẩm chứ không điều tra lại các yếu tố thực tiễn của tranh chấp. Kết quả làm việc của AB là một báo cáo trong đó Cơ quan này có thể giữ nguyên, sửa đổi hoặc đảo ngược lại các kết luận trong báo cáo của Ban hội thẩm. Báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm được thông qua tại DSB và không thể bị phản đối hay khiếu nại tiếp [6]. b) Quy trình thủ tục giải quyết tranh chấp - Giai đoạn 1: Giai đoạn tham vấn. Thường kéo dài 60 ngày kể từ khi xảy ra tranh chấp thì Bên có khiếu nại phải đưa ra yêu cầu tham vấn Bên kia (Điều 4-Thỏa thuận về giải quyết tranh chấp (DSU)). Việc tham vấn được tiến hành một cách kín đáo, bí mật, không gây thiệt hại cho các quyền tiếp theo của các Bên. Bên tham vấn phải trả lời trong thời hạn là 10 ngày và phải tiến hành tham vấn trong vòng 30 ngày kể từ khi nhận được yêu cầu (trường hợp khẩn cấp – ví dụ hàng hóa có liên quan, có nguy cơ bị hư hỏng, các thời hạn này lần lần lượt là 10 ngày và 20 ngày). Bên tham vấn có nghĩa vụ “đảm bảo việc xem xét một cách cảm thông và tạo cơ hội thoả đáng” cho Bên yêu cầu tham vấn. Thủ tục tham vấn được tiến hành giữa các Bên với nhau, DSB được thông báo về thủ tục này và có trách nhiệm thông báo cho các quốc gia thành viên về yêu cầu tham vấn nhưng cơ quan này không trực tiếp tham gia vào thủ tục tham vấn. Các quốc gia khác có thể xin tham gia vào việc tham vấn này nếu Bên bị tham vấn thừa nhận rằng các quốc gia này có “quyền lợi thương mại thực chất” trong việc tham vấn này. Thông thường các quốc gia đều cố gắng giải quyết các bất đồng ở giai đoạn tham vấn nhằm hạn chế đến mức tối đa các thiệt hại về lợi ích cho tất cả các bên đồng thời đảm bảo tính bí mật của các thông tin liên quan đến tranh chấp. - Giai đoạn 2: DSB thành lập Ban hội thẩm và các hoạt động liên quan. Thủ tục hoạt động của Ban hội thẩm được quy định tại Điều 12 DSU. Yêu cầu thành lập Ban hội thẩm phải được lập thành văn bản sau khi Bên được tham vấn từ chối tham vấn hoặc tham vấn không đạt kết quả trong vòng 60 ngày kể từ khi có yêu cầu tham vấn (Điều 6 DSU). Tuy nhiên, yêu cầu thành lập Ban hội thẩm có thể đưa ra trước thời hạn này nếu các bên tranh chấp đều thống nhất rằng các thủ tục tham vấn, hoà giải không dẫn đến kết quả gì. Văn bản Kinh tế - Quản lý NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI 51Tạp chí Kinh doanh và Công nghệ Số 04/2019 yêu cầu thành lập Ban hội thẩm phải nêu rõ quá trình tham vấn, xác định chính xác biện pháp thương mại bị khiếu kiện và tóm tắt các căn cứ pháp lý cho khiếu kiện. Trong giai đoạn này, cơ quan giải quyết tranh chấp tiến hành giải quyết các công việc liên quan có thể thành lập nhóm chuyên gia. Nhóm chuyên gia là một nhóm có 3-5 thành viện và có nhiệm vụ giúp đỡ cơ quan giải quyết tranh chấp đưa ra những quyết định hoặc kiến nghị. Các nhận xét của nhóm chuyên gia dựa trên các Hiệp định được viện dẫn và báo cáo cuối cùng của nhóm chuyên gia về nguyên tắc sẽ được thông báo tới các bên liên quan đến tranh chấp trong thời gian 6 tháng. Trong trường hợp khẩn cấp thì sẽ giảm xuống còn 3 tháng. Ban hội thẩm, sau khi tham khảo ý kiến của các Bên liên quan sẽ ấn định một thời gian biểu cụ thể cho phiên xét xử đầu tiên (các Bên trình bày các văn bản giải trình tình tiết vụ việc và các lập luận liên quan), phiên xét xử thứ hai (đại diện và luật sư của các Bên lần lượt trình bày ý kiến và trả lời các câu hỏi của Ban hội thẩm – oral hearings). Sau phiên xét xử thứ hai, Ban hội thẩm soạn thảo và chuyển đến các bên phần tóm tắt nội dung tranh chấp của báo cáo để họ cho ý kiến trong một thời hạn nhất định. Trên cơ sở các ý kiến này, Ban hội thẩm đưa ra Báo cáo tạm thời (mô tả vụ việc, các lập luận, kết luận của Ban hội thẩm). Sau đó, các Bên cho ý kiến về Báo cáo này. Nếu có yêu cầu, Ban hội thẩm có thể tổ chức thêm một phiên họp bổ sung để xem xét lại tổng thể các vấn đề liên quan. Sau đó, Ban hội thẩm soạn thảo Báo cáo chính thức để gửi đến tất cả các thành viên WTO và chuyển cho DSB thông qua. Báo cáo của Ban Hội thẩm được chuyển cho tất cả các thành viên WTO và được DSB thông qua trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày Báo cáo được chuyển cho các thành viên trừ khi một Bên tranh chấp quyết định kháng cáo hoặc DSB đồng thuận phủ quyết Báo cáo (các Bên tranh chấp và các thành viên WTO khác có quyền đưa ra ý phản đối có kèm theo lý do bằng văn bản đối với Báo cáo của Ban hội thẩm chậm nhất là 10 ngày trước khi DSB họp để thông qua Báo cáo). Tổng thời gian thông qua Báo cáo thường tối đa là 90 ngày (nếu không có kháng cáo) hoặc 12 tháng với kháng cáo phúc thẩm kể từ khi thành lập Ban Hội thẩm tới khi thông qua Báo cáo. - Giai đoạn 3: Các hoạt động cuối cùng. Giai đoạn này bao gồm các bước: thực thi; bồi thường; trả đũa (kéo dài 90 ngày). Thực thi: Bên thua phải thông báo ý định về việc thi hành khuyến nghị tại buổi họp của DSB triệu tập trong vòng 30 ngày kể từ ngày thông qua Báo cáo. Nếu không thực hiện được ngay, Bên đó có thể được gia hạn thực hiện trong một khoảng thời gian hợp lý (thời hạn này do DSB quyết định trên cơ sở đề nghị của các Bên; hoặc do các Bên tranh chấp thỏa thuận trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày thông qua khuyến nghị; hoặc theo phán quyết trọng tài tiến hành trong vòng 90 ngày kể từ ngày thông qua khuyến nghị). Trong trường hợp không tự nguyện thực thi thì các Bên đàm phán bồi thường trong khi chờ thực thi một cách đầy đủ. Cụ thể, nếu Bên thua kiện tạm thời không thể thực hiện được khuyến nghị của Cơ quan Giải quyết Tranh chấp, các Bên tranh chấp có thể thỏa thuận về khoản bồi thường. Việc bồi thường phải được thực hiện trên nguyên tắc tự nguyện và phù hợp với Hiệp định có liên quan. Nếu không thỏa thuận được về bồi thường trong vòng 30 ngày kể từ khi “khoảng thời gian hợp lý” hết hiệu lực. DSB sẽ cho phép Bên kia trả đũa trong khi chờ thực thi đầy đủ. Bên thắng kiện có thể yêu cầu Cơ quan giải quyết tranh NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI Kinh tế - Quản lý 52Tạp chí Kinh doanh và Công nghệ Số 04/2019 chấp cho phép áp dụng các Biện pháp trả đũa song song hoặc trả đũa chéo. Bồi thường và trả đũa (Compensation and Retaliation): Là các biện pháp giải quyết tạm thời được sử dụng nhằm đảm bảo lợi ích của Bên thắng kiện trong thời gian Bên thua kiện không thể thực hiện được khuyến nghị của Cơ quan Giải quyết Tranh chấp (DSB) (giai đoạn trong khi chờ đợi Bên thua kiện thực hiện khuyến nghị). Các biện pháp này không làm chấm dứt nghĩa vụ thực hiện khuyến nghị của Bên vi phạm. Cụ thể, nếu Bên thua kiện tạm thời không thể thực hiện được khuyến nghị của Cơ quan Giải quyết Tranh chấp, các Bên tranh chấp có thể thỏa thuận về khoản bồi thường. Việc bồi thường phải được thực hiện trên nguyên tắc tự nguyện và phù hợp với hiệp định có liên quan. Nếu các Bên không đạt được thỏa thuận về việc bồi thường trong vòng 20 ngày kể từ khi hết hạn thực hiện khuyến nghị, Bên thắng kiện có thể yêu cầu Cơ quan Giải quyết Tranh chấp cho phép áp dụng các biện pháp trả đũa song song hoặc trả đũa chéo. Trả đũa song song là việc Bên thắng kiện không phải thực hiện các nhân nhượng thuế quan đối với hàng hoá của Bên thua kiện trong cùng lĩnh vực mà Bên thắng kiện bị thiệt hại. Trả đũa chéo là hình thức trả đũa nhằm vào lĩnh vực khác lĩnh vực bị thiệt hại trong trường hợp việc trả đũa song song không thể thực hiện được (có thể trả đũa chéo lĩnh vực – khác lĩnh vực nhưng trong cùng phạm vi điều chỉnh của một hiệp định; hoặc trả đũa chéo hiệp định – trả đũa trong một lĩnh vực thuộc phạm vi điều chỉnh của một hiệp định khác nếu việc trả đũa song song và trả đũa chéo lĩnh vực đều không thể thực hiện được). Trọng tài: Nếu một Bên tranh chấp không đồng ý về việc bồi thường của Bên kia thì có thể yêu cầu sự tạm hoãn của DSB về các quyền nhượng bộ của mình thì lúc này có sự tham gia của trọng tài. Trọng tài có nghĩa vụ thực hiện vai trò của mình, cụ thể đó là: - Trong khuôn khổ cơ chế giải quyết tranh chấp DSU: Trọng tài có thể được sử dụng các thủ tục sau: (i) Xác định thời hạn thực hiện khuyến nghị trong trường hợp Bên thua không thể thực hiện ngay khuyến nghị; (ii) Xác định mức độ trả đũa trong trường hợp Bên thua có kiến nghị về vấn đề này. Trường hợp tranh cãi về mức độ trả đũa, trọng tài không đánh giá về bản chất biện pháp trả đũa mà chỉ xem xét mức độ Bên thắng kiện đình chỉ các nhân nhượng/ nghĩa vụ có tương đương với mức độ thiệt hại mà Bên thắng kiện đã phải chịu không. - Ngoài khuôn khổ cơ chế giải quyết tranh chấp DSU: Các Bên tranh chấp có thể thoả thuận lựa chọn cơ chế trọng tài độc lập để giải quyết tranh chấp mà không cần sử dụng đến cơ chế của DSU. Quyết định lựa chọn giải quyết tranh chấp bằng trọng tài độc lập phải được các Bên tranh chấp thông báo đến tất cả các thành viên WTO trước khi thủ tục tố tụng được bắt đầu. Các thành viên WTO chỉ có thể tham gia thủ tục tố tụng nếu được các Bên tranh chấp đồng ý. Quyết định giải quyết của trọng tài phải được các Bên tuân thủ nghiêm túc. Các Bên có nghĩa vụ thông báo về quyết định này cho các thành viên WTO, cho Hội đồng hoặc cho Uỷ ban của Hiệp định có liên quan. Quyết định này của trọng tài phải phù hợp với các hiệp định có liên quan và không được gây thiệt hại cho bất kỳ thành viên nào khác của WTO. 3. Đánh giá chung về cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO Cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO như đã trình bày ở trên có một số Kinh tế - Quản lý NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI 53Tạp chí Kinh doanh và Công nghệ Số 04/2019 ưu điểm lớn so với các phương thức giải quyết tranh chấp trong Luật quốc tế và có nhiều điểm tiến bộ hơn trong tương quan với thủ tục giải quyết tranh chấp trong GATT, tiền thân của WTO. Thứ nhất, ưu điểm lớn nhất đó là việc giải quyết được tiến hành một cách thận trọng và kín đáo được thông qua các bước bởi các cơ quan trung lập (Ban hội thẩm, Cơ quan phúc thẩm). Vì vậy, việc đảm bảo giải quyết một cách chính xác và cặn kẽ các tranh chấp là điều hiển nhiên. Đây là lần đầu tiên trong một cơ chế tài phán giải quyết tranh chấp quốc tế xuất hiện một Cơ quan Phúc thẩm với các cơ hội xem xét lại quyết định ban đầu, nhằm rà soát một cách chính xác và đảm bảo quyền lợi chính đáng của các bên tham gia tranh chấp. Thứ hai, cơ chế này được tiến hành theo một quy trình chặt chẽ với các thời hạn xác định và cụ thể trong từng giai đoạn. Điều này cho phép các tranh chấp được giải quyết nhanh chóng, kịp thời, đảm bảo ý nghĩa của các biện pháp giải quyết đưa ra đối với các bên, đặc biệt là bên thắng cuộc (bởi một cơ hội thương mại có thể không còn ý nghĩa nếu biện pháp giải quyết đưa ra quá muộn màng). Thứ ba, cơ chế thông qua tự động (đồng thuận phủ quyết) của DSB cho phép các báo cáo được thông qua dễ dàng. Cơ chế này thật sự có ý nghĩa trong các trường hợp bên bị xem là có biện pháp vi phạm quy định là nước có tiềm lực kinh tế mạnh bởi áp lực mà các nước này có thể tạo ra trong quá trình thông qua quyết định sẽ không còn lớn như trước đây. Hơn nữa, cơ chế này cho phép đưa ra giải pháp cuối cùng cho tranh chấp, bảo đảm quyền lợi của Bên bị vi phạm, tránh những bế tắc không thể vượt qua trong những phương thức giải quyết ngoại giao. Thứ tư, DSU có nhiều quy định về thủ tục dành riêng cho các nước đang phát triển hoặc kém phát triển tạo điều kiện thuận lợi cho các nước này khi tham gia thủ tục giải quyết tranh chấp bảo vệ quyền lợi chính đáng và hợp pháp của mình. Tuy nhiên, qua quá trình áp dụng từ năm 1995 đến nay, cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO cũng đã bộc lộ một số nhược điểm nhất định, đặc biệt đối với các nước đang phát triển vì cơ chế này đã được áp dụng rất nhiều nên những điểm yếu đã được bộc lộ rõ ở các điểm sau: Thứ nhất, phương thức đồng thuận phủ quyết (hay đồng thuận tiêu cực) đồng nghĩa với việc hầu như các báo cáo (của Ban hội thẩm hoặc của Cơ quan Phúc thẩm) đều được thông qua tại DSB. Điều này dẫn đến tình trạng các báo cáo khuyến nghị được thông qua dễ dàng hơn nhiều nhưng khả năng thực thi thì lại giảm sút. Thứ hai, về nguyên tắc, nếu bên vi phạm không tự nguyện thực hiện các khuyến nghị của DSB thì bên kia có thể yêu cầu DSB cho phép thực hiện các biện pháp trả đũa. Tuy nhiên, biện pháp trả đũa có thể không có ý nghĩa hoặc ít có hiệu quả nếu nước trả đũa là nước đang phát triển. Vì họ sở hữu một tiềm lực về kinh tế rất mạnh nên việc trả đũa hầu như không gây ảnh hưởng gì nhiều gì đến cách cư xử của các nước phát triển đối với Bên kia khi tham gia tranh chấp. Đây là một bất lợi lớn cho các nước đang phát triển. Thứ ba, nhiều quy định được xem là “ưu tiên” cho các nước đang phát triển trong cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO nhưng trên thực tế điều này có ý nghĩa rất mờ nhạt: có quy định chỉ mang tính tuyên bố hơn là quy định thực thi (ví dụ quy định về nghĩa vụ của các Bên tranh chấp “đặc biệt lưu ý” đến quyền lợi của các nước đang phát triển: nội hàm của khái niệm “đặc biệt lưu ý” không được quy định rõ cũng không được xác định rõ trong các báo cáo của các ban hội thẩm NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI Kinh tế - Quản lý 54Tạp chí Kinh doanh và Công nghệ Số 04/2019 hay của cơ quan phúc thẩm); có quy định trên thực tế rất ít hiệu quả (ví dụ trách nhiệm trợ giúp pháp lý của Ban Thư ký WTO trên thực tế do một số ít cá nhân thực hiện, không thể đáp ứng đủ nhu cầu to lớn về trợ giúp pháp lý của các nước đang phát triển là thành viên WTO) Thứ tư, cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO có xu hướng thiên về các yếu tố kỹ thuật, pháp lý đòi hỏi các bên tham gia phải có một đội ngũ chuyên gia kinh tế, pháp lý giàu kinh nghiệm. Đối với các nước đang phát triển, đây thực sự là một thách thức không nhỏ. Kinh nghiệm cho thấy các nước đang phát triển khi tham gia tố tụng giải quyết tranh chấp thương mại trong khuôn khổ WTO đều phải thuê các luật sư, chuyên gia tư vấn pháp lý và chuyên môn của nước ngoài với những mức chi phí mà không phải nước nhào cũng chấp nhận được. Hơn nữa, với tư cách là Nguyên đơn, các nước đang phát triển luôn có tâm lý e dè “nếu đi kiện cáo các nước phát triển thì sẽ không thể đối chọi được thế lực kinh tế của họ” kéo theo đó là sự giải quyết tranh chấp vẫn mang tính nhượng bộ nhiều hơn. Lợi dụng những nhược điểm trên mà vẫn có trường hợp các thành viên cố tình áp dụng các biện pháp tự vệ không hợp pháp để thực hiện những mục đích riêng của mình, đặc biệt là các nước phát triển. Tuy nhiên cho đến nay các nhược điểm này vẫn tồn tại và lợi dụng những tồn tại này mà các nước phát triển gây rất nhiều khó khăn cho thành viên khác trong WTO là nước phát triển với tư tưởng “ cá lớn nuốt cá bé”. Mặc dù vậy, việc sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO hiện nay vẫn là cách thức có hiệu quả nhất để các quốc gia thành viên giải quyết tranh chấp thương mại trong khuôn khổ tổ chức này, đảm bảo các quyền lợi pháp lý và kinh tế của mình. Khi đã gia nhập WTO, Việt Nam cũng phải dựa vào cơ chế này để bảo vệ các quyền lợi chính đáng của mình. Vì vậy, việc nghiên cứu thủ tục giải quyết tranh chấp trong WTO và các án lệ của tổ chức này là điều cần thiết đối với chúng ta. 4. Kết luận Thực tế cho thấy, việc kinh doanh thương mại ở nước ngoài hay việc đối diện với cạnh tranh thương mại của đối thủ quốc tế trên thị trường trong nước cũng đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải hiểu rõ về cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại để bảo vệ lợi ích của mình. Ngoài việc hiểu rõ về quy trình, thủ tục, thì việc đánh giá những lợi ích mà các quốc gia đang phát triển hay Việt Nam có được như thế nào để vận dụng hiệu quả hơn cũng rất cần thiết. Tài liệu tham khảo 1. Nguyễn Thị Thu Hằng, Chủ nhiệm đề tài (2011). Tìm hiểu tranh chấp liên quan Hiệp định tự vệ của WTO và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Sản phẩm dự thi Tài năng khoa học trẻ. 2. Dương Kim Thế Nguyên (2008). Giáo trình Luật thương mại 3. NXB Đại học Cần Thơ. 3. - hệ thống ngắn gọn về WTO và các cam kết gia nhập của Việt Nam. 4. – các cơ quan giải quyết tranh chấp. 5. Ngày nhận bài: 20/6/2019

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdanh_gia_ve_co_che_giai_quyet_tranh_chap_thuong_mai_cua_wto.pdf