+ Cần lựa chọn tên cho các vùng này: Kỳ quan (công viên) thiên nhiên Việt Nam.
+ Cần có nghiên cứu cơ chế, chính sách, pháp lý về các danh hiệu cấp quốc gia, cấp
tỉnh, cấp huyện và các giải pháp hỗ trợ cho địa phương.
+ Cần có cơ chế khuyến khích, tôn vinh các cá nhân, tổ chức xã hội, dân sự tham
gia vào xây dựng, quản lý các vùng có danh hiệu kỳ quan thiên nhiên.
+ Cần thành lập một cơ cấu tổ chức thống nhất cấp quốc gia (thuộc Bộ Tài nguyên
và Môi trường) để xác định, quy hoạch, kế hoạch, chiến lược phát triển, công nhận và
quản lý, khuyến khích và tôn vinh các khu bảo tồn thiên nhiên Việt Nam và hợp tác
quốc tế.
+ Cần công nhận và có cơ chế, mô hình quản lý và khai thác tài nguyên đặc biệt cấp
Nhà nước cho các vùng có danh hiệu TNMT, tiến tới thể chế hóa bằng pháp luật các
vùng có tài nguyên đặc biệt này.
+ Tổ chức truyền thông, phát triển du lịch sinh thái và cơ chế phù hợp cho các ban
quản lý khu vực có danh hiệu và nâng cao hiệu quả sinh kế cho người dân vùng có kỳ
quan thiên nhiên, đặc biệt cụ thể kinh tế và môi trường của các vùng và của các tỉnh có
danh hiệu TNMT. Khi lãnh đạo địa phương, tỉnh thấy được tầm quan trọng của danh
hiệu TNMT thì sẽ có ý thức ủng hộ việc xây dựng và bảo vệ thiên nhiên tại các khu
vực có danh hiệu tài nguyên môi trường.18
+ Việt Nam đã tham gia hội nhập quốc tế, nên vấn đề các vùng địa lý của Việt Nam
có danh hiệu về bảo tồn thiên nhiên, di sản thiên nhiên, di sản địa chất, đặc biệt danh
hiệu quốc tế có ý nghĩa ảnh hưởng lớn đến vùng đó và lân cận rất lớn, vì sau khi có
danh hiệu quốc tế, sẽ có rất nhiều các nghiên cứu và phát hiện mới, gia tăng khách du
lịch, xuất hiện nhiều vấn đề xã hội nhân văn mới đối với từng vùng, từng khu khác
nhau. Vịnh Hạ Long, Phong Nha – Kẻ Bàng, Mỹ Sơn, Lăng Cô, Xuân Thủy, Nha
Trang, Hội An, Cà Mau, Kiên Giang, Cần Giờ. đã trở thành các thương hiệu lớn cho
du lịch, nghiên cứu và học thuật cho cộng đồng toàn thế giới.
+ Chính quyền các tỉnh, địa phương cần có trách nhiệm, quan tâm đến công tác bảo
vệ và phát triển các vùng có danh hiệu TNMT, và coi đó như là một định hướng phát
triển kinh tế bền vững tỉnh, địa phương.
+ Công bố trên phương tiện thông tin đại chúng về xếp hạng TNMT các tỉnh, các
vùng nhằm nâng cao nhận thức bảo vệ, giữ gìn TNMT như tài nguyên quý giá của địa
phương và cộng đồng.
+ Bộ Tài nguyên và Môi trường, Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường có thể
tham gia việc công nhận danh hiệu TNMT cho các khu vực do tư nhân, địa phương
xây dựng nhằm bảo vệ các khu du lịch sinh thái. Kiến nghị Nhà nước hay quốc tế công
nhận khi các khu đạt được tiêu chuẩn TNMT phù hợp.
+ Đa dạng hóa danh hiệu TNMT cho cấp tỉnh, cấp huyện.
+ Xem xét việc thiết lập một luật riêng cho vùng biển và đảo Quảng Ninh, Hải
Phòng, sẽ gia tăng vị thế TNMT của cả Việt Nam.
+ Xem xét xây dựng luật hay nghị định riêng cho các khu bảo vệ, bảo tồn thiên
nhiên Việt Nam.
+ Nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiên cách tính điểm, xếp hạng cho danh hiệu thiên
nhiên, để có thể có công bố hàng năm về danh hiệu TNMT hàng năm.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 20 trang
20 trang | 
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 973 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Danh hiệu thiên nhiên và môi trường Việt Nam: cơ hội và xếp hạng - Dư Văn Toán, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 
DANH HIỆU THIÊN NHIÊN VÀ MÔI TRƢỜNG VIỆT NAM: 
CƠ HỘI VÀ XẾP HẠNG 
Dƣ Văn Toán1, Lê Xuân Tuấn1, Vũ Thành Chơn1 và Phạm Bình Quyền2 
1 Viện Nghiên cứu Quản lý Biển và Hải đảo 
2 Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường, 
Đại học Quốc gia Hà Nội 
Tóm tắt 
Bài báo giới thiệu về sự đa dạng danh hiệu thiên nhiên và môi trường (TNMT) 
của các vùng cấp Quốc gia và Quốc tế đã được công nhận tại Việt Nam vừa 
được bảo tồn và phát triển. Đến nay, nhiều khu vực của Việt Nam đã đươc công 
nhận danh hiệu TNMT, trong số đó, đặc biệt có danh hiệu quốc tế như Vịnh Hạ 
Long, Phong Nha – Kẻ Bàng, Cát Bà, Cần Giờ, Xuân Thủy, Cù Lao Chàm, Hội 
An, Mũi Cà Mau, Ba Bể, châu thổ sông Hồng, Tây Nghệ An... đã mang lại hiệu 
quả phát triển kinh tế to lớn sau khi nhận danh hiệu quốc tế, đồng thời mang lại 
uy tín cao cho chính quyền và nhân dân các địa phương sở tại về công tác bảo 
tồn thiên nhiên. Các danh hiệu quốc tế đã được công nhận tại Việt Nam: Khu dự 
trữ sinh quyển thế giới có 8 khu, danh hiệu vịnh đẹp nhất thế giới có 3 địa danh, 
danh hiệu Di sản thế giới có 3 địa danh, danh hiệu Ramsar có 3 địa danh, Công 
viên địa chất toàn cầu có 1 địa danh, di sản ASEAN có 4 địa danh. Danh hiệu 
quốc gia gồm hệ thống các khu bảo tồn thiên nhiên với hơn 120 địa danh, phân 
bố trên cả nước, trong số đó có 30 vườn quốc gia, hơn 140 khu rừng đặc dụng, 
16 khu bảo tồn biển. Hiện tại, danh hiệu TNMT chưa có tại 22 tỉnh thành trong 
cả nước. Bài báo bước đầu thử nghiệm đưa ra các tiêu chí danh hiệu TNMT xếp 
hạng các tỉnh, vùng cho 63 tỉnh cho thấy sự quan tâm của các địa phương với 
công tác bảo tồn thiên nhiên và kết quả cho thấy tỉnh Quảng Ninh và vùng Vịnh 
Hạ Long được xếp ở vị trí hàng đầu. Bài báo thử nghiệm đề xuất xây dựng bộ 
tiêu chí về TNMT để đánh giá năng lực địa phương hàng năm trong công tác bảo 
tồn thiên nhiên, nhằm mục đích tuyên truyền, phổ biến thông tin và nâng cao 
nhận thức về bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Danh hiệu thiên nhiên và môi trường (TNMT) là danh hiệu cho một vùng địa lý về 
thiên nhiên và môi trường, được một tổ chức công nhận khi mà vùng đó đáp ứng đầy 
đủ các tiêu chí quy định của các tổ chức đó. Nếu là do tổ chức quốc tế công nhận thì 
đó là danh hiệu quốc tế, tổ chức, quốc gia công nhận thì đó là danh hiệu quốc gia. Hiện 
nay, đã có nhiều danh hiệu quốc tế và quốc gia về TNMT đã được công nhận tại Việt 
Nam. Các địa phương nhận được danh hiệu TNMT, đặc biệt danh hiệu quốc tế như Hạ 
Long, Cát Bà, Xuân Thủy, Cần Giờ, Phong Nha – Kẻ Bàng đã có những tác động tích 
cực từ du lịch sinh thái, bảo vệ môi trường, góp phần cải thiện sinh kế cộng đồng địa 
2 
phương. Rất nhiều nhà khoa học, cán bộ thuộc tổ chức và chương trình quốc tế về bảo 
vệ TNMT như IUCN, WWF, GEF, BirdLife, UNDP, UNEP, WB, IMF, EU, SIDA, 
DANIDA, JICA, PEMSEA, COBSEA đều có các chương trình nghiên cứu, hành 
động hỗ trợ công tác bảo tồn thiên nhiên của Việt Nam (Dư Văn Toán, 2010; ICEM, 
2003; IUCN-SIDA, 2008). Gần đây, có rất nhiều các cơ quan chính phủ và phi chính 
phủ cũng có nhiều hành động về công tác bảo tồn thiên nhiên. Chúng ta đã có các cơ 
sở pháp lý như Luật Bảo vệ môi trường, Luật Đa dạng sinh học, Luật Bảo vệ và phát 
triển rừng, Luật Tài nguyên nước, Luật Thủy sản và sắp tới là Luật Tài nguyên và môi 
trường biển, cùng nhiều chương trình mục tiêu quốc gia, quyết định của Chính phủ về 
đa dạng sinh học và bảo vệ môi trường. 
Nghiên cứu này đề cập đến các vùng danh hiệu quốc gia như vườn quốc gia và khu dự 
trữ thiên nhiên và danh hiệu quốc tế như di sản thiên nhiên, khu dự trữ sinh quyển, 
công viên địa chất, khu Ramsar, vịnh đẹp, gắn liền với các hoạt động sinh kế cộng 
đồng. 
Giai đoạn hiện nay là giai đoạn hội nhập quốc tế toàn diện, cùng với chiến lược phát 
triển bền vững và ứng phó với biến đổi khí hậu (BĐKH) dựa vào phương pháp tiếp 
cận hệ sinh thái. Hoạt động kinh tế gây tác động xấu đến bảo vệ đa dạng sinh học và 
thiên nhiên môi trường là điều không thể tranh cãi. Việc quan tâm đầy đủ đến phương 
thức hành động của Chính quyền địa phương và cộng đồng đến các khu có danh hiệu 
TNMT sẽ là hình mẫu trong công tác bảo tồn thiên nhiên vì sự phát triển bền vững. 
Khi một vùng được danh hiệu về TNMT thì vùng đó có rất nhiều lợi ích như sau: được 
nhiều người biết đến hơn; được nhiều cấp ngành và các tổ chức ở trong nước và quốc 
tế quan tâm; thuận lợi cho công tác quản lý tài nguyên; bảo vệ môi trường thiên nhiên 
điểm đến kỳ diệu đối với khách du lịch; một địa chỉ tin cậy hấp dẫn các nhà khoa học, 
nhà kinh tế và đầu tư liên doanh trên nhiều lĩnh vực; là trung tâm giáo dục truyền 
thống và phổ biến các tri thức khoa học. Vì vậy hệ thống hóa tất các các vùng có danh 
hiệu TNMT, phân tích đánh giá ảnh hưởng cho các tỉnh và các vùng địa lý là rất cần 
thiết phục vụ quy hoạch và phát triển kinh tế bền vững. Đồng thời nhắc nhở sự quan 
tâm của chính quyền các địa phương đến bảo vệ TNMT. 
2. HIỆN TRẠNG CÁC DANH HIỆU TNMT ĐƯỢC CÔNG NHẬN TẠI VIỆT 
NAM 
2.1. Các danh hiệu quốc tế 
2.1.1. Di sản thiên nhiên thế giới 
Theo Công ước Di sản thế giới thì di sản thiên nhiên là: 
+ Các đặc điểm tự nhiên bao gồm các hoạt động kiến tạo vật lý hoặc sinh học hoặc 
các nhóm các hoạt động kiến tạo có giá trị nổi bật toàn cầu xét theo quan điểm thẩm 
mỹ hoặc khoa học. 
3 
+ Các hoạt động kiến tạo địa chất hoặc địa lý tự nhiên và các khu vực có ranh giới 
được xác định chính xác tạo thành môi trường sống của các loài động thực vật đang bị 
đe dọa có giá trị bảo tồn nổi bật toàn cầu xét theo quan điểm khoa học hoặc bảo tồn. 
Bảng 2.1. Các di sản thiên nhiên thế giới 
STT Địa danh Năm Tỉnh 
1 Hạ Long 1994 Quảng Ninh 
2 Hạ Long 2000 Quảng Ninh 
3 Phong Nha – Kẻ Bàng 2003 Quảng Bình 
Các vùng Hạ Long, Phong Nha – Kẻ Bàng hiện nay đang là thương hiệu lớn về TNMT 
quy mô quốc tế. Khách quốc tế, Việt Nam và các nhà khoa học, các chương trình 
nghiên cứu tại đây gia tăng mạnh. Công tác bảo vệ môi trường, bảo tồn thiên nhiên 
vịnh Hạ Long đang rất được quan tâm của chính quyền và cộng đồng tỉnh Quảng Ninh 
[4]. 
2.1.2. Khu dự trữ sinh quyển thế giới 
Khu dự trữ sinh quyển (DTSQ) là một danh hiệu do UNESCO trao tặng cho các khu 
bảo tồn thiên nhiên có hệ động thực vật độc đáo, phong phú đa dạng. 
Danh hiệu khu dự trữ sinh quyển là nhằm giải quyết một trong những vấn đề thực tiễn 
quan trọng nhất mà con người đang đối mặt hiện nay: đó là là làm thế nào để có thể 
tạo nên sự cân bằng giữa bảo tồn đa dạng sinh học, các nguồn tài nguyên thiên 
nhiên với sự thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội, duy trì các giá trị văn hóa truyền thống 
đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người, phòng thí nghiệm sống cho việc nghiên 
cứu, giáo dục, đào tạo và giám sát các hệ sinh thái, đem lại lợi ích cho cộng đồng cư 
dân địa phương, quốc gia và quốc tế. 
Bảng 2.2. Khu sinh quyển thế giới 
STT Địa danh Năm Tỉnh 
1 Rừng ngập mặn Cần Giờ 2000 TP. Hồ Chí Minh 
2 Cát Tiên 2001 Đồng Nai, Lâm Đồng, Bình Phước 
3 Cát Bà 2004 Hải Phòng 
4 Ven biển châu thổ sông Hồng 2004 Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình 
5 Ven biển và đảo Kiên Giang 2006 Kiên Giang 
6 Tây Nghệ An – Pù Mát 2007 Nghệ An 
7 Cù Lao Chàm 2009 Quảng Nam 
8 Mũi Cà Mau 2009 Cà Mau 
Nguồn: [6]. 
4 
DTSQ là danh hiệu TNMT đặc biệt – Phòng thí nghiệm thiên nhiên sống được phát 
triển tại Việt Nam với công lao của GS.TS. Nguyễn Hoàng Trí. Tuy nhiên, vấn đề 
quản lý, điều hành tại các khu này còn một số bất cập, do chưa có cơ quan trung ương 
nào tham gia quản lý để các khu này được bảo vệ, phát triển bền vững. Hiện đang làm 
hồ sơ cho khu DTSQ liên tỉnh sông Cửu Long Bến Tre – Trà Vinh – Sóc Trăng. 
2.1.3. Khu Ramsar - bảo tồn đất ngập nước 
Công ước Ramsar (được các quốc gia phê chuẩn tại thành phố Ramsar, Iran vào năm 
1971) là một công ước quốc tế về bảo tồn và sử dụng hợp lý và khôn khéo các 
vùng đất ngập nước, với mục đích ngăn chặn quá trình xâm lấn ngày càng gia tăng vào 
các vùng đất ngập nước cũng như sự mất đi của chúng ở thời điểm hiện nay cũng như 
trong tương lai, công nhận các chức năng sinh thái học nền tảng của các vùng đất ngập 
nước và các giá trị giải trí, khoa học, văn hóa và kinh tế của chúng. 
Bảng 2.3. Khu Ramsar 
STT Địa danh Năm Tỉnh 
1 Xuân Thủy 1989 Nam Định 
2 Bàu Sấu – Cát Tiên 2005 Lâm Đồng 
3 Ba Bể 2011 Bắc Kạn 
Các khu Ramsar chủ yếu bảo tồn các loài chim nước di cư, có yếu tố bảo tồn quốc tế 
rất cao. Việt Nam đang trình công nhận khu Ramsar cho Vườn Quốc gia Tràm Chim, 
Đồng Tháp. 
2.1.4. Câu lạc bộ những vịnh đẹp nhất thế giới 
WMBB là Hiệp hội những Vịnh Đẹp nhất Thế giới, được thành lập tại Berlin vào 
10/3/1997. Các vịnh thành viên phải đáp ứng một số tiêu chí như: Có một môi trường 
sinh thái với động vật và thực vật thú vị; có vẻ đẹp tự nhiên và hấp dẫn; được biết và 
đánh giá tại cấp quốc gia; biểu tượng cho cư dân địa phương; có nguồn kinh tế tiềm 
năng; ít nhất là đáp ứng được 2 tiêu chí của UNESCO trong lĩnh vực văn hóa và thiên 
nhiên. 
Bảng 2.4. Vịnh biển đẹp thế giới 
STT Địa danh Năm Tỉnh 
1 Vịnh Hạ Long 2003 Quảng Ninh 
2 Vịnh Nha Trang 2005 Khánh Hòa 
3 Vịnh Lăng Cô 2009 Thừa Thiên Huế 
Việt Nam có hệ thống vũng vịnh ven bờ rất đa dạng và có tính đa dạng sinh học phong 
phú, tuy nhiên chưa có sự quan tâm đầy đủ về công tác bảo vệ môi trường tại các vịnh 
đã có danh hiệu như rác, chất thải nên đã gây ra những tổn thương như Vịnh Lăng Cô, 
Nha Trang. Công tác bảo vệ TNMT cần phải có sự tham gia của chính quyền địa 
5 
phương nhiều hơn. Các vịnh tiềm năng như Vũng Rô, Xuân Đài, Văn Phong – Đại 
Lãnh. 
2.1.5. Công viên địa chất toàn cầu 
Công viên địa chất là một vùng với những giới hạn rõ ràng và có diện tích đủ rộng để 
đáp ứng sự phát triển kinh tế-xã hội địa phương. Nó bao gồm một số điểm di sản địa 
chất nào đó ở mọi quy mô hay một bức khảm về thực thể địa chất có tầm quan trọng 
khoa học đặc biệt, hiếm có và đẹp, tiêu biểu cho một khu vực và lịch sử địa chất của 
khu vực đó, những sự kiện hay các quá trình. Nó không chỉ có ý nghĩa địa chất mà còn 
có giá trị sinh thái, khảo cổ, lịch sử hay văn hóa. Một công viên địa chất đáp ứng cho 
việc phát triển kinh tế-xã hội đó là sự bền vững về mặt văn hóa và môi trường. Điều 
này tác động trực tiếp lên khu vực bởi sự cải thiện điều kiện sống của con người và 
môi trường nông thôn, như vậy, nó tăng cường nhận dạng dân số với khu vực và tạo 
nên sự phục hồi văn hóa. Một công viên địa chất quốc gia khi có đủ điều kiện sẽ được 
UNESCO công nhận là công viên địa chất toàn cầu. 
Bảng 2.5. Công viên địa chất toàn cầu 
STT Địa danh Năm Tỉnh 
1 Cao nguyên đá Đồng Văn 2010 Hà Giang 
Việt Nam có rất nhiều cao nguyên địa chất tiềm năng, tuy nhiên, điều này có ảnh 
hưởng đến khai thác khoảng sản và vật liệu xây dựng của các địa phương. Cần có sự 
đồng thuận của chính quyền và nhân dân địa phương trong công tác bảo vệ TNMT tại 
các công viên này. 
2.2. Di sản ASEAN 
Vườn di sản ASEAN là danh hiệu có giá trị để phát triển du lịch, nghiên cứu khoa học, 
văn hóa, giáo dục. Để được công nhận là vườn di sản, vườn quốc gia phải đảm bảo 
được các tiêu chí về tính tự nhiên, hoang dã, tính nguyên vẹn về hệ sinh thái, sự đa 
dạng và giá trị nổi bật quần thể. Các vườn di sản ASEAN phải thực thi và chịu trách 
nhiệm về các chính sách bảo tồn sinh vật quý hiếm sống trong khu vực Đông Nam Á. 
Bảng 2.6. Di sản ASEAN 
STT Địa danh Năm Tỉnh 
1 VQG Hoàng Liên 2003 Lào Cai 
2 VQG Ba Bể 2003 Bắc Cạn 
3 VQG Chư Mom Ray 2003 Kon Tum 
4 KBTTN Kon Ka Kinh 2003 Gia Lai 
6 
2.3. Các danh hiệu quốc gia 
2.3.1. Di sản quốc gia Việt Nam 
Năm 1962, Vịnh Hạ Long được Bộ Văn hóa – Thông tin Việt Nam xếp hạng di tích 
danh thắng – di sản cấp quốc gia với diện tích 1.553 km², bao gồm 1.969 hòn đảo. 
Các đảo trong vùng Vịnh Hạ Long được quy hoạch là Khu Bảo tồn các Di tích Văn 
hóa – Lịch sử và Cảnh quan Quốc gia, theo Quyết định số 313/VH-VP của Bộ Văn 
hóa – Thông tin Việt Nam ngày 28 tháng 4 năm 1962. Các đảo này cũng có trong danh 
sách các khu rừng đặc dụng theo Quyết định số 194/CT, ngày 9 tháng 8 năm 1986 
của Thủ tướng Chính phủ). 
Bảng 2.7. Di sản thiên nhiên quốc gia 
STT Địa danh Năm Tỉnh 
1 Vịnh Hạ Long 1962 Quảng Ninh 
2.3.2. Vườn quốc gia Việt Nam 
Theo Quyết định số 186/2006/QĐ-TTg, ngày 14 tháng 8 năm 2006 của Thủ tướng 
Chính phủ Việt Nam ban hành Quy chế quản lý rừng, thì vườn quốc gia là một dạng 
rừng đặc dụng, được xác định trên các tiêu chí sau: 
+ Vườn quốc gia là khu vực tự nhiên trên đất liền hoặc ở vùng đất ngập nước, hải 
đảo, có diện tích đủ lớn được xác lập để bảo tồn một hay nhiều hệ sinh thái đặc trưng 
hoặc đại diện không bị tác động hay chỉ bị tác động rất ít từ bên ngoài; bảo tồn các loài 
sinh vật đặc hữu hoặc đang nguy cấp. 
+ Vườn quốc gia được quản lý, sử dụng chủ yếu phục vụ cho việc bảo tồn rừng và 
hệ sinh thái rừng, nghiên cứu khoa học, giáo dục môi trường và du lịch sinh thái. 
+ Vườn quốc gia được xác lập dựa trên các tiêu chí và chỉ số: về hệ sinh thái đặc 
trưng; các loài động vật, thực vật đặc hữu; về diện tích tự nhiên của vườn và tỷ lệ diện 
tích đất nông nghiệp, đất thổ cư so với diện tích tự nhiên của vườn. 
Bảng 2.8. Danh hiệu vườn quốc gia 
TT Địa danh Năm Tỉnh 
1 Cúc Phương 1966 Ninh Bình, Thanh Hóa, Hòa Bình 
2 Tam Đảo 1986 Vĩnh Phúc, Thái Nguyên, Tuyên Quang 
3 Cát Bà 1986 Hải Phòng 
4 Ba Vì 1991 Hà Nội 
5 Bạch Mã 1991 Thừa Thiên Huế 
6 Yok Đôn 1991 Đăk Lăk 
7 Ba Bể 1992 Bắc Kạn 
8 Bến En 1992 Thanh Hóa 
7 
TT Địa danh Năm Tỉnh 
9 Cát Tiên 1992 Đồng Nai, Lâm Đồng, Bình Phước 
10 Côn Đảo 1993 Bà Rịa – Vũng Tàu 
11 Tràm Chim 1994 Đồng Tháp 
12 Hoàng Liên 1996 Lai Châu, Lào Cai 
13 Bái Tử Long 2001 Quảng Ninh 
14 Pù Mát 2001 Nghệ An 
15 Phong Nha – Kẻ Bàng 2001 Quảng Bình 
16 Phú Quốc 2001 Kiên Giang 
17 Xuân Sơn 2002 Phú Thọ 
18 Vũ Quang 2002 Hà Tĩnh 
19 Chư Mom Ray 2002 Kon Tum 
20 Kon Ka Kinh 2002 Gia Lai 
21 Chư Yang Sin 2002 Đăk Lăk 
22 Bù Gia Mập 2002 Bình Phước 
23 Lò Gò Xa Mát 2002 Tây Ninh 
24 U Minh Thượng 2002 Kiên Giang 
25 Xuân Thủy 2003 Nam Định 
26 Núi Chúa 2003 Ninh Thuận 
27 Mũi Cà Mau 2003 Cà Mau 
28 Bidoup Núi Bà 2004 Lâm Đồng 
29 Phước Bình 2006 Ninh Thuận 
30 U Minh Hạ 2006 Cà Mau 
Hệ thống vườn quốc gia là hệ thống được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn 
quản lý, công nhận, đã và đang là mô hình rất thành công trong công tác bảo vệ TNMT 
và cải thiện sinh kế của người dân. 
2.3.3. Khu dự trữ thiên nhiên 
Khu dự trữ thiên nhiên còn gọi là khu dự trữ tự nhiên (trên biển, trên đất liền và đất 
ngập nước) và khu bảo toàn loài sinh cảnh, khu được bảo vệ nghiêm ngặt, chỉ dành 
cho các hoạt động nghiên cứu khoa học, đào tạo và quan trắc môi trường, là vùng đất 
tự nhiên được thành lập nhằm mục đích đảm bảo diễn thế tự nhiên và đáp ứng các yêu 
cầu sau: vùng đất tự nhiên có dự trữ tài nguyên thiên nhiên và có giá trị đa dạng sinh 
học cao; có giá trị cao về khoa học, giáo dục, du lịch; có các loài động thực vật đặc 
hữu hoặc là nơi cư trú, ẩn náu, kiếm ăn của các loài động vật hoang dã quý hiếm; đủ 
8 
rộng để chứa được một hay nhiếu hệ sinh thái, tỷ lệ cần bảo tồn trên 70%. Có Khu Bảo 
tồn Thạnh Phú thuộc tỉnh Bến Tre chưa được vào danh sách quốc gia. 
Bảng 2.9. Danh hiệu khu dự trữ thiên nhiên 
TT Địa danh Năm Tỉnh 
1 Bắc Mê 1994 Hà Giang 
2 Du Già 1994 Hà Giang 
3 Tiền Hải 1994 Thái Bình 
4 Mường Nhé 1996 Điện Biên 
5 Phong Quang 1998 Hà Giang 
6 Bát Đại Sơn 2000 Hà Giang 
7 Chạm Chu 2001 Tuyên Quang 
8 Tây Yên Tử 2002 Bắc Giang 
9 Tây Côn Lĩnh 2002 Hà Giang 
10 Vân Long 2002 Ninh Bình 
11 Đồng Sơn – Kỳ Thượng 2003 Quảng Ninh 
12 Kim Hỷ 2003 Bắc Kạn 
2.3.4. Hệ thống khu bảo tồn biển Việt Nam 
Năm 2010, Chính phủ phê duyệt 16 khu bảo tồn biển giai đoạn 2010-2020 nhằm bảo 
tồn các tài nguyên môi trường và đa dạng sinh học biển và Khu Bảo tồn Biển Rạn 
Trào – Khánh Hòa (2003) là khu thứ 17 do Trung tâm Bảo tồn Sinh vật Biển và Phát 
triển Cộng đồng (MCD) – một tổ chức xã hội Việt Nam đầu tiên – hỗ trợ thành lập, Ủy 
ban nhân dân huyên Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa ra quyết định thành lập năm 2008 [5] 
Hiện các khu bảo tồn biển mới đang bước đầu hình thành, các phương tiện kỹ thuật 
bảo vệ giám sát TNMT tại các khu BTB còn chưa đầy đủ. Tiềm năng du lịch, sinh 
thái, nghiên cứu khoa học với các hệ sinh thái san hô, các loài động vật biển quý hiếm 
như rùa biển, bò biển, cá heo, cá mập là rất lớn. Những kết quả về bảo tồn biển của 
MCD cần được xem xét khen thưởng, tôn vinh như là tấm gương trong công tác bảo 
tồn biển và đa dạng hóa sinh kế người dân, nhằm thúc đẩy và phát triển công tác bảo 
tồn biển Việt Nam. 
Bảng 2.10. Khu bảo tồn biển 
STT Tên Năm Tỉnh 
1 Đảo Trần 2010 Quảng Ninh 
2 Cô Tô 2010 Quảng Ninh 
3 Bạch Long Vĩ 2010 Hải Phòng 
9 
4 Cát Bà 2010 Hải Phòng 
5 Hòn Mê 2010 Thanh Hóa 
6 Cồn Cỏ 2010 Quảng Trị 
7 Hải Vân – Sơn Trà 2010 Thừa Thiên Huế – Đà Nẵng 
8 Cù Lao Chàm 2010 Quảng Nam 
9 Lý Sơn 2010 Quảng Ngãi 
10 Nam Yết 2010 Khánh Hòa 
11 Vịnh Nha Trang 2010 Khánh Hòa 
12 Núi Chúa 2010 Ninh Thuận 
13 Phú Quý 2010 Bình Thuận 
14 Hòn Cau 2010 Bình Thuận 
15 Côn Đảo 2010 Bà Rịa – Vũng Tàu 
16 Phú Quốc 2010 Kiên Giang 
17 Rạn Trào 2003 Khánh Hòa 
3. XÂY DỰNG TIÊU CHÍ XẾP LOẠI, PHÂN TÍCH VÀ ĐÁNH GIÁ VỀ CÁC 
VÙNG CÓ DANH HIỆU TNMT 
3.1. Phân tích về các danh hiệu TNMT 
+ Sự đa dạng tên gọi các danh hiệu TNMT Việt Nam của quốc tế là 5, khu vực là 1, 
quốc gia là 4. 
+ Danh hiệu quốc tế nhiều nhất là danh hiệu khu dự trữ sinh quyển thế giới là 8, 
danh hiệu vịnh đẹp nhất thế giới với 3, danh hiệu di sản thế giới là 3. 
+ Danh hiệu quốc gia thì nhiều nhất là khu bảo tồn thiên nhiên với 120 danh hiệu, 
vườn quốc gia với 30 danh hiệu, khu bảo tồn biển 17 danh hiệu, sau đó là khu bảo tồn 
thiên nhiên với 120 danh hiệu. 
+ Trước năm 1990 (Bảng 3.1), rất ít danh hiệu Việt Nam, nhưng sau 1990, số danh 
hiệu tăng nhanh, kể cả quốc tế và quốc gia. Sau năm 2000, đặc biệt 2000-2010, số 
danh hiệu TNMT quốc tế gia tăng rất nhanh, chúng tỏ giá trị TNMT của Việt Nam có 
giá trị và sự quan tâm cao của quốc tế. 
+ Hầu như các danh hiệu về TNMT quốc tế đều đã có danh hiệu TNMT Việt Nam. 
+ Danh hiệu biển có cho 27 vùng ven biển, hải đảo; đất liền có 55 danh hiệu. 
Bảng 3.1. Phân loại danh hiệu TNMT các vùng địa lý Việt Nam 
Cấp bậc TT Danh hiệu Tổng 
10 
Quốc tế 1 Di sản thế giới 3 
2 Khu dự trữ sinh quyển thế giới 8 
3 Khu RAMSAR 3 
4 Vịnh đẹp nhất thế giới 3 
5 Công viên địa chất toàn cầu 1 
Khu vực 6 Di sản ASEAN 4 
Quốc gia 7 Di sản quốc gia Việt Nam 1 
8 Vườn quốc gia Việt Nam 30 
9 Khu dự trữ thiên nhiên 120 
10 Khu bảo tồn biển Việt Nam 17 
Tổng số 10 danh hiệu 82 
Bảng 3.2. Lịch sử danh hiệu TNMT Việt Nam 
STT Giai đoạn QG QT KV TS 
1 1960-1969 2 2 
2 1970-1979 0 
3 1980-1989 3 3 
4 1990-1999 14 1 15 
5 2000-2009 26 14 4 44 
6 2010- 16 1 17 
3.2. Đánh giá gía trị của danh hiệu TNMT đối với địa phương 
Thống kê các danh hiệu TNMT cho tất cả 63 tỉnh thành đến nay, Vịnh Hạ Long – danh 
hiệu quốc gia (theo Quyết định số 313/VHTT/QĐ ngày 28/4/1962 của Bộ Văn hóa – 
Thông tin), Vườn Quốc gia Cúc Phương được thành lập ngày 7/7/1962 tại QĐ/72-TTg 
và mới nhất là danh hiệu quốc tế Ramsar Ba Bể vừa được công nhận năm 2011. Tổng 
số 41 tỉnh thành Việt Nam có danh hiệu TNMT, 22 tỉnh không có danh hiệu TNMT 
nào. 18 tỉnh thành có danh hiệu quốc tế, 40 tỉnh có danh hiệu quốc gia, 4 tỉnh có danh 
hiệu khu vực. 
Để kịp có danh hiệu quốc tế Ramsar, UBND tỉnh Bắc Kạn đã rất quan tâm kêu gọi các 
nhà khoa học, các tổ chức quốc tế hỗ trợ thông tin và Cục Bảo tồn Đa dạng Sinh học 
lập hồ sơ trình Ban Công ước Ramsar nhận danh hiệu này nhanh nhất. Danh hiệu 
Ramsar có thể sẽ sớm đến với Tràm Chim, Đồng Tháp nếu sớm được đồng thuận của 
UBND tỉnh Đồng Tháp đối với công tác bảo tồn thiên nhiên [7]. 
Các danh hiệu quốc tế về TNMT sẽ làm gia tăng sự nổi tiếng về TNMT của vùng, tuy 
nhiên sẽ làm xáo trộn cuộc sống và công tác của địa phương. Việc này đòi hỏi cam kết 
11 
mạnh mẽ của chính quyền và cộng đồng trong công tác xây dựng qui chế quản lý, điều 
hành, hướng dẫn và các công tác sinh kế, xây dựng cơ sở hạ tầng tiếp đón, giao thông 
lưu trú cho khác du lịch, các nhà đầu tư, các nhà khoa học trong và ngoài nước. 
Triệt để quan tâm, pháp chế hóa công tác kinh doanh tại các khu vực có danh hiệu, để 
tránh xảy ra các sự cố như đắm tàu, gây chết nhiều người nước ngoài tại Vịnh Hạ 
Long (2011), sự cố rác tại bãi biển Vịnh Nha Trang (2010-2011), xăm lốp thải tại Vịnh 
Lăng Cô (2010), hay bám đuổi khách du lịch tại Phong Nha – Kẻ Bàng (2010) 
( 
3.3. Tác động vùng có danh hiệu TNMT đến phát triển kinh tế-xã hội-môi trường 
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu toàn cầu có thể sẽ tác động mạnh tới cảnh quan, đa 
dạng sinh học và TNMT của Việt Nam. Bảo vệ, quản lý và sử dụng tốt các khu có 
danh hiệu TNMT sẽ là một giải pháp ứng phó thích hợp. 
Về văn hóa cộng đồng, một vấn đề mà nhiều du khách đã phàn nàn là ý thức về bảo vệ 
môi trường di sản của khách du lịch và của cộng đồng địa phương còn chưa cao, chưa 
xây dựng được hình ảnh, thương hiệu du lịch cho các khu danh hiệu TNMT hiện đại, 
văn minh và lịch sự. Vẫn còn hiện tượng người ăn xin đeo bám khách du lịch, ảnh 
hưởng tới môi trường du lịch. Việc giáo dục, tuyên truyền để nâng cao nhận thức trong 
mỗi người dân; sự hạn chế các khu lưu trú nghỉ dưỡng; nỗ lực kiểm soát theo tiêu 
chuẩn du lịch sinh thái và quy định bảo tồn thiên nhiên và môi trường đối với tất cả 
các khu danh hiệu TNMT đang là những vấn đề lớn đặt ra nhiều thách thức với chính 
quyền các địa phương. 
Biện pháp bảo vệ, bảo tồn tại vùng có danh hiệu TNMT. Nhằm ngăn chặn sự tác động 
tiêu cực của con người đến thiên nhiên vùng Vịnh Hạ Long, chính quyền tỉnh Quảng 
Ninh đã cấm các loại xuồng máy cao tốc phục vụ du khách trong khu vực Vịnh để bảo 
vệ môi trường và đa dạng sinh học trong vùng Vịnh. Đồng thời, tỉnh Quảng Ninh cũng 
thực hiện di dời các hộ dân sinh sống trên các vạn chài vào đất liền để bảo vệ môi 
trường nước của vịnh Hạ Long; cấm bốc dỡ than đá trong khu vực di sản để chống ô 
nhiễm bụi than và bùn than cho Vịnh theo khuyến cáo của UNESCO. Tại Vịnh, một số 
người dân đã có ý thức tự nguyện giữ gìn cảnh quan, thông qua việc lập tổ hợp tác tự 
nguyện thu gom và xử lý rác thải. Vịnh Hạ Long theo có 5 danh hiệu (1 quốc gia, 4 
quốc tế) nên môi trường và cảnh quan ở đây cũng đã được cải thiện đáng kể. Quản lý 
tài nguyên và môi trường ở vịnh Hạ Long có sự tham gia của cộng đồng địa phương, 
có sự giám sát của các tổ chức quốc tế và của cơ quan quản lý cấp quốc gia, của 
phương tiện thông tin đại chúng. Nếu Vịnh Hạ Long được thêm danh hiệu Kỳ quan thế 
giới mới thì sẽ cần gia tăng thêm biện pháp bảo vệ-bảo tồn thiên tại khu vực vịnh và 
lân cận tốt hơn. 
Từ thí dụ của Vịnh Hạ Long cho ta thấy, các khu danh hiệu TNMT Việt Nam nếu 
được quản lý tốt sẽ có tác động rất tốt tới kinh tế-xã hội-môi trường của địa phương và 
quốc gia, phục vụ Chiến lược phát triển bền vững quốc gia [4]. 
12 
3.4. Xây dựng tiêu chí đánh giá năng lực (uy tín) của tỉnh, địa phương về thực tế 
bảo vệ TNMT 
Bước đầu xét đến danh hiệu đang hiện có, các tiêu chí và xếp hạng sau có thể bổ sung 
các khu bảo tồn thiên nhiên cấp tỉnh, huyện, khu vực; về cam kết của chính quyền địa 
phương, của cộng đồng địa phương, hành động thực tế đối với các công tác bảo vệ 
TNMT, các chính sách, sự quan tâm của các tổ chức bảo tồn tài nguyên, bảo vệ môi 
trường. 
3.4.1. Tiêu chí 
+ Danh hiệu quốc tế về TNMT có ảnh hưởng rất lớn đối với toàn cầu cho nên sẽ 
cho danh hiệu TNMT quốc tế cho 5 điểm, danh hiệu ASEAN sẽ đánh giá mức độ là 3 
điểm, danh hiệu quốc gia cho 1 điểm (thang điểm và tiêu chí này sẽ bổ sung hoàn 
thiện). 
+ 15-20 điểm thuộc hạng I, 10-14 thuộc hạng II, 5-10 điểm hạng III, 1-5 hạng IV, 0 
điểm hạng V. 
3.4.2. Xếp hạng 
0 điểm: loại V – Không có danh hiệu nào 
1-5 điểm: loại IV – có danh hiệu được biết đến 
6-10 điểm: loại III – Danh hiệu thiên nhiên nổi tiếng 
11-15 điểm: loại IV- Danh hiệu TNMT rất nổi tiếng 
16-20 điểm: loại I – Danh hiệu TNMT đặc biệt nổi tiếng. 
Theo các tiêu chí như vừa nêu để xếp hạng va đã thu được kết quả (Bảng 3.3). 
Bảng 3.3. Xếp thứ tự và hạng các tỉnh năm 2011 theo danh hiệu TNMT 
Tỉnh QT KV QG Tổng số Điểm Thứ tự Hạng 
Quảng Ninh 3 0 5 8 20 1 I 
Lâm Đồng 2 0 2 4 12 2 II 
Nam Định 2 0 1 3 11 3 II 
Bắc Kạn 1 1 2 4 10 4 II 
Hà Giang 1 0 5 6 10 5 II 
Hải Phòng 1 0 3 4 8 6 III 
Khánh Hòa 1 0 3 4 8 7 III 
Kiên Giang 1 0 3 4 8 8 III 
Bình Phước 1 0 2 3 7 9 III 
Cà Mau 1 0 2 3 7 10 III 
Ninh Bình 1 0 2 3 7 11 III 
13 
Tỉnh QT KV QG Tổng số Điểm Thứ tự Hạng 
Thừa Thiên Huế 1 0 2 3 7 12 III 
Đồng Nai 1 0 1 2 6 13 III 
Nghệ An 1 0 1 2 6 14 III 
Quảng Bình 1 0 1 2 6 15 III 
Quảng Nam 1 0 1 2 6 16 III 
Thái Bình 1 0 1 2 6 17 III 
TP. HCM 1 0 0 1 5 18 III 
Gia Lai 0 1 1 1 4 19 IV 
Kon Tum 0 1 1 2 4 20 IV 
Lào Cai 0 1 1 2 4 21 IV 
Ninh Thuận 0 0 3 3 3 22 IV 
Bà Rịa – Vũng Tàu 0 0 2 2 2 23 IV 
Bình Thuận 0 0 2 2 2 24 IV 
Đăk Lăk 0 0 2 2 2 25 IV 
Thanh Hóa 0 0 2 2 2 26 IV 
Tuyên Quang 0 0 2 2 2 27 IV 
Bắc Giang 0 0 1 1 1 28 IV 
Đà Nẵng 0 0 1 1 1 29 IV 
Đồng Tháp 0 0 1 1 1 30 IV 
Điện Biên 0 0 1 1 1 31 IV 
Hà Nội 0 0 1 1 1 32 IV 
Hà Tĩnh 0 0 1 1 1 33 IV 
Hòa Bình 0 0 1 1 1 34 IV 
Lai Châu 0 0 1 1 1 35 IV 
Phú Thọ 0 0 1 1 1 36 IV 
Quảng Ngãi 0 0 1 1 1 37 IV 
Quảng Trị 0 0 1 1 1 38 IV 
Tây Ninh 0 0 1 1 1 39 IV 
Thái Nguyên 0 0 1 1 1 40 IV 
Vĩnh Phúc 0 0 1 1 1 41 IV 
An Giang 0 0 0 0 0 42 V 
14 
Tỉnh QT KV QG Tổng số Điểm Thứ tự Hạng 
Bạc Liêu 0 0 0 0 0 43 V 
Bắc Ninh 0 0 0 0 0 44 V 
Bến Tre 0 0 0 0 0 45 V 
Bình Dương 0 0 0 0 0 46 V 
Bình Định 0 0 0 0 0 47 V 
Cao Bằng 0 0 0 0 0 48 V 
Cần Thơ 0 0 0 0 0 49 V 
Đăk Nông 0 0 0 0 0 50 V 
Hà Nam 0 0 0 0 0 51 V 
Hải Dương 0 0 0 0 0 52 V 
Hậu Giang 0 0 0 0 0 53 V 
Hưng Yên 0 0 0 0 0 54 V 
Lạng Sơn 0 0 0 0 0 55 V 
Long An 0 0 0 0 0 56 V 
Phú Yên 0 0 0 0 0 57 V 
Sóc Trăng 0 0 0 0 0 58 V 
Sơn La 0 0 0 0 0 59 V 
Tiền Giang 0 0 0 0 0 60 V 
Trà Vinh 0 0 0 0 0 61 V 
Vĩnh Long 0 0 0 0 0 62 V 
Yên Bái 0 0 0 0 0 63 V 
3.5. Nhận xét, đánh giá về thứ tự và hạng các tỉnh thành Việt Nam năm 2011 của 
các tỉnh theo điểm danh hiệu TNMT 
Theo danh sách xếp hạng thì Hà Nội chỉ đứng hạng cuối thứ 28-43, đồng hạng với Hòa 
Bình, Phú Thọ. Tỉnh Bắc Cạn vừa nhận danh hiệu Ramsar lên đã thăng cả thứ tự lên 
thứ 3 (hơn 15 bậc) và hạng II, nếu không có danh hiệu Ramsar thì Ba Bể chỉ đứng ở 
thứ 18 và hạng III. 
15 
Hình 3.1. Bản đồ xếp hạng năm 2011 các tỉnh Việt Nam về danh hiệu TNMT 
Cao nhất là tỉnh Quảng Ninh; TP. Hồ Chí Minh đứng thứ 18. Hạng I – Quảng Ninh, 
Hạng II – IV tỉnh Lâm Đồng, Nam Định, Bắc Kạn, Hà Giang, TP. Hồ Chí Minh hạng 
III, Hà Nội hạng IV. Các thứ hạng sẽ của các tỉnh sẽ thay đổi rất nhanh theo các danh 
hiệu được công nhận. 
22 tỉnh không có danh hiệu nào – xếp hạng V. 
Nếu năm 2011, Vườn Quốc gia Tràm Chim trở thành Khu Ramsar thì Đồng Tháp sẽ 
tăng 20 bậc và 1 hạng. Điều này chứng tỏ nếu có sự quan tâm của chính quyền và cộng 
16 
đồng địa phương trong công tác bảo tồn thiên nhiên và làm hồ sơ nhận danh hiệu thì 
sự thay đổi thứ tự và hạng là rất nhanh từ năm này sang năm khác. 
Trong các miền thì miền Trung hầu như các tỉnh đều có danh hiệu, ngoại trừ 2 tỉnh 
Bình Định và Phú Yên. Miền Bắc và miền Nam còn có nhiều tỉnh chưa có danh hiệu 
nào. 
Tỉnh Quảng Ninh có thứ tự rất cao, chắc khó có tỉnh nào có thể vượt trong ngắn hạn. 
Nếu Quảng Ninh, Hải Phòng kết hợp thì vùng này sẽ có đến 28 điểm, tạo thành vùng 
rất danh tiếng quy mô toàn cầu. Thực tế, vùng biển Quảng Ninh, Hải Phòng rất có thể 
kết hợp là 1 kỳ quan thiên nhiên Việt Nam và có thể đẳng cấp thế giới. Chúng ta có thể 
xem xét việc thiết lập 1 luật riêng cho vùng biển và đảo Quảng Ninh, Hải Phòng, sẽ 
gia tăng vị thế TNMT của cả Việt Nam. 
Tốp 10 vùng điểm cao nhất với Vịnh Hạ Long đứng đầu, Xuân Thủy đứng thứ 2, Cát 
Tiên đứng thứ 3, Ba Bể (với danh hiệu TNMT năm 2011) đứng thứ 4. Cát Bà, Cù Lao 
Chàm, Phú Quốc đồng hạng, Nha Trang, Phong Nha, Pù Mát đồng hạng 8-10. 
Vị trí xếp hạng tương đối phản ánh đúng với thực tế về sự quan tâm của quốc tế, trong 
nước về các thành tích bảo tồn thiên nhiên và thương hiệu danh hiệu quốc tế TNMT. 
Bảng 3.4. Xếp hạng 10 vùng địa lý có điểm danh hiệu TNMT cao 
STT Tên vùng DH QT KV QG TS Điểm Hạng 
1 Vịnh Hạ Long 3 1 4 16 1 
2 Xuân Thủy 2 1 3 11 2 
3 Cát Tiên 2 1 3 11 3 
4 Ba Bể 1 1 1 3 9 4 
5 Cát Bà 1 2 3 7 5 
6 Phú Quốc 1 2 3 7 6 
7 Cù Lao Chàm 1 2 3 7 7 
8 Nha Trang 1 1 2 6 8 
9 Phong Nha – Kẻ 
Bàng 
1 1 2 6 9 
10 Pù Mát 1 1 2 6 10 
Nếu Vịnh Hạ Long được thêm danh hiệu kỳ quan thế giới mới, thì thứ hạng của Hạ 
Long sẽ cao hơn và số 1 sẽ lâu mới bị mất. Đây là cơ hội lớn cho Hạ Long và tỉnh 
Quảng Ninh. 
17 
4. THẢO LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 
+ Danh hiệu vùng địa lý Việt Nam về TNMT rất đa dạng và phong phú cấp quốc 
gia và quốc tế. 
+ Sự đa dạng các danh hiệu TNMT Việt Nam, của quốc tế là 5, khu vực là 1, quốc 
gia là 4. 
+ Cần phát huy và nhân rộng tấm gương của vùng có danh hiệu như Vịnh Hạ Long, 
Vịnh Nha Trang. Đặc biệt tổ chức phi chính phủ hay tổ chức xã hội (như MCD tại Rạn 
Trào) cũng được huy động vào công tác bảo tồn danh hiệu là rất phù hợp và họ cần 
phải được ghi nhận và tôn vinh. Như thế, chúng ta sẽ có rất nhiều khu có danh hiệu 
mới, có tác động tích cực tới công tác quản lý và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi 
trường. Bên cạnh đó, cũng cần lưu ý đến mặt trái của sự vinh danh các danh hiệu thiên 
nhiên và môi trường có thể gây khó khăn cho các quy hoạch phát triển. 
+ Chưa có cơ quan, tổ chức cấp quốc gia theo dõi, giám sát, quản lý về các vùng 
bảo tồn thiên nhiên hay vùng có danh hiệu TNMT và cả về danh hiệu TNMT. Còn các 
danh hiệu khác do các bộ ngành, địa phương quản lý, khu sinh quyển không cơ quan 
nào quản lý. 
+ Tuy nhiên, chưa có quy chế cập nhật thông tin, báo cáo hàng năm còn rất bất cập 
về tình hình tài nguyên thiên nhiên và môi trường tại các khu bảo vệ, bảo tồn, tình 
hình phát triển kinh tế, xã hội. 
4.1. Đề xuất đối với các vùng có danh hiệu TNMT Việt Nam 
+ Cần lựa chọn tên cho các vùng này: Kỳ quan (công viên) thiên nhiên Việt Nam. 
+ Cần có nghiên cứu cơ chế, chính sách, pháp lý về các danh hiệu cấp quốc gia, cấp 
tỉnh, cấp huyện và các giải pháp hỗ trợ cho địa phương. 
+ Cần có cơ chế khuyến khích, tôn vinh các cá nhân, tổ chức xã hội, dân sự tham 
gia vào xây dựng, quản lý các vùng có danh hiệu kỳ quan thiên nhiên. 
+ Cần thành lập một cơ cấu tổ chức thống nhất cấp quốc gia (thuộc Bộ Tài nguyên 
và Môi trường) để xác định, quy hoạch, kế hoạch, chiến lược phát triển, công nhận và 
quản lý, khuyến khích và tôn vinh các khu bảo tồn thiên nhiên Việt Nam và hợp tác 
quốc tế. 
+ Cần công nhận và có cơ chế, mô hình quản lý và khai thác tài nguyên đặc biệt cấp 
Nhà nước cho các vùng có danh hiệu TNMT, tiến tới thể chế hóa bằng pháp luật các 
vùng có tài nguyên đặc biệt này. 
+ Tổ chức truyền thông, phát triển du lịch sinh thái và cơ chế phù hợp cho các ban 
quản lý khu vực có danh hiệu và nâng cao hiệu quả sinh kế cho người dân vùng có kỳ 
quan thiên nhiên, đặc biệt cụ thể kinh tế và môi trường của các vùng và của các tỉnh có 
danh hiệu TNMT. Khi lãnh đạo địa phương, tỉnh thấy được tầm quan trọng của danh 
hiệu TNMT thì sẽ có ý thức ủng hộ việc xây dựng và bảo vệ thiên nhiên tại các khu 
vực có danh hiệu tài nguyên môi trường... 
18 
+ Việt Nam đã tham gia hội nhập quốc tế, nên vấn đề các vùng địa lý của Việt Nam 
có danh hiệu về bảo tồn thiên nhiên, di sản thiên nhiên, di sản địa chất, đặc biệt danh 
hiệu quốc tế có ý nghĩa ảnh hưởng lớn đến vùng đó và lân cận rất lớn, vì sau khi có 
danh hiệu quốc tế, sẽ có rất nhiều các nghiên cứu và phát hiện mới, gia tăng khách du 
lịch, xuất hiện nhiều vấn đề xã hội nhân văn mới đối với từng vùng, từng khu khác 
nhau. Vịnh Hạ Long, Phong Nha – Kẻ Bàng, Mỹ Sơn, Lăng Cô, Xuân Thủy, Nha 
Trang, Hội An, Cà Mau, Kiên Giang, Cần Giờ... đã trở thành các thương hiệu lớn cho 
du lịch, nghiên cứu và học thuật cho cộng đồng toàn thế giới. 
+ Chính quyền các tỉnh, địa phương cần có trách nhiệm, quan tâm đến công tác bảo 
vệ và phát triển các vùng có danh hiệu TNMT, và coi đó như là một định hướng phát 
triển kinh tế bền vững tỉnh, địa phương. 
+ Công bố trên phương tiện thông tin đại chúng về xếp hạng TNMT các tỉnh, các 
vùng nhằm nâng cao nhận thức bảo vệ, giữ gìn TNMT như tài nguyên quý giá của địa 
phương và cộng đồng. 
+ Bộ Tài nguyên và Môi trường, Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường có thể 
tham gia việc công nhận danh hiệu TNMT cho các khu vực do tư nhân, địa phương 
xây dựng nhằm bảo vệ các khu du lịch sinh thái. Kiến nghị Nhà nước hay quốc tế công 
nhận khi các khu đạt được tiêu chuẩn TNMT phù hợp. 
+ Đa dạng hóa danh hiệu TNMT cho cấp tỉnh, cấp huyện. 
+ Xem xét việc thiết lập một luật riêng cho vùng biển và đảo Quảng Ninh, Hải 
Phòng, sẽ gia tăng vị thế TNMT của cả Việt Nam. 
+ Xem xét xây dựng luật hay nghị định riêng cho các khu bảo vệ, bảo tồn thiên 
nhiên Việt Nam. 
+ Nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiên cách tính điểm, xếp hạng cho danh hiệu thiên 
nhiên, để có thể có công bố hàng năm về danh hiệu TNMT hàng năm. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Dư Văn Toán, 2010. Danh hiệu địa lý cho các vùng biển về tài nguyên và môi 
trường. Hội thảo khoa học “Môi trường và phát triển bền vững”. Trung tâm 
Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường, ĐHQGHN. 
2. ICEM, 2003. Báo cáo quốc gia của Việt Nam về các khu bảo tồn và phát triển. 
3. IUCN-SIDA, 2008. Hướng dẫn quản lý khu bảo tồn thiên nhiên. 
4. Nguyễn Thanh Tùng. Cảnh quan môi trường Vịnh Hạ Long được bảo vệ tốt. 
Ha-Long-duoc-bao-ve-tot-2155148/ (ngày 20/11/2011) 
5. MCD. Rạn Trào chính thức gia nhập mạng lưới các khu bảo vệ. 
 (ngày 30-8-2008) 
19 
6. Chương trình con người và sinh quyển Việt Nam. Mạng lưới các khu dự trữ sinh 
quyển thế giới tại Việt Nam.  
7. Hồ Ba Bể trở thành Khu Ramsar mới của VN.  (ngày 
1/6/2011) 
20 
Abstract 
VIETNAM TITLE OF NATURAL RESOURCES AND ENVIRONMENT: 
OPPORTUNITIES AND RANKINGS 
Du Van Toan1, Le Xuan Tuan1, Vu Thanh Chon1 and Pham Binh Quyen2 
1 Research Institute for Management Sea and Island 
2 Centre for Natural Resources and Environmental Studies, 
Vietnam National University, Hanoi 
This paper introduces the diversity of national and international titles for natural 
resources and environment (TONRE) have been preserved and developed in the 
Vietnam territory. Up to now, many areas of Vietnam have been awarded the TONRE, 
among them, especially with international titles, such as Ha Long Bay, Phong Nha – 
Ke Bang, Cat Ba, Dong Van, Xuan Thuy, Cu Lao Cham, Hoi An, Ca Mau, Ba Be, the 
Red River Delta, Western Nghe An..., effectively brought tremendous economic 
development after international title, and bring prestige to the government and people 
of the local natural conservation. The international TONRE have been recognized in 
Vietnam: 8 biosphere reserve, 3 world's most beautiful bay, 2 world heritage sites, 3 
RAMSAR sites, 1 global geological park, and 4 ASEAN heritage sites. Vietnam 
national TONRE have 30 national parks, more than 140 special-use forests, 16 marine 
protected areas. TONRE currently have no title in 22 provinces. The article initially 
put out the criteria for ranking TONRE for all 63 provinces and showed the interest of 
the local nature conservation, and the results showed Quang Ninh province and Ha 
Long Bay is ranked in the top position. This paper tests the proposed building TONRE 
criteria to assess the annual local capacity in conservation work aimed at propagating, 
educating information and raising awareness about environmental protection and 
sustainable development. 
View publication stats
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 danh_hieu_thien_nhien_va_moi_truong_viet_nam_co_hoi_va_xep_hang_0745_2065022.pdf danh_hieu_thien_nhien_va_moi_truong_viet_nam_co_hoi_va_xep_hang_0745_2065022.pdf