Sử dụng acepromazine (tên thương mại
Combistress, Prozil) trong thú y như một chất tiền
mê để phục vụ phẫu thuật gia súc trong điều trị hoặc
trong vận chuyển thú giống/thú cảnh/thú hoang nhằm
giảm stress, thời gian bán rã 72 giờ (3 ngày). Nếu gây
mê cho heo/bò để dễ bơm nước vào dạ dày chúng
hoặc để vận chuyển heo nái loại thải đến nơi GM
thì không được luật pháp cho phép vì sai mục đích
sử dụng, gây tồn dư cho người tiêu thụ. Đây có thể
xem như chất cấm vì không được phép sử dụng cho
heo/bò trước khi hạ thịt. Nếu nhà GM hoặc thương
lái cho rằng sử dụng chất gây mê giúp heo yên ngủ
trong vận chuyển hoặc không vùng vẫy trong khi hạ
thịt, thịt heo sẽ mềm, màu thịt hấp dẫn. Đó là những
lời ngụy biện cho hành vi phi đạo đức của người GM
cung cấp và kinh doanh thịt. Vậy thử hỏi tại sao nhà
vận chuyển thú sống không tạo điều kiện tốt cho
thú như xe thông thoáng, mật độ không chật chội,
chọn thời gian hành trình hợp lý và hợp thời tiết mỗi
vùng miền. Trong GM, nên cải thiện điều kiện GM
và quản lý GM tốt hơn. Thí dụ như nhốt giữ thú chờ
GM trong chuồng rộng thoáng, mát mẻ; trang bị thiết
bị tốt để kích ngất thú (bất tỉnh) và không trì hoãn
thời điểm lấy tiết nhằm giúp thú ít vùng vẫy, kêu la
trước khi máu không còn chảy ra nữa và thú đi vào
cái chết êm thấm. Trong vận chuyển thịt tươi đến nơi
phân phối/bán buôn bằng xe bảo ôn chuyên dụng và
treo móc thân thịt trong môi trường lạnh. Nơi phân
phối thịt luôn thỏa mãn yêu cầu nhiệt độ dưới 100C
để ức chế hoạt động enzym có sẵn trong hệ cơ (ức
chế sự tạo thành acid lactic, ức chế sự tích tụ các sản
phẩm oxit hóa) nhằm duy trì màu sắc, độ mềm và độ
giữ dịch chất của thịt tươi.
Tóm lại trước khi hành nghề, mỗi người cần
được trang bị kiến thức khoa học liên quan đến
ngành nghề, quy định pháp luật liên quan, các quy
định kỹ thuật buộc phải tuân thủ thực hiện cùng với
các chuẩn mực đạo đức quy định thái độ chủ quan
của người đang hành nghề đối với công việc và
sản phẩm của mình. Trong khi hành nghề, các quy
chuẩn nghề nghiệp phải được các hiệp hội/công ty
quy định cụ thể để mọi người theo đó mà tuân thủ
thực hành, các vi phạm phải kịp thời lên án và phê
phán nghiêm khắc. Đối với pháp luật phải đề ra các
biện pháp răn đe hoặc xử phạt một cách hết sức
mạnh mẽ nhằm làm gương và chế ngự/làm nhụt chí
các chủ thể/cá nhân có hành vi hoặc thái độ cố ý
làm sai. Mỗi cá nhân ý thức về việc cần phải làm
sao cho hợp với đạo lý làm người trong khi hành
nghề. Làm điều tốt và có lợi cho con người, con vật
và thiên nhiên, tránh làm điều có hại.
4 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 6 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đạo đức trong hành nghề chăn nuôi thú y, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
94
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXV SỐ 3 - 2018
ÑAÏO ÑÖÙC TRONG HAØNH NGHEÀ CHAÊN NUOÂI THUÙ Y
Nguyễn Ngọc Tuân và Trần Thị Dân
Khoa CNTY , Trường ĐH Nông Lâm TP HCM
Trong thời gian qua (2014-2016), thức ăn chăn nuôi chứa chất cấm, một số nơi sản xuất (SX)/mua
bán thuốc thú y không đạt tiêu chuẩn hoặc thuốc không có trong danh mục lưu hành (TT28/2014 và
TT10/2016-Phụ lục 2) của Bộ Nông nghiệp và PTNT ban hành, hoặc SX, phân phối chất cấm, một số
người cung cấp thú sống đến nơi giết mổ lại cố tình bơm nước vào thú để tăng khối lượng sống hoặc tiêm
chất gây mê cho heo trong khi vận chuyển/ trong lúc chờ hạ thịt (Tuổi trẻ ngày 21 và 22/3/2016). Ngoài
động cơ thu lợi bất chính, chúng ta thử xem xét các hành vi này dưới khía cạnh thực hành đạo đức của họ
ra sao. Do đó, bài viết cố gắng làm rõ các khái niệm về đạo đức trong hành nghề chăn nuôi thú y nhằm
đánh thức lương tâm con người của các bên tham gia lẫn biện pháp của luật pháp và sự nghiêm khắc thực
thi của cơ quan/nhân viên có liên quan.
1. Giới thiệu về đạo đức học (ethics)
Đạo đức học còn gọi là triết học về luân lý (moral
philosophy) hoặc môn học về đạo đức (morality), là
một nhánh của triết học. Thuật ngữ này bắt nguồn
từ tiếng Hy Lạp cổ (ethikos) với nghĩa nguyên thủy
là thói quen (habit, custom) (Wikipedia, 2015). Về
mặt chiết tự, đạo là con đường và đức là các tư chất
tốt (tính tốt); đó là con đường xây dựng và thực
hành các tính tốt suốt đời của mỗi cá nhân.
Đạo đức học thường được chia thành hai ngành
học chính, đó là đạo đức học mô tả (descriptive
ethics) hoặc đạo đức học ứng dụng (applied ethics)
và đạo đức học chuẩn mực (normative ethics). Đạo
đức học mô tả đề cập các quan niệm và thực hành
đạo đức của một cá nhân, nhóm người hoặc xã hội
bằng các phương pháp định tính hoặc định lượng
của xã hội học. Đạo đức học chuẩn mực nhằm trả
lời một cách có lý lẽ câu hỏi “đạo đức phải như thế
nào? “ (Huỳnh Tấn Tài, 2008).
Đạo đức học quan tâm hai lãnh vực chính. Đó
là thái độ (behavior) và đức tính/tư chất (character)
của mỗi người đối với người khác, kể cả đối với
thiên nhiên, động vật, cộng đồng và xã hội.
Trong lãnh vực thái độ, đạo đức học nhằm trả lời
việc cá nhân phải tỏ thái độ của mình như thế nào với
người khác, đối với sự việc /biến cố đó như thế nào
cho hợp đạo lý; hoặc không cần tỏ thái độ vì điều đó
đã hợp với luân lý. Như vậy, luân lý hoặc đạo lý là quy
luật cho con người và có chức năng cưỡng chế từ bên
trong. Khi vi phạm các quy luật luân lý, lương tâm giữ
vai trò của một quan tòa nội tâm. Ngược lại, pháp lý
(pháp luật và quan tòa) cưỡng chế con người từ bên
ngoài mà không nhất thiết đi kèm một động cơ nội
tâm nào cả (Bùi Văn Nam Sơn, 2010 được trích dẫn
bởi Trần Hữu Quang, 2014). Điều đó không có nghĩa
xem nhẹ vai trò của pháp luật mà còn khẳng định
trước hết trong xã hội (XH), con người, Nhà nước
phải thiết lập các luật lệ, bộ máy và nhân sự thực thi
nghiêm minh để điều chỉnh hành vi của các bên tham
gia, và cưỡng chế (nếu cần) bằng các hình thức nặng
như phạt tù. Khi cá nhân xấu hổ với hành vi của mình
là bước đầu của cảm giác lương tâm vì sợ bị XH/cộng
đồng phê phán hoặc khiếp sợ với những biện pháp răn
đe của pháp luật (động cơ bên ngoài). Chính sự phán
xét hành vi của mình, sự cưỡng chế từ bên trong mới
là lương tâm (động cơ bên trong). Cho nên thiên chức
nghề nghiệp cần được hiểu rằng nó bao gồm công việc
cho sinh kế cộng với lòng yêu nghề (đam mê) và ý
thức đạo đức nghề nghiệp. Chính lòng đam mê trong
lao động, và thông qua lao động mà họ kiến tạo hoặc
trở thành những con người sáng tạo. Sáng tạo trong
công việc để chủ thể được cống hiến nhiều cho đời và
cải tạo chính mình, làm cho mình trưởng thành hơn
(Trần Hữu Quang, 2014). Từ đó lương tâm trở thành
95
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXV SỐ 3 - 2018
quan toà nội tâm dẫn đường soi lối thái độ hành động
đúng, hợp luân lý.
Trong lãnh vực đức tính, đạo đức học trả lời các
tư chất nào cần thiết lập, rèn luyện như là đức tính
(virtues); tư chất nào cần tránh như là thói xấu (vices).
Các đức tính mà mỗi người cần có trong cuộc sống
có thể liệt kê như lắng nghe, tôn trọng, trách nhiệm,
chân thật, công bằng, lễ phép, trật tự, biết ơn, nhường
nhịn, tiết kiệm, dũng cảm, nghiêm túc, liêm chính,
tính quên mình, vị tha, hy sinh, chính trực, năng lực,
kiên nhẫn, giữ chữ tín, lịch sự.. Trong cuộc sống,
tùy theo hoàn cảnh mà ứng xử sao cho hợp đạo lý
làm người. Do đó, muốn làm người tốt, các đức tính
cần được thiết lập, kiến tạo và rèn luyện cho phù hợp
theo lứa tuổi, quá trình học tập và quá trình lao động.
Học suốt đời mang ý nghĩa đó. Thí dụ, tuổi mẫu giáo,
ngoài việc tập vận động, yêu thích thiên nhiên, nhà
trường phải hướng dẫn và tập cho các em biết cảm
ơn, tính tự lập, tự chủ, trật tự, biết nhường nhịn và
tôn trọng . Trong hoạt động ngành nghề chuyên
môn khác nhau có những đức tính cần rèn luyện đặc
biệt theo yêu cầu cho phù hợp công việc. Chẳng hạn
BSTY cần tận tâm, vị tha, tôn trọng và lắng nghe,
trách nhiệm, chính trực, không ngừng nâng cao kỹ
năng nghề nghiệp (năng lực).
Cần phân biệt giữa quy chuẩn nghề nghiệp và đạo
đức nghề nghiệp. Các quy chuẩn nghề nghiệp là hệ
thống các quy tắc và chuẩn mực pháp lý cũng như
quy định kỹ thuật mà người lao động buộc phải tuân
thủ và thực hiện nếu muốn theo một nghề nào đó (bộ
quy chuẩn này có thể do nhà nước, hiệp hội/tổ chức
nghề hoặc chủ công ty ban hành). Còn đạo đức nghề
nghiệp là hệ thống các chuẩn mực quy định thái độ
chủ quan của người lao động trong một ngành nghề
nào đó đối với công việc và sản phẩm của mình khi
hành nghề. Một cách khái quát, có thể hiểu rằng tinh
thần cốt lõi của đạo đức nghề nghiệp chính là thái
độ tận tâm, chuyên cần với công việc, vì chính công
việc mà không vì những mục đích bên ngoài. Thông
qua khái niệm này ta có thể hiểu được một cách sâu
xa ý nghĩa của lòng yêu nghề. Như vậy, nghề nghiệp
= việc làm + lòng yêu nghề và ý thức đạo đức nghề
nghiệp (Trần Hữu Quang, 2014).
2. Đạo đức thú y (veterinary ethics) và đạo đức
động vật (animal ethics)
Đạo đức thú y (ĐĐTY) là hệ thống các nguyên tắc
đạo đức áp dụng những giá trị và phán xét trong việc
thực hành nghề thú y. Như một môn hoc thuật, ĐĐTY
bao gồm cách áp dụng trong tiếp xúc lâm sàng cũng
như tìm hiểu lịch sử con bệnh, quan niệm và tín ngưỡng
của thân chủ, và các điều kiện xã hội khác có liên quan.
ĐĐTY kết hợp đạo đức (ĐĐ) hành nghề TY và ĐĐ
đối với con vật (animal ethics). Điều này có thể xem
như một châm ngôn then chốt trong hoạt động cung cấp
dịch vụ TY chuyên nghiệp đối với con vật. Ngày nay,
hầu hết các trường TY giảng ĐĐTY thường kết hợp
giảng dạy phúc lợi động vật hoặc với pháp luật.
Sau đây là các nguyên tắc cơ bản trong ĐĐTY
của Hiệp hội TYS Hoa Kỳ (AVMA), phúc lợi
động vật trong vận chuyển và giết mổ của Tổ chức
thế giới về sức khỏe động vật (OIE).
2.1. Các nguyên tắc đạo đức thú y của Hiệp hội
Thú y sỹ Hoa kỳ (AVMA, 2015)
1/ Thú y sỹ (TYS) luôn tận tâm và có năng lực
chăm sóc sức khỏe thú, với lòng vị tha và tôn trọng
phúc lợi động vật cũng như sức khỏe con người.
2/ TYS cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe lâm
sàng trong mối quan hệ giữa TYS - thân chủ - thú bệnh.
3/ TYS luôn giữ vững và nâng cao các tiêu
chuẩn nghề, thành thật trong quan hệ nghề nghiệp,
và báo cáo đến những tổ chức liên quan trong
trường hợp các đồng nghiệp còn thiếu tư chất
(character) hoặc thiếu năng lực (competence).
4/ TYS phải tôn trọng pháp luật và nhận thức
trách nhiệm theo dõi các thay đổi luật pháp và các
quy định có chiều hướng trái ngược với quyền lợi
tốt nhất của thú bệnh và sức khỏe con người.
5/ TYS luôn tôn trọng lẽ phải của khách hàng,
đồng nghiệp, và các nghề nghiệp khác liên quan
sức khỏe, và phải bảo mật các thông tin về sức
khỏe thú theo quy định của pháp luật.
6/ TYS không ngừng học tập, ứng dụng, và cập
nhật kiến thức khoa học, duy trì sự cam kết đối với
hoạt động giáo dục TY, sẵn sàng cung cấp thông
tin thích hợp đến khách hàng, đồng nghiệp, cộng
đồng, và sẵn sàng tư vấn hoặc cho ý kiến khi cần.
7/ Ngoại trừ trường hợp cấp cứu, TYS có
quyền chọn ai để phục vụ, ai cần liên kết, và có
quyền chọn môi trường để cung cấp dịch vụ chăm
sóc thú y trong điều kiện thích hợp.
96
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXV SỐ 3 - 2018
8/ TYS phải nhận thấy trách nhiệm tham gia
các hoạt động góp phần cải thiện cộng đồng và sức
khỏe dân cư tốt hơn.
9/ Khi TYS nhìn nhận, đánh giá và đối xử với mọi
người trong bất kỳ lãnh vực chuyên môn nào hoặc ở
bất kỳ hoàn cảnh nào thì chỉ là quan hệ giữa cá nhân
với cá nhân dựa trên khả năng, phẩm chất và đặc điểm
liên quan của chính bản thân những người này.
2.2. Quan tâm đến phúc lợi động vật trong khi
vận chuyển (OIE)
1/ Chuẩn bị cho việc vận chuyển tốt động vật
cùng với thức ăn và biện pháp quản lý thích hợp.
2/ Không vận chuyển những động vật ốm hoặc
bị thương.
3/ Cho động vật lên xe một cách nhẹ nhàng và
cẩn thận.
4/ Sử dụng các kỹ thuật ít gây căng thẳng
để lùa dẫn và vận chuyển động vật. Không vận
chuyển động vật bằng cách xếp chồng chất hoặc
làm chúng đau đớn.
5/ Không nhốt động vật quá chật trong xe hoặc
trong thùng/lồng nhốt.
6/ Cho động vật nghỉ ngơi trong quá trình vận
chuyển và sau vận chuyển đường dài. Đảm bảo cung
cấp đủ thức ăn, nước uống và chỗ nằm cho con vật.
7/ Không quẳng, kéo lê động vật hoặc thả rơi
động vật, kể cả thả rơi thùng/lồng nhốt động vật.
8/ Đảm bảo việc di chuyển nhẹ nhàng, êm ái để
tránh tổn thương và giảm căng thẳng cho con vật.
9/ Không để cho động vật phải chịu đựng căng
thẳng do nóng hoặc lạnh. Cần có hiểu biết về yêu
cầu nhiệt độ phù hợp cho từng loài/ hạng thú trong
các điều kiện vận chuyển khác nhau.
10/ Cung cấp không gian sạch và thông gió tốt
cho con vật trong quá trình vận chuyển. Giảm thiểu
hàm lượng khí a-mô-ni-ắc, bụi và mối nguy sinh học.
2.3. Quan tâm đến phúc lợi động vật trong khi
giết mổ (OIE)
1/ Cần có đủ năng lực, kiên nhẫn và cẩn trọng
trong suốt quá trình giết mổ (GM). Bao gồm cả khi
cho gia súc lên xe, di chuyển, chăm sóc, nghỉ ngơi,
và trong khi cố định, kích ngất (gây choáng), chọc
tiết và giết mổ con vật.
2/ Luôn lùa dẫn động vật một cách nhẹ nhàng
và thân thiện. Không lùa dẫn con vật theo cách làm
cho chúng khổ sở, đau đớn hoặc gây tổn thương
như đấm đá, đánh đập hoặc quẳng chúng.
3/ Cung cấp cơ sở vật chất an toàn và thích hợp
để giảm thiểu sự sợ hãi, căng thẳng cho con vật.
Tránh dồn ép, chồng chất con vật, vì điều này có
thể làm con vật té/ngã và bị thương.
4/ Bảo vệ con vật tại chuồng nghỉ ngơi chờ giết
(khu tồn trữ thú sống) tránh các tác động bất lợi
của thời tiết và đảm bảo đầy đủ thông khí, thời
gian và không gian để con vật có thể nằm nghỉ, ăn
và uống khi cần.
5/ Chủ động ưu tiên quản lý chăm sóc những
con vật yếu thế nhất, bao gồm cả việc giết mổ
khẩn cấp dành cho những con vật bị thương nặng
không thể đi lại được.
6/ Sử dụng phương pháp nhân đạo nhất để cố
định con vật. Tránh tạo áp lực quá mức, vì điều
này có thể làm con vật giãy giụa, kêu la.
7/ Đảm bảo phương pháp kích ngất hiệu quả
trước khi giết mổ để đảm bảo con vật bất tỉnh cho
đến lúc chết.
8/ Chọc tiết và giết mổ con vật sau khi gây bất
tỉnh càng nhanh càng tốt.
9/ Khẳng định con vật chết khi thấy không còn
thở, nháy mắt và chảy máu theo nhịp mạch trước
khi chuyển sang công đoạn trụng nước làm lông
hoặc lột da, xẻ thịt tiếp theo.
10/ Kiểm soát các bước thực hiện trong quá
trình giết mổ để đảm bảo đáp ứng các tiêu chuẩn
của Tổ chức thế giới về sức khỏe động vật (OIE)
và các quy định về phúc lợi động vật của Nhà
nước và cải tiến khi cần thiết.
Từ những khái niệm về đạo đức và tham khảo
các quy định của Tổ chức thế giới về sức khỏe
động vật và Hiệp hội TYS Hoa Kỳ đã góp phần lý
giải được các hiện tượng đã nêu trong phần đầu của
bài viết này. Thí dụ đưa chất tạo nạc clenbuterol,
salbutamol vào trong thức ăn nuôi heo thịt bởi nhà
sản xuất thức ăn, bởi người nuôi heo, bởi sự tư vấn
của các nhà phân phối thuốc TY hoặc nghe theo
sự dụ dỗ của thương lái là hành vi phi đạo đức.
97
KHOA HỌC KỸ THUẬT THÚ Y TẬP XXV SỐ 3 - 2018
Bởi vì theo quy định của Nhà nước (TT28/2014
và TT10/2016: PL2 BNN&PTNT), đó là các chất
cấm, chất không được phép sử dụng vào thức ăn
chăn nuôi heo. Đó là hành vi vi phạm pháp luật
cần phải được xử lý thật nghiêm khắc.
Còn hành vi bơm nước vào heo/bò, trâu trước
khi giết mổ (GM) hoặc trước khi chuyển đến nơi
GM thì sao? Trong chăn nuôi heo nói chung, nước
được người nuôi cấp hằng ngày theo nhu cầu của
chúng. Thậm chí, heo tập trung về chuồng chờ GM
thì chúng vẫn được tiếp cận nước sạch đến ngay
trước khi gây bất tỉnh. Điều đó nghĩa là chúng sử
dụng nước như một nhu cầu cơ thể. Tuy nhiên,
ai đó cố tình ép chúng tiếp nhận một lượng nước
vượt mức nhu cầu, chẳng hạn như bơm nước vào
dạ dày với bất cứ lượng nước nhiều hay ít thì đó là
một hành vi không được phép (gian lận). Hành vi
làm tăng khối lượng cơ thể trước khi bán thú sống
cho người GM thịt hoặc tăng lượng nước trong
khối thịt trước khi đến tay người tiêu dùng là hành
vi gian dối trong mua bán. Nếu cầm cột heo, bắt
heo/bò vào chuồng ép, khớp mõm heo để bơm
nước là hành vi không được chấp nhận đối với thú
hạ thịt, vi phạm phúc lợi động vật (06/3/2018 phát
hiện bơm nước vào heo trước GM tại trạm trung
chuyển gia súc ở xã Tân Phú Tây, Mỏ Cày Bắc,
Bến Tre; 21/3/2018 tại điểm trung chuyển heo ở
phường Long Bình, TP Biên Hòa, Đồng Nai; ngày
03/4/2018 tại Vĩnh Lợi, Bạc Liêu)
Sử dụng acepromazine (tên thương mại
Combistress, Prozil) trong thú y như một chất tiền
mê để phục vụ phẫu thuật gia súc trong điều trị hoặc
trong vận chuyển thú giống/thú cảnh/thú hoang nhằm
giảm stress, thời gian bán rã 72 giờ (3 ngày). Nếu gây
mê cho heo/bò để dễ bơm nước vào dạ dày chúng
hoặc để vận chuyển heo nái loại thải đến nơi GM
thì không được luật pháp cho phép vì sai mục đích
sử dụng, gây tồn dư cho người tiêu thụ. Đây có thể
xem như chất cấm vì không được phép sử dụng cho
heo/bò trước khi hạ thịt. Nếu nhà GM hoặc thương
lái cho rằng sử dụng chất gây mê giúp heo yên ngủ
trong vận chuyển hoặc không vùng vẫy trong khi hạ
thịt, thịt heo sẽ mềm, màu thịt hấp dẫn. Đó là những
lời ngụy biện cho hành vi phi đạo đức của người GM
cung cấp và kinh doanh thịt. Vậy thử hỏi tại sao nhà
vận chuyển thú sống không tạo điều kiện tốt cho
thú như xe thông thoáng, mật độ không chật chội,
chọn thời gian hành trình hợp lý và hợp thời tiết mỗi
vùng miền. Trong GM, nên cải thiện điều kiện GM
và quản lý GM tốt hơn. Thí dụ như nhốt giữ thú chờ
GM trong chuồng rộng thoáng, mát mẻ; trang bị thiết
bị tốt để kích ngất thú (bất tỉnh) và không trì hoãn
thời điểm lấy tiết nhằm giúp thú ít vùng vẫy, kêu la
trước khi máu không còn chảy ra nữa và thú đi vào
cái chết êm thấm. Trong vận chuyển thịt tươi đến nơi
phân phối/bán buôn bằng xe bảo ôn chuyên dụng và
treo móc thân thịt trong môi trường lạnh. Nơi phân
phối thịt luôn thỏa mãn yêu cầu nhiệt độ dưới 100C
để ức chế hoạt động enzym có sẵn trong hệ cơ (ức
chế sự tạo thành acid lactic, ức chế sự tích tụ các sản
phẩm oxit hóa) nhằm duy trì màu sắc, độ mềm và độ
giữ dịch chất của thịt tươi.
Tóm lại trước khi hành nghề, mỗi người cần
được trang bị kiến thức khoa học liên quan đến
ngành nghề, quy định pháp luật liên quan, các quy
định kỹ thuật buộc phải tuân thủ thực hiện cùng với
các chuẩn mực đạo đức quy định thái độ chủ quan
của người đang hành nghề đối với công việc và
sản phẩm của mình. Trong khi hành nghề, các quy
chuẩn nghề nghiệp phải được các hiệp hội/công ty
quy định cụ thể để mọi người theo đó mà tuân thủ
thực hành, các vi phạm phải kịp thời lên án và phê
phán nghiêm khắc. Đối với pháp luật phải đề ra các
biện pháp răn đe hoặc xử phạt một cách hết sức
mạnh mẽ nhằm làm gương và chế ngự/làm nhụt chí
các chủ thể/cá nhân có hành vi hoặc thái độ cố ý
làm sai. Mỗi cá nhân ý thức về việc cần phải làm
sao cho hợp với đạo lý làm người trong khi hành
nghề. Làm điều tốt và có lợi cho con người, con vật
và thiên nhiên, tránh làm điều có hại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Văn Nam Sơn, 2010. Các nguyên lý của
triết học pháp quyền của Hegel. Nxb Tri thức.
2. Huỳnh Tấn Tài, 2008. Y đức và đạo đức y
khoa. Đại học Illinois tại Chicago, Mỹ.
3. Principles of Veterinary Medical Ethics of the
AVMA”. www.avma.org. Retrieved 20/10/2017
4. Trần Hữu Quang, 2014. Luận về đạo đức nghề
nghiệp. Thời báo Kinh tế Sài Gòn, 31/01/2014.
5. Wikipedia, 2015.
6. Ethics. From https://en.wikipedia.org/wiki/Ethics
Các file đính kèm theo tài liệu này:
dao_duc_trong_hanh_nghe_chan_nuoi_thu_y.pdf